CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN, NĂM A
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Ed 18, 25-28; Pl 2, 1-11; Mt 21, 28-32
- Trở lại
- Thực thi ý Chúa
- Dám nói, dám làm
- Ngôn hành như nhất – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
- Rất cần cho một lần hoán cải – Anmai
- Cải thiện cuộc sống – Lm. Ignatiô Trần Ngà
- Nói và làm
- Ngôn hành bất nhất – Thiên Phúc
- Công chính hoá – Lm Vũ Đình Tường
- Chúa Nhật 26 TN A
- Dụ ngôn hai người con Chúa
- Vâng lời – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
- Nói và làm – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
- Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
- Người vâng lời Thiên Chúa
- Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
- Tôi khám phá ra 3 điều khác lạ
- Hối hận nên lại đi
- Một đường cái quan – Achille Degeest
- Vâng lời và hành động
- Suy niệm của Charles E. Miller
- Lời nói đi đôi với việc làm
- Lời mời gọi cứu rỗi
- Thực hành đường lối Chúa
- Nói vâng với Thiên Chúa
- Thái độ vâng phục
- Sẵn sàng tin
- Vâng phục Thiên Chúa
- Nói và Làm
- Tuân theo ý Chúa
- Thánh ý Chúa
- Nói làm
- Biết nhìn lại mình
- Không và có
- Không và có
- Có và không
- Suy niệm của Lm Đan Vinh
- Kinh nghiệm trong căn phòng khách sạn
- Thức tỉnh trở về – Lm. Nguyễn Bình An
- Nó hối hận và đi làm – Lm. Nguyễn Tiến Huân
- Nguy cơ tự mãn – JB. Nguyễn Minh Hùng
- Suy niệm của JKN
- Tôi khám phá ba điều khác lạ
- Biết nhận ra sai lỗi và hối hận
- Ghen tỵ – Lm. Nguyễn Ngọc Long
- Hành động tốt thắng câu nói hay
- Nói – Làm
- “Những người thu thuế và gái điếm
- Nghe và làm – Lm. FX. Vũ Phan Long
- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
- Chú giải theo Fiches Dominicales
- Suy niệm của Noel Quession
- Chúa Nhật 26 TN A
- Suy niệm của Fr. Jude Siciliano
- Thái độ cảnh tỉnh
- Gái điếm vui vẻ vào Nhà Cha
- Suy niệm của Lm Giuse M. Nguyễn Hưng Lợi
- Đức tin và hành động
- Hai con đường – Sr Mai An Linh, OP
- Ai ngoan nhất? – Lm Ansgar Phạm Tĩnh
- Người vâng lời đích thực
- Lời nói phải đi đôi với việc làm
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đặt chúng ta trước một người cha hiền lành và nhân hậu truyền bảo hai người con của mình đi làm vườn nho. Thực vậy, hình ảnh người cha này chính là hình ảnh Thiên Chúa của Đức Kitô, hoàn toàn trái ngược với hình ảnh Thiên Chúa mà các thượng tế đã giới thiệu cho người Do Thái.
Đúng thế, người ta thường hay vẽ ra một Thiên Chúa thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán, khác hẳn với hình ảnh Thiên Chúa do Đức Kitô mạc khải, là một người cha nhân từ và tha thứ. Ngay cả lệnh truyền của Ngài cũng chỉ là một lời mời gọi: Hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha.
Thái độ của hai người con cũng trái ngược nhau một cách đặc biệt. Hình ảnh hai người con có lẽ đã diễn tả được tính chất mâu thuẫn của hai quan niệm biết Chúa và sống đạo.
Người con thứ nhất khẳng định tự do của mình bằng tiếng không với cha anh. Nhưng sau đó, anh đã suy nghĩ lại và đã quy thuận, đặt tự do của mình phục vụ lợi ích chung của gia đình qua việc thi hành ý muốn của cha. Có một sự giằng co trong chọn lựa của anh. Để thực thi ý muốn của cha, anh đã phải can đảm từ bỏ cách sử dụng tự do theo tính tự phát của cái tôi ích kỷ, của những sở thích, những dục vọng đi ngược lại với hạnh phúc chung của gia đình xã hội.
Trái lại người con thứ hai từ đầu đến cuối đã tỏ ra bất nhất, vô trách nhiệm đối với ích lợi chung và chỉ biết có mình. Câu trả lời của anh ta: Thưa cha vâng, thật ra chỉ là một câu nói hình thức, dửng dưng, máy móc nhằm mục đích đánh lừa người cha. Anh ta không yêu mến cha mình và do đó cũng tỏ rõ mình là người ích kỷ, không thể yêu thương bất cứ một ai khác. Vì tình yêu không ở trong những điệu bộ khách sáo, đầu môi chót lưỡi mà phải đi vào hành động đi vào việc làm.
Trong thực tế, phần đông chúng ta đều cảm thấy khó mà thực thi ý Chúa bởi vì nó ngược với sở thích vị kỷ cá nhân của mình. Thái độ tránh né vốn là thái độ thường tình, nhất là khi gặp phải khổ đau và thử tháchy. Phải chấp nhận sự trăn trở, giằng co, chiến đấu với bản thân rồi mới nhìn ra thánh ý Chúa và can đảm thực hành. Giá trị cuộc đời chúng ta chủ yếu là nhờ sự phản tỉnh và quay trở lại cùng Chúa.
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy còn đầy dẫy những chuyện bê bối, tiêu cực, chẳng hạn, vấn đề tham nhũng, trộm cắp và những tội phạm hình sự. Có lúc ở rất gần chúng ta, ngay bên trong giáo xứ và biết đâu, ngay bên trong bản thân chúng ta. Thử hỏi chúng ta phải làm gì? khoanh tay lên án theo kiểu Pharisêu hay kiên trì hành động, làm cho tình trạng nói không với Chúa, trở thành tình trạng nói có với Chúa, bằng một lòng xác tín vào tình thương tha thứ của Ngài. Bởi vì Ngài luôn luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, nếu chúng ta biết sám hối quay trở về với Ngài. [Mục Lục]
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đã trao ban cho con người sự tự do. Và với sự tự do này, con người có thể bước theo Chúa nhưng cũng có thể quay lưng chống lại Ngài. Con người có thể vâng theo thánh ý Chúa nhưng cũng có thể từ khước đường nẻo của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng hơn đó là Thiên Chúa sẽ xử sự với chúng ta tuỳ theo việc chúng ta có hay không thực thi thánh ý Ngài, chứ không tuỳ thuộc vào lời nói của chúng ta.
Trong hai người con, người được coi là đã thực thi ý định của cha không phải là người đã mau mắn trả lời vâng trước lệnh truyền của cha, nhưng trong hành động thì lại không làm. Mà chính là người tuy đã trả lời không, nhưng trong thực tế lại đi làm điều người cha truyền dạy.
Trong xã hội thời Chúa Giêsu cũng như thời nay, vẫn có những hạng người tỏ ra ngoan đạo, công chính, siêng năng với các việc đạo đức, kinh hạt, nhà thờ nhà thánh. Lời nói thì đầy vẻ thuần phục đối với các giáo huấn của Chúa, nhưng trong hành động lại chẳng có chút vẻ gì là ưng thuận đối với điều Chúa truyền dạy. Những người bề ngoài xem ra dễ bảo, nhưng thực chất lại là người khó dạy. Họ đã có thể đánh lừa được dư luận vì cái mau mắn bên ngoài của họ.
Trong xã hội thời Chúa Giêsu, những người này tượng trưng nơi hàng tư tế, đầu mục, nhóm biệt phái và thông luật. Tuy đánh lừa được dư luận, nhưng thực ra, họ đã đánh mất chỗ của họ trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Thế vào chỗ của họ lại là những người thu thuế, những gái điếm, những người mà ai cũng biết là đang vị phạm ý Chúa, được bày tỏ trong lề luật và trong giới răn của Ngài. Họ là những người qua lối sống của mình, đã nói không trước lệnh truyền của Chúa. Nhưng một lúc nào đó, những người này đã nhận ra sự sai trái của mình, đã biết hối cải và đi làm điều Chúa truyền dạy. Họ là những người đã được giáo huấn và những việc làm của Ngài lay động, làm thức tỉnh, thay đổi hẳn cuộc sống. Họ là người đàn bà xứ Samaria, đã gặp Chúa bên giếng nước; là ông Giakêu, được Chúa viếng thăm; là bà Maria, đã xức dầu cho Chúa; là tên trộm cướp bị đóng đinh bên cạnh Chúa; là tất cả những kẻ tội lỗi biết hối cải. Vấn đề chính yếu là làm theo ý Chúa.
Thế nhưng, người ta lại thường hay tự mãn với một nhãn hiệu, một dấu chỉ bên ngoài nào đó. Chẳng hạn vốn tự hào là người công giáo ngoan đạo, chúng ta khó mà nghĩ đến việc trở lại, mở rộng cửa tâm hồn đón nhận cái mới, cái bất ngờ, cái chưa được nghe biết bao giờ.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy trở ngại lớn nhất trên đường vào Nước Trời không phải là tội lỗi mà là sự ngủ mê giữa những tiêu chuẩn đạo đức được chúng ta dựng nên, sự sợ hãi phải đặt lại vấn đề những cái đã là chúng ta đã xác tín. Tuy nhiên, có đặt lại vấn đề như thế, chúng ta mới nhận biết được thánh ý Chúa và mới đi đúng con đường Chúa muốn chúng ta đi. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài thơ viết rằng:
Hãy nhớ nhé!
– Nếu không làm được… thì đừng hứa.
– Nếu không chắc… thì đừng nói.
– Nếu không thương, không yêu… thì đừng gieo hi vọng.
Bởi vì:
– Tình yêu là cảm xúc, là lí trí của con tim.
Vậy nên:
– Đừng nhẫn tâm giẫm lên con tim người khác…!
Nhưng đáng tiếc con người lại thích hứa mà lại không đủ ý chí để làm. Thích nói mà không đủ quảng đại để thực thi lời nói. Thế nên, giữa lời hứa và việc thực hiện vẫn còn một khoảng cách rất gần và cũng rất xa, vì nó tùy ở tại lòng người.
Trong cuộc đời dường như ai cũng từng hứa hẹn, và rồi cũng từng thất hứa. Vì cuộc sống vốn nhiều bất trắc khó lường. Rất nhiều giấc mơ dang dở. Rất nhiều mộng ước vỡ tan. Cuộc đời không bình phẳng mà lấm gập ghềnh trái ngang. Thế nên, vẫn còn đó những giấc mộng không thành, và vẫn còn đó những lời hứa chìm vào quên lãng theo dòng thời gian.
