Giáo xứ Lộc Thủy

GIÁO XỨ LỘC THỦY

Vào những năm 1850, đã có những tín hữu đầu tiên từ các làng thuộc phường chài Trúc Vọng như: Thanh Dạ, Bến Nậy (Cự Tân), Vĩnh Yên… Họ đã quy tụ về Cồn Tro, cùng nhau sinh cư bằng nghề chài lưới, xây dựng những ngôi nhà nguyện đơn sơ bằng mái tranh vách đất, để gieo vãi hạt giống đức tin trên mảnh đất này.

Năm 1914, giáo xứ Thanh Dạ được tách từ xứ mẹ Cẩm Trường. Cha Nguyễn Tấn (I) làm chánh xứ Thanh Dạ tiên khởi. Năm 1917, khoảng gần 200 tín hữu thuộc làng chài Cồn Tro và làng chài Ngã Ba được sáp nhập vào nhau thành giáo họ Cồn Tro, giáo xứ Thanh Dạ, hạt Thuận Nghĩa. Lúc này, giáo họ Cồn Tro được giáo họ Cự Tân nhượng lại cho  ngôi nhà thờ bằng gỗ, đặt dưới sự bảo trợ của Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Đến năm 1935, dưới thời linh mục Giuse Quy quản xứ Thanh Dạ, giáo họ được đổi tên thành giáo họ Lộc Thủy.

Năm 1938, cha Phùng Viết Mỹ, phó xứ Thanh Dạ đã đồng ý cho giáo họ Lộc Thủy nhận tước hiệu thánh Phêrô làm quan thầy để phù hợp hơn với hoàn cảnh làm nghề chài lưới của giáo dân. Dù mới thành lập nhưng do hoàn cảnh địa lý không thuận tiện cho việc đi lại nên năm 1942, thừa sai Phêrô Khanh, quản hạt Thuận Nghĩa, đã lập sở truyền giáo tại Hạ Lân (Quỳnh Liên). Ngài đã xin Đức Giám mục cho tách hai họ của giáo xứ Thanh Dạ là Xuân An và Lộc Thủy để nhập vào giáo họ Hạ Lân mới, lập thành giáo xứ Hạ Lân. Lúc bấy giờ, do điều kiện lịch sử với nhiều biến động xã hội xảy ra vào thời điểm đó (1954) đã làm tan rã giáo xứ Hạ Lân. Giáo họ Lộc Thủy lại trở về với xứ mẹ Thanh Dạ.

Năm 1960, cha Lê Hữu Cát, quản xứ Thanh Dạ, đã cùng giáo dân họ Lộc Thủy bắt tay vào xây dựng ngôi nhà thờ mới. Do hoàn cảnh lịch sử tác động và điều kiện tự nhiên bất lợi, công trình xây dựng nhà thờ đã gặp rất nhiều trở ngại. Khó khăn chồng chất khó khăn, khi công trình còn dang dở thì năm 1971, cha Lê Hữu Cát buộc phải ra đi nhưng thánh ý Chúa đã vượt thắng tất cả, ngài không hề bỏ rơi con cái mình, đặc biệt là trong hoàn cảnh khó khăn nhất.

Năm 1973, cha Phêrô Trần Văn Ngoạn về quản xứ Thanh Dạ lại tiếp tục công trình nhưng công trình chưa được hoàn thành thì Chúa đã gọi ngài về và công việc xây dựng ngôi thánh đường thứ tư này đã không được hoàn thành như mong muốn.

Năm 1994, cha Phêrô Nguyễn Văn Bá về quản xứ Thanh Dạ đã cùng giáo họ Lộc Thủy quyết định xây dựng ngôi nhà thờ mới trên một nơi khác, ý nguyện đó đã được Chúa thương chúc lành. Ngày 1/4/1996, ngôi thánh đường mới được khởi công xây dựng. Với tinh thần đoàn kết, hy sinh, cần cù chịu khó của toàn thể thành phần dân Chúa trong giáo họ, cùng với sự giúp đỡ của ân nhân xa gần, sau hơn 2 tháng, ngày 6/7/1996, chủ chăn giáo phận đã về dâng thánh lễ tại giáo họ và chủ sự lễ đặt viên đá xây dựng ngôi thánh đường thứ 5 của giáo họ Lộc Thủy. Đến ngày 4/7/2000, ngôi thánh đường đã được khánh thành trong niềm vui của toàn thể con cái trong giáo họ.

Niềm vui nối tiếp niềm vui. Ước mơ trở thành một dân riêng với một vùng đất độc lập và có một đền thờ như dân Israen xưa của giáo dân giáo họ Lộc Thủy đã được Chúa thương nhận lời. Dưới sự hướng dẫn của cha quản xứ Thanh Dạ lúc bấy giờ là cha Phêrô Nguyễn Văn Bá, Ban Hành giáo họ đã làm đơn xin thành lập giáo xứ, lá đơn đề ngày 20/11/2003, sau 5 năm chờ đợi, vào ngày 5/7/2008, giáo họ Lộc Thủy nhận được quyết định thành lập xứ với cha quản xứ tiên khởi là linh mục Gioan B. Nguyễn Duy An, OFM.

Ngày 12/3/2017, tân giáo hạt Vàng Mai được thành lập, tách từ giáo hạt mẹ Thuận Nghĩa. Giáo xứ Lộc Thủy thuộc về giáo hạt mới Vàng Mai.

Về với Lộc Thủy hôm nay, chúng ta có thể nhận thấy rất rõ giáo xứ vẫn thể hiện một sức sống đạo mãnh liệt qua đời sống bác ái, phụng vụ, qua các đoàn thể Công giáo tiến hành: Dòng Ba Phan Sinh, Giới Trẻ Con Đức Mẹ, Hội Bác Ái, Giới Trẻ Phan Sinh, Gia Đình Thánh Tâm, Thiếu Nhi Thánh Thể. Nhiều mầm non ơn gọi vẫn đang ngày đêm miệt mài học tập, trau dồi đạo đức để tiếp bước bao thế hệ tiền nhân, làm vẻ vang truyền thống sống đạo nơi mảnh đất này.

Địa chỉ: Xã Quỳnh Bảng, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Quản xứ đương nhiệm: Linh mục Gioan B. Đinh Công Đoàn.

Số giáo dân trong giáo xứ (năm 2018): 2.367