Đôi khi những lời hứa của chúng ta chỉ là “lời nói gió bay”, vì nói cho vui, vì cũng chẳng ai quan tâm tới lời hứa của chúng ta. Tuy nhiên, cũng có những lời hứa mang đến cho người khác hy vọng, niềm tin,nghị lực để đứng vững trong cuộc sống. Có những lời hứa là động lực để người ta phấn đấu, hay đơn giản chỉ là niềm vui nho nhỏ khi được quan tâm, yêu thương…
Người ta càng đặt nhiều niềm tin vào những lời hứa thì càng dễ hụt hẫng khi người khác thất hứa. Hy vọng càng nhiều thì nỗi thất vọng sẽ càng lớn…
Tại sao lại phải hứa khi biết rõ mình chẳng bao giờ thực hiện được lời hứa?
Tạo sao phải gieo vào lòng nhau những hy vọng để rồi chính mình lại lấy đi hy vọng đó?
Có biết bao cô gái tin vào lời hứa của chàng trai mà nhẹ dạ trao thân để rồi ôm hận mãi mãi.
Có biết bao chàng trai đã từng thất vọng vì bạn gái bội thề.
Có biết bao người quá tin người mà ôm nợ, ôm hận thiên thu.
Có biết bao người đã từng hứa từ bỏ rượu chè, cờ bạc, ngoại tình… nhưng hứa đó rồi lại quên, vẫn chứng nào tật ấy!
Có biết bao lần chúng ta cũng hứa với Chúa rất nhiều nhưng lại chẳng bao giờ thực hiện. Hứa đó rồi quên. Hứa chừa tội mà tội vẫn cứ phạm. Phạm tội không chỉ một lần mà rất nhiều lần trong cuộc sống.
Chúa Giêsu luôn đề cao người dám thực hiện lời hứa. Có thể là muộn màng nhưng vẫn còn tốt hơn là người nói mà không làm. Nói mà không giữ lấy lời như lâu đài xây trên bờ cát, sóng xô, gió cuốn thì nào ích gì?
Con người luôn có lầm lỡ. Điều quan yếu là biết nhận lỗi và sửa lỗi. Tựa như người con thứ đã từng quay lưng với lời mời gọi của cha mẹ, nhưng anh ta đã hối hận và sửa sai. Nhưng đáng trách là người con cả, chỉ nói mà không làm. Hứa cuội mà không thực hiện. Đó là con người không đáng tin trong cuộc sống.
Năm xưa, Quí Tử đi sứ nước Tấn có mang thanh bảo kiếm, qua thăm vua nước Từ.
Vua nước Từ ngó hoài thanh kiếm ra dáng yêu thích lắm, lòng tuy muốn xin mà miệng chẳng tiện nói ra….
Qúi Tử vì còn phải đi sứ thượng quốc, tuy chưa tặng vua Từ thanh kiếm được, nhưng trong lòng đã thầm hứa cho, khi đi sứ xong!
Sau khi xong việc, về thăm vua nước Từ thì vua Từ đã mất!!! Quí Tử liền tháo thanh kiếm đưa cho sứ quân vua Từ. Các người hầu ngăn lại:
– Bảo kiếm này là Báu Vật của nước nhà, không phải là món quà có thể tặng được!!! Mong tướng quân suy xét kỹ việc này….
– Lần ghé trước đây, vua Từ xem kiếm của ta, tuy chưa nói ra, nhưng lòng dường như rất yêu thích. Ta vì còn phải đi sứ thượng quốc, chưa dâng được. Tuy vậy trong lòng ta đã hứa cho. Vua Từ nay đã mất, ta vẫn giữ lời hứa mình vì nếu không, ta đã tự dối tâm mình. Tiếc kiếm mà thất hứa, dối tâm… người liêm không bao giờ làm!!!
Nói xong, Quí Tử tháo thanh kiếm đưa cho sứ quân của Từ Vương!
Sứ quân nói: “Vua tôi không có dặn việc này, tôi thiệt không dám nhận kiếm.”
Quí Tử bèn treo kiếm vào cành cây ở mộ vua Từ, rồi đi.
Người nước Từ ai cũng khen Quí Tử đã không quên lời hứa, ngay cả với người đã mất!!
Ước gì chúng ta luôn là người đáng tin với anh em khi dám thực thi lời hứa, cho dù có chịu thiệt thòi vẫn không chối bỏ lời hứa. Xin cho chúng ta cũng biết lắng nghe và thực thi lời Chúa, cho dù vì thực thi lời Chúa mà chúng ta có thể thua thiệt đời này nhưng chúng ta sẽ có một gia tài vô cùng to lớn trên quê trời. Amen. [Mục Lục]
Vào năm 1992, tại tiểu bang Georgia – Hoa Kỳ. Xảy ra một câu chuyện có thể gọi được là “cười ra nước mắt”.
Một bà mẹ 73 tuổi bị chính đứa con trai của mình kiện vì bà không trả cho anh ta tiền công sửa chiếc xe tải của bà. Sau đó, bà mẹ đã đệ đơn tố cáo ngược lại con mình với lời đề nghị là anh ta phải bị đánh đòn vì lúc anh ta còn nhỏ bà đã không áp dụng câu tục ngữ: “Thương con cho roi cho vọt”.
Vào ngày 6 tháng 7 năm 1992, anh thợ sửa xe ô tô tên là Kê-nêt Ar-gut đã đệ đơn tại tòa sơ thẩm để thưa mẹ anh và đòi tòa ra lệnh cho bà thanh toán hóa đơn 2,613 đô la tiền sửa xe mà bà đã từ chối không chịu trả cho anh.
Trả lời cho đơn người con trai kiện mình, bà An-sen Ar-gut đã viết như sau: “Nguyên cáo đã mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một bà mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, nấu ăn, giặt giũ, y tá, một nhà tâm lý để cố vấn, khuyên nhủ, an ủi, v.v… Tất cả những dịch vụ trên, nguyên cáo đã không trả tiền công bị cáo”. Bà Ar-gut còn viết tiếp:
“Như một bà mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh đòn con tôi, những cú roi rất cần thiết cho nó mà tôi đã thất bại không cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi”.
Đó là nỗi đau của một bà mẹ bị con khước từ. Nó đã không còn nhận bà là mẹ. Nó đòi bà phải trả tiền như bao khách hàng khác. Chính trong nỗi đau đó, Bà mẹ Argus hối tiếc vì đã không dạy con từ nhỏ nên mới lãnh lấy hậu quả hôm nay.
Và hôm nay trong số những người trẻ sì ke ma túy, ăn chơi thác loạn, rửa tiền của cha mẹ đều thuộc diện cha mẹ lo làm ăn, thiếu quan tâm giáo dục con cái, và điều tệ hại nhất là nuông chiều con cái quá mức đến hư thân. Sinh con ra ai cũng mong con mình tài đức, hiếu thảo hiền ngoan, nhưng để được vinh dự đó, không thể cho nó lớn lên một cách tự nhiên, cẩu thả lười biếng và vô độ ngay từ nhỏ, mà con cái chỉ có thể lớn lên thành người từ sự giáo dục cẩn trọng của cả cha lẫn mẹ.
Có lẽ, nỗi đau lớn nhất của cha mẹ là con cái không vâng lời cha mẹ. Nỗi bất hạnh tột cùng nhất của cha mẹ là con cái bất hiếu và phản loạn đối với công ơn dưỡng dục sinh thành. Kinh nghiệm của cha ông ta vẫn thường nói: “Uốn cây uốn thuở còn non – Dạy con dạy thuở còn thơ”. Con cái cần được dạy cho biết sống vâng lời ngay từ thuở nhỏ, lớn lên mới có hy vọng biết sống theo lời hay lẽ phải. Có những bậc cha mẹ nuông chiều con cái đến độ thay vì dẫn dắt con cái theo ý mình, họ lại luôn chiều theo ý con. Có những bậc cha mẹ quá dễ dãi, thường hay xí xóa những thói hư tật xấu của con, tưởng rằng lớn lên nó tự biết sửa đổi. Có những bậc cha mẹ giáo dục con cái nhưng “ngôn hành bất nhất”, khiến con cái học đòi tính “nói một đàng làm một lẻo”, thất hứa, thất tín với gia đình và với xã hội.
Nỗi lòng của cha mẹ đau khổ vì con cái thế nào, thì nỗi lòng của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy. Thiên Chúa sẽ không vui khi thấy con người chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ rất buồn khi con người sống buông mình trong những đam mê thấp hèn mà đánh mất nhân tính của con người. Thiên Chúa sẽ rất đau khổ khi thấy con người bỏ Chúa để tôn thờ thụ tạo thấp hèn hơn con người.
Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con. Cả hai đều không phải là người con ngoan thực sự. Người con thứ nhất tuy lúc đầu cãi lời cha mẹ nhưng sau hối hận lại đi làm ngay. Người con thứ hai thuộc diện “ba phải”, dạ vâng rồi lại không làm.
Người con đầu là hình ảnh anh em lương dân. Họ không theo đạo nhưng họ lại sống ăn ngay ở lành. Họ sống theo lề luật của Thượng Đế được ghi khắc trong lương tâm. Họ là người ngoại đạo “nhưng tin có Chúa ở trên cao”. Họ làm điều thiện và tránh điều ác vì tin rằng “Ông Trời có mắt”.
Người con đầu cũng là hình ảnh người tội lỗi được ơn trở về cùng Chúa. Họ sám hối và làm lại cuộc đời của mình bằng việc sống và thực thi giới răn của Chúa.
Người con thứ hai có thể là hình ảnh của chính chúng ta. Tuy môi miệng vẫn xưng mình là con Thiên Chúa nhưng lại không sống theo giáo huấn của Chúa. Vẫn ngoại tình, trộm cắp, cờ bạc, rượu chè. Sống thiếu công bình và bác ái trong lời nói lẫn hành động. Có những người nói rất hay nhưng lại không thực hiện những điều mình nói. Có những người bề ngoài rất đạo đức nhưng trong lòng lại chất chứa đầy tính gian tham, lừa đảo…
Đã có một lần Chúa Giêsu từng nói: “không phải những ai thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai biết lắng nghe và thực thi lời Chúa mới xứng đáng hưởng Nước Trời.
Xin Chúa giúp chúng ta biết “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người. Amen. [Mục Lục]
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe sao mà nó hay quá! thiết thực quá! và cũng rất đời thường quá. Câu chuyện trong trang Tin Mừng Chúa Giêsu kể hôm nay, thật sinh động, thiết thực và lôi cuốn người nghe. Thiết thực, sinh động, lôi cuốn nhất là với những bậc làm cha làm mẹ. Làm cha làm mẹ thì có cái quyền trên con cái của mình. Khi có quyền thì cha mẹ cũng có cái quyền sai khiến con mình mà đặc biệt là sai đi làm công việc nhà, công việc trong gia đình vì con cái phải đồng trách nhiệm trong gia đình của mình. Và sự thật, kết quả hết sức là buồn cười vì nó ngược lại với cái nghĩ, cái sự vâng lời từ ban đầu giữa hai người con.
Làm cha làm mẹ, ai ai cũng khó chịu với cái cách của người con thứ nhất: ban đầu bảo không đi nhưng rồi lại đi. Còn người con thứ hai thì ngược lại: bảo đi nhưng lại không đi. Chuyện cũng hết sức là thường tình với bậc cha mẹ, đó là cha mẹ thích người con vâng lời hơn là người con không vâng lời. Vấn đề Chúa muốn nói lên trong câu chuyện này đó là thái độ, là tâm tình hoán cải của người con thứ nhất.
Vấn đề hoán cải chúng ta được nghe rất rõ trong sách ngôn sứ Edêkien: “Đây Chúa phán: Các ngươi đã nói rằng: ‘Đường lối của Chúa không chính trực’. Vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây: Có phải đường lối của Ta không chính trực ư? Hay trái lại đường lối của các ngươi không chính trực? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết”.
Vậy thì ai là người cần hoán cải? Những người sống tốt, sống công chính thì chẳng cần phải hoán cải. Chỉ những ai phạm tội, những ai vấp ngã, những ai yếu đuối thì mới cần hoán cải để được sống.
Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta. Chắc có lẽ, không ai trong chúng ta dám nhận rằng mình là người hoàn thiện, là người công chính. Trái lại trong chúng ta, ai cũng rất cần được một lần hoán cải để nhận được sự sống, ơn cứu độ từ Thiên Chúa.
Thật buồn cười! Bao nhiêu lần xúc phạm đến Chúa, xúc phạm đến anh chị em đồng loại, chúng ta cảm thấy xấu hổ, chúng ta cảm thấy ăn năn thống hối và quyết chừa cải, nhưng rồi con người yếu đuối chúng ta lại vấp ngã. Như Thánh Phaolô đã trải lòng ra cho chúng ta: “Điều tôi biết là tốt thì tôi lại không làm, điều tôi biết là xấu thì tôi lại cứ làm!”. Trong thâm tâm của chúng ta luôn luôn có sự giằng co giữa điều thiện và điều ác. Chẳng ai trong chúng ta muốn phạm tội, chẳng ai trong chúng ta muốn làm điều ác cả, nhưng sao mà ác quỷ nó cứ thúc đẩy chúng ta.
Chúng ta nhớ, trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi mà chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại đấy, con người phạm nhiều tội lắm nhưng mà Chúa Giêsu nhắc cho chúng ta hai thứ tội căn bản, hai loại người mà xã hội Do Thái thường hay kết án đó là gái điếm và thu thuế!
Chẳng cần phải định nghĩa, ai ai trong chúng ta cũng biết bản chất của gái điếm là gì rồi! Có thể, chẳng ai muốn làm điếm cả nhưng vì hoàn cảnh đưa đẩy, vì yếu đuối nên mới làm cái nghề nhục nhã này. Biết là tội đấy nhưng hình như không còn lối thoát, không còn cách nào khác để rồi phải chấp nhận sống trong cái tội đáng chê đáng ghét này.
Thu thuế! Nói đến chuyện thuế má thì ở thời đại nào cũng không mấy ai thích đóng thuế cả. Thoạt đầu, thuế chính là trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân trên đất nước mình sống, nhưng chính trong cái cách thu thuế, nộp thuế không minh bạch sao ấy, đã để lại trong mắt mọi người cái nhìn không thiện cảm về người thu thuế, nào là tham lam, gian dối, và thu vén thật nhiều cho riêng mình v.v…
Chúa Giêsu nói với thượng tế và kỳ lão đấy nhưng thật sự Chúa đang nói với mỗi người chúng ta: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Chúa Giêsu muốn nói lên rằng những người gái điếm và thu thuế đó sẽ vào Nước Thiên Chúa trước chúng ta vì sao? Vì họ biết hoán cải.
Trở lại vấn đề, tất cả nó nằm ở chính sự hoán cải. Dù tội lỗi như thế nào, xấu xa kinh khủng như hai hạng người tệ hại nhất mà người Do Thái lên án và ghét bỏ đi chăng nữa nhưng biết hoán cải thì cũng sẽ được cứu. Tệ hại nhất như đứa con ban đầu thoạt nghe là bất hiếu, là không vâng lời đi chăng nữa nhưng sau đó biết hoán cải thì cũng sẽ làm hài lòng người cha của mình hơn.
Hoán cải! Nói thì dễ nhưng thật sự nó không phải là hành vi đơn giản, dễ dàng. Mấy ai trong chúng ta đã hoán cải dù biết rằng mình cần phải hoán cải để được cứu. Lý do: Muốn hoán cải thì điều kiện cương quyết, điều kiện căn cốt nhất đó chính là thái độ phải nhìn ra chính mình, nhìn thẳng vào cái tôi của mình nhưng điều này thật khó làm trong tiến trình hoán cải.
Trước hết, ai ai cũng bảo thủ, ai ai cũng muốn bảo vệ cái danh dự của mình, không muốn cho ai biết cái xấu, cái khuyết điểm của mình thì làm sao mà hoán cải được. Điều này rất khó vì ai ai cũng mang trong mình một cái vỏ bọc bề ngoài rất kiên cố và sợ người khác biết được cái vỏ bọc bên trong của mình, sợ xấu hổ.
Kế đến là mình có nhận ra đó là điều xấu, đó là điều dở cần phải khắc phục hay không? Điều này cần phải được huấn luyện, được giáo dục để có một lương tâm ngay thẳng, một lương tâm trong sáng, một lương tâm đích thực. Một người nào đó sống trong một lương tâm mù quáng thì không thể nào nhận ra những lầm lỗi của mình cả.
Muốn có được được những điều ấy, muốn thực hành một cuộc hoán cải cuộc đời mình thì điều kiện cần thiết nhất mà mỗi người chúng ta phải có đó chính là thái độ khiêm nhường. Càng khiêm nhường bao nhiêu thì càng dễ hoán cải bấy nhiêu. Mà thực tế, chúng ta thấy những người kiêu ngạo thì khó có thể thay đổi con người mà thậm chí càng ngày càng lún sâu trong tội mà người kiêu ngạo đã phạm.
Nói về sự khiêm nhường, Thánh Phaolô đã nhắc cho chúng ta trong đoạn thư gửi giáo đoàn Philipphê mà cộng đoàn chúng ta vừa nghe: “Anh em chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình, mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô”.
Trong Đức Kitô như thế nào? Xin thưa: “Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”.
Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn vào gương Đức Giêsu và sống như Đức Giêsu đã sống. Ngài nói, Ngài dạy chúng ta nhưng chính Ngài đã sống: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Đức Kitô”. “Tôi không muốn biết điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập giá” (1 Cr 2,2).
Nếu chúng ta mặc lấy trong mình sự khiêm hạ thì chúng ta sẽ dễ dàng hoán cải đời mình, nếu chúng ta kiêu căng thì không bao giờ sửa mình được.
Phận người chúng ta mang trong mình biết bao nhiêu là yếu đuối, biết bao nhiêu là đổ vỡ nên cần lắm sự hoán cải. Nếu không hoán cải thì những người sống chung quanh chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta sẽ rất vất vả vì chúng ta, thế nên chúng ta rất cần đến ơn hoán cải nơi mỗi người chúng ta.
Ít nhiều trong chúng ta vẫn thường cư xử với với Chúa, với anh chị em đồng loại mà gần nhất là với cha, với mẹ, với chồng, với con, với thành viên trong cộng đoàn chúng ta theo kiểu người con thứ hai là bề ngoài thì dạ dạ vâng vâng đấy nhưng thực chất thì chẳng bao giờ thì hành cái lời dạ dạ vâng vâng. Ước gì chúng ta nhìn lại hình ảnh của người con đầu là dù bề ngoài có khó chịu, có không vâng phục nhưng sau đó hồi tâm, hoán cải và thi hành điều Chúa, điều mà cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em đồng loại muốn nơi chúng ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã vâng phục và vâng phục cho đến chết và là cái chết trên thập giá giúp chúng ta sống tâm tình khiêm nhường sâu thẳm để chúng ta hoán cải cuộc đời chúng ta hầu mong sau cõi tạm này, chúng ta được cứu như những cô gái điếm và những người thu thuế biết hoán cải và được Chúa hứa Nước Trời như vậy. Amen. [Mục Lục]
Đã là người thì không ai tránh khỏi lỗi lầm. Vì mọi người đều mắc phải lầm lỗi nên bất cứ ai cũng cần phải sám hối và sửa mình. Mắc phải lầm lỗi thì không đáng lên án, nhưng thái độ ngoan cố không nhận lỗi, không ăn năn hối hận và chìm đắm trong tội là điều tai hại và rất đáng tiếc. Thế nên, hôm nay Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học rất quan trọng giúp chúng ta ăn năn phục thiện để trở thành người tốt.
Để cụ thể hoá bài học của mình, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn sau đây: Một người cha có hai con. Sáng hôm ấy, ông đếnvới đứa con thứ nhất và bảo nó: “Nầy con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho với cha”. Nó ương ngạnh trả lời: “Không! Con không đi!”. Người cha buồn lòng lặng lẽ quay sang đứa khác, mời nó ra vườn làm việc với ông. Cậu nầy dạ dạ vâng vâng: “Con sẽ đi!”, nhưng rồi không thấy tăm hơi đâu cả. Sau đó, người con thứ nhất hồi tâm lại, thấy được sai trái của mình nên hối hận vác cuốc ra đồng cùng làm với cha.
Thế là người con thứ nhất, dù ban đầu có phần ương bướng, nhưng biết xét lại, biết nhận ra lỗi mình và có quyết tâm sửa chữa nên đáng tuyên dương. Khi nói với các thượng tế và kỳ lão rằng: “Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”, Chúa Giêsu có ý chê trách những người nầy vì không biết ăn năn sửa lỗi đồng thời ngợi khen những người tội lỗi biết sám hối ăn năn sửa mình.
Chúa Giêsu còn đặc biệt tỏ lòng yêu mến đốivới những người biết hối cải qua câu chuyện người cha nhân lành và đứa con phung phá. Khi người con hoang đã phá sạch cả nửa gia tài với bọn đàng điếm nhưng rồi biết hồi tâm lại, biết thống hối ăn năn và quyết tâm chỗi dậy trở về cùng cha thì người cha quên hết mọi lầm lỗi của nó, chạy ra ôm hôn nó, tiếp đón nó với tất cả tình yêu thương.
* Vào những năm kinh tế còn khó khăn, gia đình ông Tư sắm được một chiếc xe máy Honda đời 67. Ông ra công bảo quản nó rất chu đáo; ngày ngày tỉ mỉ lau chùi từng chân căm, rồi lại dành ra cả tấm mền để trùm cả chiếc xe cho khỏi bụi. Ông cưng xe hơn cưng con, chẳng cho ai đụng đến. Nếu xe bị trầy, ông vô cùng xót xa. Nếu xe có gì trục trặc, dù rất nhẹ, ông phải đưa ra thợ sửa chữa liền. Trong khi đó, bản thân ông mang nhiều tật xấu, thói hư, bị hàng xóm láng giềng chê cười xa lánh, thì ông chẳng quan tâm sửa mình.
Bản thân con người quý hơn xe cộ cả triệu lần, nhưng khi bản thân hư hỏng, xuống cấp… nhiều người không cho là quan trọng! Xe hư, máy hư thì lo sửa liền, còn người hư thì cứ để mặc. Cứ để hư cho đến chết thì thôi! Thật là điều phi lý.
Khi mặt mày chúng ta lem luốc vì lọ nghẹ hay dầu mỡ, chắc chắn ai trong chúng ta cũng vội lau rửa cho sạch sẽ ngay. Khi thấy áo quần dơ bẩn và rách rưới, chúng ta sẽ thay áo khác liền. Khi cơ thể chúng ta dơ dáy và bốc mùi hôi, chắc chắn chúng ta sẽ tắm rửa ngay không trì hoãn.Vậy thì khi tâm hồn chúng ta lem luốc, dơ bẩn vì tội lỗi thói hư, lẽ nào chúng ta lại cứ để mặc như thế hết ngày nầy qua ngày khác sao?
Trong công nghệ thông tin hay sản xuất hàng tiêu dùng, việc cải tiến chất lượng sản phẩm là vấn đề sinh tử của các công ty. Châm ngôn của các nhà phát minh và chế tạo là: “Cải tiến hay là chết.” Thế nên người ta không ngừng rà soát lại những nhược điểm của sản phẩm và phải khắc phục bằng mọi giá trước khi tung ra thị trường.
Giá trị con người vượt xa giá trị hàng hoá cả triệu lần. Ước gì trong lĩnh vực đạo đức, mỗi người cũng rà soát lại những khuyết điểm của mình để cải thiện cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa. Nguyện xin Chúa Giêsu ban ơn giúp sức cho chúng ta thực hiện được công cuộc cải thiện tối cần thiết nầy. [Mục Lục]
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Trong hai người, ai đã làm theo ý của cha mình?” (Mt 21,31).
Khác với các dụ ngôn khác, dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay dường như không đưa ra một vấn đề hóc búa hoặc khó trả lời. Người cha nói với cả hai người con ra vườn nho làm việc. Người con thứ nhất nói không, nhưng sau đó nó thay đổi và đi làm. Người con thứ hai nói vâng nhưng rồi lại không đi. Có vẻ như không khó khăn gì để trả lời câu hỏi của Đức Giêsu “Ai trong hai người đã làm theo ý của cha mình? Chắc chắn, câu trả lời của chúng ta, là đứa con lúc đầu tuy đã từ chối, nhưng sau đó lại thi hành mệnh lệnh của cha. Đối với não trạng văn hóa cổ xưa thì không phải vậy. Theo các bản văn ban đầu, người ta lại đánh giá người con thứ hai cao hơn, bởi vì nó nói có, cho dù sau đó nó không đi. Trong một nền văn hóa mà người ta trọng hình thức bên ngoài, thì có lẽ đứa con thứ hai đã mauchóng đáp trả lời mời gọi của cha,sẽ được trọng thị và tán thưởng hơn, cho dù xét về khía cạnh khác thì nó đáng xấu hổ vì đã không thực hiện lời hứa. Vào thời bấy giở, hình ảnh đứa con thưa vâng vẫn tốt hơn là đứa con công khai bất tuân lời cha, cho dù sau đó , nó hối hận và đi làm.
Theo mạch văn trong Tin mừng Matthêu, Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn để trực tiếp công kích thái độ của các lãnh đạo tôn giáo thời Ngài. Họ là những người cố tình công khai chống đối Đức Giêsu, không tin tưởng vào Ngài và thách đố quyền bính của Ngài. Đức Giêsu đã dùng một kỹ thuật giống như ngôn sứ Nathan đã sử dụng khi đến gặp Đavit, để nói cho nhà vua về tội mà ông đã phạm với bà Bát Seva, vợ của tướng quân Urigia. Nathan kể câu truyện về một gã nhà giầu đã tước đoạt con bê duy nhất của người hàng xóm nghèo sống bên cạnh nhà mình (2Sm 12, 1-12). Nathan gợi nhắc Đavit hãy đưa ra một phán quyết đối với tên nhà giàu gian tham ấy, và cuối cùng đó cũng chính là phán quyết dành cho chính nhà vua.
Tương tự như vây, dụ ngôn của Đức Giêsu cũng nhắc nhở những người lãnh đạo tôn giáo thời Ngài hãy hối cải, để làm sao những điều họ nói, họ giảng dạy tương hợp với những gì họ thực hành. Trước đó, Đức Giêsu cũng cảnh báo các môn đệ là không phải chỉ nói suông “Lạy Chúa, lạy Chúa”, nhưng còn phải thực hiện thánh ý của Thiên Chúa (Mt 7,21-27). Trong Mt 23,3Đức Giêsu cũng cảnh báo đám đông cũng như các môn đệ đừng làm theo những gì mà các người biệt phái và ký lục đã nêu gương, bởi vì họ chỉ nói nhưng không thực hành. Bài Tin mừng hôm nay vén mở ra một chân trời hy vọng để chờ đón họ: Vẫn còn thời gian để họ biết quay trở về, và thực hiện những gì tương thích với lời họ giảng dạy.
Chúa Giêsu đã kết thúc dụ ngôn bằng một lời nhắc nhở mạnh mẽ hầu có thể làm lay động trái tim chai lỳ của các vị lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ “ Tôi nói cho các ông biết, phường tội lỗi và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Câu nói này không nhằm chỉnh sửa các môn đệ. Nó cũng không có dụng ý nêu bật sự tương phản giữa cái gì xấu nhất và cái gì tốt nhất mà chúng ta có thể nghĩ tưởng ra. Đích nhắm của Chúa Giêsu bắn thẳng vào các đầu mục Do thái giáo. Họ là những người có nhiệm vụ đưa dẫn kẻ khác vào Nước Trời, nhưng liệu họ có thực hiện được hay không. Chính những kẻ vẫn bị cho là nhỏ bé và thấp kém nhất, lại là những người trước tiên sẽ được vào Nước Trời, khi họ biết hối cải và tin vào Thiên Chúa.
Chúng ta rất dễ nhận ra sự khác biệt giữa lời nói và việc làm, nơi phong cách sống của một ai đó. Chúng ta rất dễ phê phán người Pharisiêu trong Tin Mừng hôm nay, hay những vị lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu, và thấy họ cần phải sửa đổi. Nhưng rất khó để chúng ta can đảm nhìn lại cuộc sống của chính chúng ta xem những điều chúng ta nói, chúng ta giảng dạy có đi đôi với việc chúng ta thực hành cụ thể hay chưa. Nói rằng tôi đang theo Đức Giêsu, thì quả là khá dễ dàng, nhưng để thực hiện những giáo huấn của Ngài không phải là chuyện giản đơn. Khi chúng ta tự nhủ với lòng mình, ví dụ tôi cần phải cầu nguyện, nhưng trong thực tế, liệutôi có dành đủ thời gian và chọn những nơi chốn thích hợp để thực hành việc đó hay không. Chúng ta nói, chúng ta quan tâm đến người nghèo, nhưng trong thực tế, chúng ta đã thực hiện một cách cụ thể ra sao?
Cũng may mắn thay, việc thực hiện một cách tương thích giữa lời nói và việc làm không phải là một gánh nặng chỉ đè nặng trên vai chúng ta mà thôi. Sự vâng phục của Đức Giêsu trên Thập giá vẫn mãi là gương mẫu để soi dẫn cho ta. Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô đã nói đến sự vâng phục này. Ngài đã tự biến mình ra không, và diễn tả một tình yêu sâu tận dành trao cho Thiên Chúa. Ngài trở nênkhuôn mẫu nội tâm, bơm thêm sức mạnh, giúp chúng ta không những chỉ nói vâng, nhưng còn biết thực hiện bằng những việc làm cụ thể. Sự vâng phục của Đức Giêsu sẽ soi sáng, giúp chúng ta canh tân đổi mới mỗi ngày, gọi mời chúng ta biết mở lòng để hoán cải, và giúp cho những con người hèn mọn bé nhỏ nhất có thể vào được Vương quốc Nước Trời khi biết thực hiện theo chỉ huấn này. [Mục Lục]
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Vợ thầy Tăng Tử đi chợ. Con khóc, đòi đi theo. Mẹ bảo:
– Con ở nhà rồi mẹ về làm thịt lợn cho con ăn!
Lúc vợ về, thầy Tăng Tử đi bắt lợn làm thịt. Vợ nói:
– Tôi nói đùa nó đấy mà!
Thầy Tăng Tử bảo:
– Nói đùa thế nào? Đừng khinh trẻ thơ không biết gì. Cha mẹ làm gì nó thường hay bắt chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy nó nói dối ư?
Tăng Tử nói xong làm thịt lợn cho con ăn.
***
Chỉ vì một lời hứa bông đùa của người vợ, mà thày Tăng Tử phải quyết định làm thịt lợn cho con ăn.
Kẻ sĩ là như vậy đó! Người có nhân cách là thế đó! Một lời nói không đi đôi với việc làm là một lời nói vô giá trị.
Hôm nay Đức Giêsu kể dụ ngôn người cha sai con đi làm vườn nho. Người con thứ hai nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Người con thứ nhất từ chối, về sau hối hận nên lại di. Đức Giêsu muốn ám chỉ các thượng tế và kỳ mục là người con thứ hai. Họ cho mình là chu toàn lề luật, đạo đức hơn người, nhưng thực ra họ chỉ nói mà không làm. Họ bắt kẻ khác tuân giữ luật lệ nhưng chính họ lại tránh né. Họ chất lên vai dân chúng gánh nặng mà chính họ cũng không thể mang nổi. Tệ hơn nữa, họ đã tự mãn đến độ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến.
Trái lại, người con thứ nhất được ví như các người thu thế và những cô gái điếm. Họ là những người tội lỗi công khai, bị lọai ra khỏi hội đường và bị gạt ra bên lề xã hội. Nhưng họ đã thành tâm hối cải và tin vào Đức Giêsu là Cứu Chúa của họ. Vì thế, Người đã tuyên bố một câu đầy kinh ngạc cho các nhà lãnh đạo Do thái giáo: “Tôi bảo thật các ông; những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).
Như thế Nước Thiên Chúa là của những kẻ có niềm tin. Tin vào Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, tin vào Người là Con Người được Cha sai đến. Niềm tin ấy chỉ đáng tin khi nó được thể hiện bằng việc làm cụ thể. Thánh Giacobe khẳng định: “Đức Tin không có việc làm là Đức Tin chết” (Gc 2,26). Đức tin không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, nhưng còn phải chứng minh bằng việc làm. Vì hành động cụ thể thuyết phục hơn lời nói suông. Những công trình trước mắt có giá trị hơn những dự án viễn vông.
Đức Giêsu không bao giờ rao giảng những gì mà Người đã không thực hiện trước. Người dạy các môn đệ tránh xa thứ men giả hình của Pharisiêu, là thái độ “ngôn hành bất nhất”, vì “họ nói mà không làm”. Người đã từng tuyên bố: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Người hằng làm theo thánh ý Cha, và mong muốn chúng ta cũng hãy làm như vậy: “Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Thầy” (Mt 7,21).
***
Lạy Chúa, xin cho những lời chúng con tuyên xưng cũng sẽ là những thực hành của chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con chỉ biết có một điều, là chúng con đang thi hành thánh ý Chúa. Amen. [Mục Lục]
Bản tính con người thích chọn con đường bất chính, gian tà bởi con đường bất chính là con đường dễ bước vào. Con đường bất chính dễ bước vào khó ra. Nó là con đường khó khăn, gian khổ, khó nhai, khó nuốt nhưng nhiều người ham muốn, tự nguyện bước vào. Vì sao? Vì con đường đó thuộc về trần gian, phần thưởng của nó là vật chất, thấy được, sờ được, thưởng thức được ngay tại thế. Chính vì những cảm xúc mãnh liệt đó mà nó có nhiều đệ tử ngày đêm mong tìm cảm giác lung linh. Hút thuốc vào cảm thấy tê tái tức thì. Uống rượu vào tức khắc nhận ra chất say tê tê mạch máu, kích thích làn da, thớ thịt. Thắng bài bạc thấy tiền ngay, mắt sáng rỡ trông thấy. Rình rập biết rõ đường đi nước bước nhà người tạo cảm xúc lo sợ, hy vọng lẫn lộn, lòng tự nhủ, của ngươi trong tủ sắp là của ta trong túi. Cảm xúc mãnh liệt đó làm xáo trộn luân lí, làm lú lẫn tâm hồn, làm lờ mờ lí trí nên dễ buông thả cuộc đời, lăn xả vào cuộc chơi. Chính vì lăn xả vào nên không gì kiềm chế, ngăn cản, thắng cho chậm lại. Bất kể lời ca thán, khuyên bảo, van lơn của thân nhân và coi thường an toàn cho bản thân cũng vì lí đo đang lăn xả vào.
Đường ăn chơi dễ vào khó ra bởi bước chân vào cuộc là đánh ván bài xả láng. Ván bài xả láng cướp mất cuộc đời, làm nhụt ý chí tiến thân, phá tan quyết tâm và lấp lối tương lai. Thứ đến xã hội loài người rất khắt khe với người đánh ván bài xả láng. Họ không chấp nhận và thiếu thứ tha nên người muốn bước chân ra khỏi dòng thác lôi cuốn luôn có những mắt xích trói chặt đời họ, ngăn cản đường tiến trong tương lai. Hơn nữa người lăn xả vào cuộc chơi thí mạng, bán sức khoẻ và tuổi xuân cho cuộc chơi nên tinh thần mất minh mẫn, nhụt chí, cơ hội trẻ trung không còn để tiến thân. Vì những lí do đó mà một khi đã bước vào, khó giật lùi, khó bước ngược lại. Muốn thoát ra đời kéo lùi, giật ngược lại vì nó đâu muốn mất thành viên trung thành của chúng. Nó chỉ sa thải khi thành phế thải, khi không còn gì cống hiến cho cuộc chơi. Thành phần phế thải, chỗ chứa sẽ là đầu đường xó chợ, nơi ẩn thân, sống dật dờ, lây lất, chờ ngày về lòng đất mẹ.
Nói đến công chính hoá là nói đến điều gì đó chưa công chính nhưng đang trên đường tiến đến công chính. Như vậy công chính là bước cuối cùng của con đường giúp ta nên thánh. Ngoài Chúa ra không còn con đường công chính nào bởi vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Vì Chúa là Đấng công chính nên phải bước đi trên con đường công chính để đến với Chúa. Ngoài con đường đó ra không còn lối tắt, ngã rẽ nào khác. Chỉ có một lối đi duy nhất mà Đức Kitô vạch ra cho những ai ước ao bước đi trên con đường đó. Vì thông cảm yếu đuối của thân phận làm người. Vì tình yêu Chúa cao vời. Vì Ngài là Đấng giầu từ bi nhân hậu, Ngài không loại bỏ, không kết án ai nhưng tạo cho con người cơ hội trở về.
Tiên tri Êdêkiel nói rõ con đường đó là từ bỏ đường gian tà, lối xảo trá,
Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết Ed18,28
Giáo huấn của tiên tri Êdêkiel được thánh Mathêu 21,28-32 nhắc lại trong dụ ngôn hai người con. Người thứ nhất từ chối lời cha kêu gọi sau đó hối hận đi làm. Người thứ hai vâng dạ nhưng không làm. Dụ ngôn kết luận người con thứ nhất đã làm theo ý cha mình. Anh hối hận vì đã cãi lại lời cha, hối hận vì đặt ý riêng mình trên ý cha.
Con đường giúp trở nên công chính hoá là con đường thống hối, ăn năn. Thống hối, ăn năn trên lí thuyết chỉ là thống hối bằng môi mép. Thống hối thực sự phải đến từ tấm lòng, chính tấm lòng giúp con người thành tâm trở về với Chúa.
Để từ bỏ con đường bá đạo, lối sống bất chính. Người ta cần phải có gì để lấp vào khoảng trống vừa từ bỏ trong đời. Nếu không có gì lấp vào sẽ không thể từ bỏ được vì con đường cũ sẽ tìm cách trở lại. Chỉ có cách duy nhất tránh ngựa tìm đường cũ là tìm cho nó một con đường mới. Con đường mới phải khác con đường cũ, ngược với lối sống, cách sinh hoạt cũ. Con đường khác, trái nghịch với bá đạo là chính đạo. Nghịch với con đường bất chính là công chính. Đường chính đạo, lối công chính ngoài Chúa ra còn ai có. Cách duy nhất trở về đường lành là sống thực thi đường lối Chúa. Con đường công chính giúp con người sống thánh thiện, trở nên tốt lành hơn, trọn hảo hơn. [Mục Lục]
Con cha thì giống Cha. Là Kitô hữu chúng ta phải nghe và làm theo Lời Chúa. Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta, qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Đó là: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói “có” ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói “không”, rồi sau đó anh đã đi làm theo ý Cha. Phải chi có người con thứ ba nói đi làm ngay là đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy! Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hạng hạng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa, khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.
Lời hứa không bao giờ thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được những nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời: “Thưa cha, vâng ạ”. Nhưng rồi anh không làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Các tín hữu của Chúa Kitô thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói là làm ngay.
Ngày nay, người ta thường nói: “Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay”. Chúng ta cần để cho Lời Chúa “đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay”. Nhiều khi chỉ nghe Lời Chúa bằng đôi tai thôi – tai này lọt qua tai kia là hết hay nhiều khi người khác để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ,… Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên quan gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm,… Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi chiều cấu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được đến “đôi tay”, nghĩa là được người Kitô hữu đem ra thực hành xung quanh tha nhân. Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.
Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người Kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun vén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: “Hỡi anh em, ta đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Chúa Giêsu không thích những người sống giả hình, Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình, nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. “Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao?Đức tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17).
Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là Có chứ không phải là Có khi Không. Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Này con xin đến để thi hành Thánh Ý Cha” (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành Thánh Ý Chúa Cha một cách hoàn hảo và nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết làm theo thánh ý Chúa. Amen. [Mục Lục]
Trích: http://www.tgpsaigon.net
Suy niệm:
Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài trong Chúa Nhật hôm nay vẫn là vườn nho. Tư tưởng của Chúa Giêsu trong trích đoạn Tin Mừng Mt 21,28-32 tiếp nối hình ảnh vườn nho, nghĩa là nước trời, Chúa Giêsu muốn giới thiệu cho nhân loại. Câu chuyện thánh Matthêô tường thuật có tính cách dí dỏm, thú vị, giúp mọi người hiểu được ý Chúa muốn nói. Người Cha trong trích đoạn Mt 21,28-32 là Thiên Chúa nhân từ, giàu lòng thương xót, luôn chạnh lòng xót thương đối với con người, nhất là những con người tội lỗi, yếu đuối. Người cha một hôm nói với đứa con cả: “Con ơi, nay ra làm vườn nho giúp cha nhé”. Đây không phải là một lệnh truyền,một lời bắt buộc, nhưng chỉ là một lời mời gọi.
Câu chuyện ngắn gọn,nhưng nói lên tất cả ý nghĩa của sứ điệp Tin Mừng muốn đề cập tới. Thái độ của hai người con quả thực trái ngược nhau. Cái nghịch lý ở đây là người con cả nói “không”, nhưng sau đó nghĩ lại và đi làm vườn nho theo lợi ích chung của gia đình. Người con cả đã biết hy sinh lợi ích riêng để sống quảng đại, cởi mở và đặt ích lợi chung của gia đình lên trên. Còn người con thứ nhanh nhảu đáp lại lời mời của cha “vâng, con sẽ đi”. Lời đáp trả hết sức mạnh mẽ và quả quyết ấy chỉ là một lời lừa dối cha. Người con thứ thưa “vâng” để nhằm mập mờ đánh lận con đen. Vâng, nhưng không làm, sẽ đi, nhưng không đi. Thái độ của người con thứ thật ích kỷ, anh ta không hề thương yêu cha chứ đừng nói đến yêu thương anh em trong gia đình và người ở ngoài xã hội. Người con cả xác định lập trường của mình, nói lên sự tự do của con người mình, nhưng cuối cùng người con cả đã biết vượt lên tất cả để chọn lựa điều có ích nhất. Hành động của người con cả là cả một sự chọn lựa giằng co, đòi hỏi sự quả cảm và tình thương. Chính vì có lòng tốt, con tim nhậy cảm, ánh mắt biết nói, nên người con cả đã làm theo ý cha của mình. Còn người con thứ chỉ sống trên đầu môi chóp lưỡi, giả bộ nói vâng,nhưng trong tận đáy lòng của anh đã hàm chứa lời từ khước rất quyết liệt: không. Người con cả đã biểu lộ thái độ của mình ra bằng hành động. Người con thứ nói nhưng không làm. Điều này rất phù hợp với lời Chúa Giêsu: “Không phải tất cả những ai kêu lạy Chúa!, lạy Chúa! mà được vào nước trời, nhưng chỉ những ai làm theo thánh ý Chúa”. Thánh ý Chúa phải được thể hiện qua thái độ vâng phục, tuân theo đường lối Chúa. Nói cách khác là chấp nhận Chúa Giêsu là cùng đích, là gia nghiệp của mình.
Chúa Giêsu không phân biệt bất cứ người nào dù họ là Do Thái, Hy Lạp, La Mã, dù họ là ở trong hay ngoại giáo. Chúa Giêsu khẳng định: Những người đĩ điếm và thu thuế sẽ vào nước trời trước các ngươi. Chúa Giêsu đã nói: “Không phải những người lành mạnh cần thầy thuốc, nhưng là những kẻ ốm đau”. Thiên Chúa của Đức Kitô là một Thiên Chúa nhân hậu hay thương xót, thứ tha, cảm thông, chia sẻ khác với quan niệm của những người biệt phái, luật sĩ, kỳ mục, thượng tế đã quan niệm Thiên Chúa như một vị quan tòa ác nghiệt, thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán. Thái độ của bọn biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật là thái độ ích kỷ, giả hình, làm bộ. Họ thích khoe khoang, tự mãn về một thứ đạo bề ngoài mà họ nghĩ ra. Cái đạo được họ áp đặt bởi trăm ngàn lề luật, nhưng lề luật do họ nặn ra, bày đặt để bắt buộc người khác làm, thực hiện chứ họ thì hoàn toàn không làm gì hết như Chúa Giêsu đã từng nói: một ngón tay họ cũng không muốn lay thử. Thái độ của họ là thái độ tự kiêu, tự mãn, phô trương: ra đường ưa thích người khác tung hô, chào hỏi. Áo thênh thang, tua áo dài, thẻ kinh rổn rẻn… Đạo như thế là đạo bề ngoài, đạo nông cạn, hời hợt. Chúa Giêsu đã không dựa trên công đức của con người, dựa trên địa vị, chức vụ của con người để thưởng phạt, tất cả đều do tình thương nhưng không của Chúa. Chìa khóa dẫn vào nước trời là sự vâng phục Thiên Chúa và hoán cải, thống hối, ăn năn.
– Có hai tiếng người ta thường nói nhiều nhất, đó là “Vâng” và “Không”. Nhưng giá trị của chúng không tùy vào lúc chúng vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó người ta có thực hiện hay không. Nói “vâng” mà không làm đâu có giá trị bằng nói “không” mà lại làm.
– Lời hứa không tạo nên uy tín cho con người; lời nói tốt không thể thay thế cho những việc làm tốt.
– Con người chúng ta có thể thay đổi từ “vâng” sang “không” và từ “không” sang “vâng”. Vì thế, cả hai người con trong dụ ngôn này đều có thể là bài học cho chúng ta: nếu chúng ta giống người con thứ nhất đã lỡ nói “không” với Chúa bấy lâu nay thì bây giờ chúng ta có thể nói lại “xin vâng”; còn nếu chúng ta giống người con thứ hai đã thưa “xin vâng” thì đừng để cho mình bị thay đổi mà sửa lại thành “không”.
– Trong lịch sử Giáo Hội, rất nhiều vị thánh lớn đã từng là những kẻ tội lỗi ban đầu đã nói “không” với Chúa nhưng về sau đã sửa đổi và thưa “xin vâng”. Thánh Augustinô là một thí dụ điển hình.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn mời gọi chúng con làm vườn nho cho Chúa. Chúa muốn chúng con bước vào mối thân tình với Chúa trong những chia sẻ bổn phận của Cha như của con. Nhưng chúng con hoặc vì chưa cảm nghiệm được sự cao quý, hoặc chưa thể hiện được tinh thần trách nhiệm. Đã nhiều lần chúng con từ chối. Chúng con ngại nói lời xin vâng vì sợ thiệt thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng lắng nghe lời của Chúa không chưa đủ, mà còn phải làm theo ý của Chúa. Amen. [Mục Lục]
“Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho!”
Nghe câu chuyện dụ ngôn này, tôi vẫn hay thắc mắc về ý nghĩa của việc ‘đi làm vườn nho’ vì đôi khi nó không rõ ràng lắm. Từ lâu tôi đã nghĩ thật đơn giản: sống lành thánh, làm các việc lành phước đức, thi hành các việc tồng đồ, truyền giáo… tức là ‘làm trong vườn nho’ của Chúa rồi còn gì! Sau này tôi mới phát hiện ra khái niệm này xem ra không ổn khi áp dụng vào trường hợp cụ thể của hai người con trong dụ ngôn: đứa vâng ngoan trước lời kêu mời của người cha nhưng đã không đi, còn đứa ngang bướng rốt cuộc rồi lại ‘đi làm vườn nho’. Qua câu chuyện này tôi thấy hình như Đức Giê-su đã suy nghĩ rất khác: Người không phân thính giả thành hai loại ‘người vâng’ hay ‘người không vâng’, nhưng ngay trong mỗi thính giả vốn đã sẵn biện chứng ‘vâng và không vâng’, rốt cuộc họ vẫn được đánh giá qua việc ‘đi làm vườn nho’ mà thôi. Nhưng làm vườn nho hệ tại ở điều gì, theo tâm tưởng của Đức Giê-su?
Thói thường thì ai cũng hiểu là lời nói không trọng hơn việc làm. Khi sử dụng cùng một khái niệm này Đức Giê-su đã cho thấy: đối với Nước Thiên Chúa, sống tội lỗi như ‘những người thu thuế và những cô gái điếm…’, hoặc sống lương thiện công chính như các thượng tế và kỳ mục trong dân (đối tượng chính của dụ ngôn) vẫn chỉ là những lời nói ngang bướng hay vâng ngoan. Người còn cho thấy rõ, điều quan trọng hơn chính là ‘thi hành ý muốn của người cha‘, đó là ‘đi làm vườn nho’, tức là tin và tiếp nhận sứ điệp kêu gọi sám hối mà Gio-an Tiền Hô đã khởi sự và Đức Giê-su tiếp tục kêu mời. Như thế Người chỉ cho thấy một điều làm đảo lộn tất cả: ‘đường công chính’ hệ tại ở việc thi hành sám hối hơn là ở việc có sống ngay lành hay không; “Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy”. Sám hối đây chưa hẳn là đã sửa đổi được mình, cho dầu nỗ lực vươn tới là dấu chỉ cần thiết của chân thành sám hối, nhưng chính yếu hệ tại ở việc đón nhận ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho. Sứ điệp của Gio-an “Hãy sám hối!”, tức là hãy cải tà qui chính trong nội dung luân lý, đã được chính Đức Giê-su cập nhật: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ!” tức là tin vào Đức Ki-tô Giê-su mạc khải tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Sứ điệp này quả chất chứa một nội dung rất Tin Mừng! Trong số những người thu thuế và gái điếm tin vào Gio-an không phải tất cả đều đã đổi đời hoàn lương, nhưng tất cả họ đều đã khám phá ra và đón nhận lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa và tin vào Tin Mừng. Chính ở điểm này mà họ trở nên hơn hẳn các thượng tế và kỳ mục, tức các đấng bậc được coi là vị vọng trong dân, vì họ đã trở nên ‘công chính’ theo Tin Mừng; “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Như thế rõ ràng là để vào được Nước Trời, điều kiện quan trọng hơn cả là, thông qua sám hối những lỗi lầm đã phạm, mỗi người nhận ra tình yêu cứu độ Thiên Chúa đang tuôn đổ trên mình, và khiêm tốn mở lòng đón nhận. Các Pha-ri-sêu đã không thể đạt tới được sự công chính ấy; “Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”
Nếu quả là như thế thì cuộc sống mỗi Ki-tô hữu chúng ta đều chất chứa cả hai phần: nói và làm. Riêng phần ‘nói’ nhiều lúc có thể là vâng ngoan, vì đã giữ đạo tử tế, đã làm các việc lành phước đức, đã có không ít các nỗ lực tu thân tích đức, sống bác ái, tông đồ phục vụ v.v…, nhưng đồng thời cũng có những hồi ngang ngược vì các yếu đuối lỗi lầm đã phạm. Nhưng cho dầu đã ‘nói’ thế nào đi nữa, thì lúc này đây, điều quan trọng hơn hết đối với mọi người vẫn phải là ‘đi làm vườn nho’, tức là khiêm tốn nghe lời kêu gọi sám hối của Gio-an để thật lòng tin vào Tin Mừng cứu độ mà Đức Ki-tô Giê-su đã mang lại. Có thể tôi ‘đi làm vườn nho’ vì tôi vốn ngoan hiền, và như thế là tuyệt vời vì tôi nói và tôi đi làm, nhưng cũng có lúc (và có lẽ trường hợp này còn nhiều hơn!) tôi đã từng nói ‘không đi’ nhưng rồi trong tác động của ân sủng tôi đã ‘… hối hận, nên lại đi’.
Đối với Tin Mừng trường hợp sau này có vẻ lại càng ý nghĩa hơn, vì sự ngang bướng rõ ràng dẫn tới hối hận, và trở thành động lực thúc đẩy ‘đi làm vườn nho’. Chính các yếu đuối lầm lỡ đã phạm có thể giúp ta dễ dàng hơn khám phá ra lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, để rồi… ‘sám hối và tin vào Tin Mừng’. Và như thế vô hình chung đã biến ‘Con không đi!’ ngang bướng trở thành cho ta ‘tội hồng phúc’, như thánh Âu-tinh đã từng diễn đạt cảm nghiệm của riêng ngài. Đáng lý ra toàn bộ cuộc sống Ki-tô hữu ngay từ đầu đã phải trọn vẹn là ‘vâng con đi’ và ‘đi làm vườn nho’, bởi vì qua Bí Tích Thánh Tẩy lãnh nhận họ đã công khai nói lên điều đó. Tuy nhiên thực tế cuộc sống cho thấy ngay cả nơi các Ki-tô hữu vẫn luôn tồn tại một ‘biện chứng’ giữa ‘vâng và không’, đúng như nội dung của dụ ngôn ‘hai người con’. Và vì không một ai nằm ngoài qui luật biện chứng này nên sám hối và lãnh nhận Bí Tích Cáo Giải vẫn luôn phải chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của tất cả mọi Ki-tô hữu trải qua các thời đại. Phải chăng thái độ ‘sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ’ mà cao điểm được diễn đạt nơi tòa giải tội, mới chính là việc ‘đi làm vườn nho’ của mỗi người chúng ta, và qua đó chúng ta được trở nên công chính?
Hơn ai hết, vì là Linh Mục nên tôi đã phải luôn nói ‘vâng’ với lời kêu mời sám hối và đón nhận lòng Chúa xót thương, thế nhưng hơn bất cứ ai khác, tôi phải biến lời ‘vâng’ này thành hành động: mau mắn lên đường ‘đi làm vườn nho’ Tin Mừng của Chúa. Chính tôi cũng cần sám hối không ngừng!
Lạy Cha từ nhân, cha không ngừng mời gọi con, cũng như mời gọi hết thảy mọi người, ‘đi làm vườn nho’ của Cha, vườn nho của đón nhận lòng từ ái và xót thương bao la. Rất có thể con đã tự cho mình là đứa con vâng ngoan vì ơn gọi tu sĩ và linh mục mà Cha đã ban cho con suốt trong những năm tháng dài đời con, nên đôi lúc con thấy không cần phải đi thêm nữa. Con đã từng đáp lại tiếng Cha mời gọi bằng câu thưa: “lạy Chúa, con đây”, thế nhưng vẫn luôn có nguy cơ ‘nhưng rồi lại không đi’. Xin cho con ít quan tâm hơn tới ‘nói’ và tập trung hơn vào ‘đi làm’ trong vườn nho của sám hối và đón nhận trọn vẹn lòng thương xót cứu độ của Cha. Amen. [Mục Lục]
Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, có một chính khách đã viết nhiều bài báo nói về “đổi mới tư duy”, Ông thường ký tên NVL. Nhiều người nghĩ đơn giãn đó là 3 chữ viết tắt tên của ông, (tên của ông nếu viết tắt thì đúng là 3 mẫu tự đó), như nhiều tác giả thường làm như vậy, nhưng khi được hỏi vì sao ông không ký tên trọn vẹn mà lại chỉ viết tắt, ông nói bút hiệu NVL của ông nó có nghĩa là “nói và làm”.
Đọc những bài báo đó, không biết chúng có thay đổi được gì thực tế xã hội không, nhưng chúng phản ánh một xã hội mà nhiều người đang có trách nhiệm trực tiếp trong guồng máy xây dựng xã hội thời điểm đó đang lâm cơn bệnh “nói nhiều làm ít”, thậm chí “nói mà không làm”, và còn hơn thế nữa, “nói một đàng làm một nẻo”.
“Nói nhiều làm ít” là thứ bệnh phóng đại, phô trương.
“Nói mà không làm” là thứ bệnh nói dốc, nói láo.
“Nói một đàng làm một nẻo” là thứ bệnh lường gạt, thủ đoạn, thâm độc.
Cách sống “nói và làm” kiểu đó sẽ đưa đến một xã hội phi đạo đức, vì đạo đức không thể cùng tồn tại với giả hình và bịp bợm.
Một con người chân chính bao giờ cũng coi trọng Việc làm hơn Lời nói. Bởi chỉ bằng những hành động thực tế mới chứng tỏ được mình suy nghĩ có đúng không, có ý chí thể hiện những suy nghĩ tâm huyết thành hành động thực tế hay không. Và chính điều đó cho biết anh là ai, là người có đáng tin cậy hay không. (…)
Vậy mà cho đến nay, căn bệnh khoa trương thích Nói nhiều Làm ít vẫn còn tồn tại trong xã hội chúng ta. Có lẽ căn bệnh này cũng là anh em chí cốt của căn bệnh thành tích và háo danh ở không ít các cấp, các ngành trong xã hội chúng ta. Điều này làm hạn chế tầm nhìn, không dám nhìn thẳng vào sự thật và nói đúng sự thật. Chỉ muốn đề cao thành tích mà không dám nhìn tới cội nguồn của khuyết điểm, càng không dám nhận trách nhiệm đúng mức về khuyết điểm, nhất là trách nhiệm cá nhân. Chính điều đó làm cho xã hội trì trệ, không bứt phá lên được trước những cơ hội mới cũng như thách thức mới. (Dân Trí).
Đối với xã hội trần gian còn như thế, huống cho là đối với Tôn Giáo. Không ai có thể là bậc chân tu tháng ngày miệt mài kinh kệ nhưng lại lạnh lùng trước những nỗi thống khổ của bá tánh.
Để “nói đúng” và ‘làm đúng”.
Để “Nói và làm” cho đúng, điều trước tiên, là cần phải nhận biết đâu là “đường công chính”. Không nhận biết đâu là “đường công chính”, thì không thể suy nghĩ và hành động đúng được.
Trong Tin Mừng hôm nay, những thượng tế và kỳ mục Do Thái chính là những người “sai lầm” từ cơ bản, họ không nhận ra đâu là “đường công chính”. Không có nền tảng sự thật thì dựa vào đâu để nói và làm hợp với lẽ phải được?
“Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy” (Mt.21,32).
Những thượng tế và kỳ mục không tin vào Gio-an, và từ đó, cũng không tin vào Chúa Giêsu, vì Gio-an làm chứng về Chúa Giêsu.
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. (Ga.1,29).
Và như vậy, tiếng kêu gọi sám hối của Gio-an không được những thượng tế và kỳ mục đón nhận, đơn giãn, vì họ không thấy họ sai lầm. Họ đang lầm đường lạc lối mà họ vẫn nhất quyết mình đang đi trên đường công chính.
“Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”(Ga.21,32).
Họ là những người mù mà vẫn tự cho mình là sáng mắt.
“Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tôi các ông vẫn còn!”. (Ga.9,41).
“Sáng mắt”, đối với Tin Mừng, là “nhận biết” Chúa Giêsu, nhận ra “đường công chính”, và nhận ra Thiên Chúa đích thật.
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6)
Chính nhờ Chúa Giêsu, con người mới nhận ra trọn vẹn Tình Yêu Thiên Chúa. Nhận ra ý muốn Thiên Chúa.
Nhưng các thượng tế và kỳ mục đã “mù” đến mức loại trừ Chúa Giêsu. Họ giảng dạy cho dân về Giới Luật Thiên Chúa, nhưng lại loại trừ Thiên Chúa, vì đường lối Thiên Chúa không như lòng họ mong muốn!
Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng:
Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật của phàm nhân. (Mt.15,7-9).
Đúng theo “Thánh ý Chúa”.
Người Ki-tô chân chính luôn luôn tự hỏi: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. – “Ý muốn Thiên Chúa” chính là lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các nghe hãy vâng nghe lời Người!” (Mt.17,5).
Vâng nghe Lời Chúa, là thực hành theo thánh ý Chúa, làm theo Lời Chúa dạy. Là thực thi Giới Luật Yêu Thương của Chúa Giêsu – Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: “Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy”.
Người trả lời rằng: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?”
Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: “Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”. (Mc.3,31-35).
“Bản án” dành cho những người chỉ biết “nói mà không làm”.
Đại diện điển hình cho những người “nói mà không làm” trong Tin Mừng, đó là những người Pha-ri-sêu và cả những nhà thông luật. Điệp ngữ “khốn cho các ngươi… Khốn cho các ngươi…” được lập đi lập lại nhiều lần cho thấy mức độ quan trọng của lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với những hạng người này.
Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà…
Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa…
Khốn cho cả các ngươi nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào…
Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất dấu chìa khóa của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản… (Lc.11,37-52).
Đừng noi theo những hành vi của họ!
Trong cuộc sống, Xưa và Nay, Đạo và Đời, ta luôn gặp những người “Nói mà không làm”, nổi bật nhứt, là những người có chức việc cao, có quyền lực lớn!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: “Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. (Mt.23,1-12).
Năm 2000, có mùa lũ lớn, một thầy tu cấp cao đã lớn tiếng hô hào tín đồ của mình hãy chia sẻ cơm áo cho những người đang gặp bất hạnh. Khi mùa lũ qua đi, trong một bữa tiệc, có người hỏi: – “Thưa ngài, ngài có đi đến nơi nào trong vùng lũ lụt vừa qua không?”. Vị thầy tu khả kính cười đáp: – “Tôi không biết lội!”. Có thể đây chỉ là một câu nói đùa, nhưng cũng… rất có ý nghĩa!
Thật ra, trong cuộc đời có biết bao người “thành đạt” mà không cần làm những gì mình nói, nhờ biết ứng xử “khôn ngoan”, thí dụ mấy quan nịnh thần, khéo uốn ba tấc lưỡi thôi, thì được thăng quan tiến chức, ngồi không hưởng bát vàng, xoa tay nhìn đời lòng ung dung tự tại: – “Âu cũng là số phận!”.
Thế nên, núp ẩn đằng sau những ngôn ngữ từ thiện, bác ái, yêu thương, rất nhiều khi có những việc làm hoàn toàn có mục đích ngược lại!
Trong Cổ Học Tinh Hoa, có câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi, một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được “. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy gì nữa. Thôi, các ngươi cứ cho tôi, sau này tôi có giàu, tôi sẽ đem tiền trả lại”.
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng:
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).
Ngày 15 tháng 9 năm 2011, nhà xuất bản Vatican, Giuseppe Costa đã tổ chức triển lãm 600 tác phẩm của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, nay là Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI.
Cuộc triển lãm được trình bầy cho Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo, nhưng cũng đã được mở ra cho các du khách tại Vatican và ngày 24 tháng 9 tại trụ sở của nhà xuất bản Herder tại Freiburg.
Trong dịp này, Đức Thánh Cha đã nói: “Tôi rất cảm động và khá ngạc nhiên được thấy số lượng các sách vở tôi đã viết. Hy vọng của tôi là những lời tôi viết trong đó không chỉ đến và đi, nhưng giúp cho các độc giả nam và nữ tìm được hướng đi của họ.”
“Nói và làm” vì Đạo Hiếu.
Đạo hiếu dạy ta phải biết vâng lời cha mẹ. Một đứa con hiếu thảo luôn là đứa con biết vâng lời cha mẹ, luôn muốn làm cha mẹ vui lòng.
Thiên Chúa là Cha, và mọi người là con cái Thiên Chúa và là anh em với nhau. Đức Tin của chúng ta gói trọn trong Giới Luật Yêu Thương “Kính Chúa yêu người”. Tất cả những gì chúng ta nói và tất cả những gì chúng ta làm đều nhắm đến mục đích làm “sáng danh Chúa và phục vụ anh em”.
Đạt được điều đó, chúng ta sẽ là những đứa con ngoan trong Gia Đình Thiên Chúa.
Một đứa con ngoan luôn tuân theo “Giới Luật Thiên Chúa”, “Nói và Làm” những gì Thiên Chúa đã dạy.
“Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21).
Lạy Chúa,
Lời Chúa dạy quá cao siêu,
Con nói thì nhiều, làm được bao nhiêu!
Xin tha thứ những điều con thiếu,
Đỡ nâng con, lạy Chúa Tình Yêu. Amen. [Mục Lục]
SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM
Nói và làm đó là hai thái độ khác nhau. Có người nói mà không làm. Có người không nói nhưng lại làm. Đó chính là hai thái độ mà Chúa đề cập đến trong bài dụ ngôn hôm nay. Hạng người nói mà không làm đó là những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Hạng người không nói mà làm đó là những người thu thuế và những người tội lỗi. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa. Qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy ta những bài học sau.
Bài học thứ nhất: Việc làm trọng hơn lời nói. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mười voi không được bát nước sáo” là thế. Nhưng trái lại có những người không nói giỏi, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Có lần Chúa đã vạch rõ những giả dối này: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Như thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.
Bài học thứ hai: Con người có thể thay đổi. Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các biệt phái và luật sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. Con người có thể thay đổi. Đó là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.
Bài học thứ ba: Sám hối là việc cần thiết của mọi người. Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Ta hãy xem Chúa đã tha thứ cho bà Mađalena. Nhất là Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì tất cả chúng ta ai cũng có lầm lỗi trước mặt Chúa, cần được Chúa khoan hồng thứ tha. Sám hối thật cần thiết vì đó là khởi điểm để nên tốt, nên thánh thiện. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.
Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.
Lạy Chúa xin tha thứ tội con đã phạm đến Chúa và đến anh em. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Nói và làm, việc nào cần hơn và tốt hơn?
2) Có nhiều chương trình tốt đẹp nhưng không thực hiện, có ích gì không?
3) Biết nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi. Điều này đáng trọng hay đáng chê trách? [Mục Lục]
Anh chị em thân mến,
Thánh Augustinô, sinh năm 534, tại Targas, xứ Algêrie, Phi Châu, trong một gia đình giàu có, nhưng thiếu đạo đức. Mẹ là bà thánh Mônica, một gương mẫu các bà mẹ công giáo về việc sống đạo và việc giáo dục con cái bằng đời sống và bằng cầu nguyện nữa… Từ nhỏ, Augustinô có tư chất thông minh khác người, đã được theo học khoa hùng biện tại Carthage ; nhưng tại đây ngài đã lây nhiễm các thói hư tật xấu ở đời. Lời dạy dổ của Mẹ, giáo lý đã học đuợc từ nhỏ, Augustinô đã bỏ ngoài tai. Augustinô hầu như đã mất đức tin, ngài còn theo lạc thuyết Manê nữa. Ngài hầu như đã trả lời không khi được Chúa gọi vào làm vuờn nho cho Chúa. Vì sống trong tội lỗi, tâm hồn của ngài luôn bị dày vò, không hề được sự bình an… Sau đó ngài được mời sang Rôma để làm giáo sư khoa hùng biện. Đây cũng là ý Chúa, nhờ đó ngài đuợc giao tiếp thường xuyên với thánh Giám mục Ambrosiô, và cũng từ đây ngài đã trở lại với niềm tin và đã chấp nhận đi vào làm trong vườn nho của Chúa, mặc dù một khoảng thời gian dài ngài đã từ chối lời mời gọi của Chúa. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Ta thử nhìn tới ba hạng người đã đáp lại lời Chúa gọi vào làm vườn cho Thiên Chúa:
* Trả lời không với Thiên Chúa, nhưng sau đó lại đã đi làm: Thánh Phaolô chính là hình ảnh và là một tấm gương sáng về điễm này. Khi chưa biết Chúa và chưa tin vào Chúa, bằng mọi cách, Phaolô đã chống lại Chúa và những ai tin nơi Chúa; nhưng trên đuờng đi Damas, Phaolô đã gặp Chúa… Phaolô đã ăn năn và được biến đổi tận gốc rễ. Từ nay cho đến chết, Phaolô luôn luôn thưa vâng với Thiên Chúa … Câu chuyện của thánh Augustinô mà ta vừa nghe ở trên, cũng là tấm gương về hạng người này…
* “Thưa vâng” với Thiên Chúa, nhưng sau đó lại không đi:
Các luật sĩ, pharisêu và các kỳ lão Do thái, họ có thái độ giống như người con thứ hai. Họ tôn trọng danh giá bề ngoài. Họ nghe lời Gioan Tẩy giả kêu gọi ăn năn sám hối. Họ thấy người thu thuế, gái điếm, tội lỗi ăn năn hối cải; nhưng họ lại tự phụ vì cho mình công chính hơn mấy hạng nguời trên, nên không cần ăn năn sám hối; dù bề ngoài họ rất tôn trọng lời giảng của Gioan, tôn kính Thiên Chúa…
* Chúa Giêsu luôn lúc nào cũng “thưa vâng” với Thiên Chúa: Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế, từ khi sinh ra cho đến cuối đời, trong lời nói cũng như trong hành động, lúc nào cũng thưa vâng với Chúa Cha. Người chính là khuôn mẫu hoàn hảo của nhân loại,vì đã luôn lúc nào cũng dâng hiến tất cả vinh quang và hạnh phúc cho Thiên Chúa. Vì vậy thánh Phaolô đã nói: (Phil 2, 6-8): “Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập giá…”
b/. Qua câu chuyện này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì?
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa xem ra chỉ trích gay gắt, trước hết là nhóm các thượng tế, kỳ lão, pharisêu; họ tuởng mình là công chính “bằng việc nói mà không làm”. Ngày hôm nay, Chúa cũng muốn nói thẳng với những ai, nói một đàng mà làm một nẻo, nếu không muốn nói là trái ngược… Còn trong đạo thì sao? Thực ra con số người thực hiện Lời Chúa còn khá khiêm tốn. Nhiều lần Chúa muốn nói thẳng với ta: “không phải cứ thưa lạy Chúa, lạy Chúa là được cứu rổi, mà chỉ những ai thi hành Ý Chúa Cha mà thôi…” Vậy người tuân phục Thiên Chúa chính là người thi hành chứ không nói suông. Ở đây Chúa nhấn mạnh việc làm, không phải là lời nói…
Câu chuyện: Anh Rmah Nguc, là người làng Plei-ia-ba, huyện Đức Cơ, bộ tộc Jrai, sinh năm 1966, được rửa tội từ nhỏ. Cha anh cũng là công giáo gốc, từng là người đi giúp đồng đạo thời Đức Cha Kim Paul Seizt… Sau năm 1975, tôn giáo và ngay cả những nét văn hóa như tiếng coòng chiêng, cũng bị kết tội là mê tín. Cha anh vì quá sợ hải nên… bỏ chuyện đạo qua một bên. Rmah Nguc lớn lên và hòa nhập nhanh vào đời sống xã hội. Các người lãnh đạo chú ý đến vì sự thông minh và hoạt bát của anh. Học xong lớp 9, R. Nguc được đưa đi học sơ cấp sư phạm để về làm hiệu truởng trường tiểu học của cả huyện. Chỉ mới 20 tuổi, anh đã được kết nạp đảng. Một vị lãnh đạo cho biết: “Thằng R. Nguc đã được đưa vào kế hoạch đào tạo để làm bí thư đảng ủy xã”. Là hiệu trưởng, anh đã sống hết mình cho học sinh. Năm 1990, cha anh mất, anh quyết tâm trở lại với Chúa. Dần dần cấp lãnh đạo biết anh là người công giáo, họ gọi anh lên cảnh cáo, đe dọa đủ cách, nhưng anh trả lời: “tôi theo đạo từ nhỏ, nên tôi phải giữ.” Thế là tự nhiên anh bị cho nghỉ việc, mất cả lương bổng, kể cả thâm niên…Anh bị người ta đuổi việc. Lúc đầu dĩ nhiên anh phải buồn…nhưng nhờ vậy, anh có nhiều giờ học giáo lý, đọc Thánh kinh… Ngày hôm nay (2002), nhà anh là là nơi giáo dân Jrai lui tới cầu nguyện. Có những buổi học giáo lý dành cho các ami (các bà mẹ), các ama (ông bố) và Lắc-ai (ca đoàn)…Rõ ràng anh Rmah Nguc, không vâng giữ lời Chúa chỉ bằng môi miệng; anh còn đem nó ra thực hành nữa…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thiên Chúa yêu thương và kêu gọi tất cả mọi người tham gia vào công việc của Chúa muốn thực hiện nơi trần gian (gọi là làm việc trong vườn nho của Chúa), là đem ơn cứu độ, đem lại hạnh phúc và sự sống đến cho mọi người. Ai đón nhận và tích cực thi hành chứ không chỉ nói suông mới là người tuân phục Thiên Chúa và thuộc về Chúa, là con cái Chúa. Ta là hạng người nào đây? Ta có tích cực cộng tác với Chúa, với Hội thánh để lo làm việc trong vườn nho Chúa, hay chỉ nói suông mà thôi? [Mục Lục]
NHỮNG CÔ GÁI ĐIẾM SẼ VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA TRƯỚC
Chủ đề nổi bật hơn cả của Chúa nhật XXVI thường niên A là sự thống hối ăn năn của con người tội lỗi gặp được lòng nhân lành của Thiên Chúa tình thương. Quả thật, lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là một chuỗi dài lịch sử tình thương, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa phán: “Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ” (Os 6, 6; Mt 9, 13). “Ta không muốn kẻ vô đạo chết, mà (muốn) kẻ vô đạo bỏ đường nó theo mà trở lại và được sống” (Ez 33,11). Cánh cửa trái tim nhân từ của Thiên Chúa luôn luôn rộng mở cho hết những ai chân thành hướng về Thiên Chúa với cả tấm lòng thành, và Ngài sẽ đón nhận họ với niềm vui khôn tả là cả thiên đàng sẽ vui mừng (x. Lc 15,10).
Chỉ có Thiên Chúa không qui kết tội lỗi mà còn thứ tha. Ngài là “Cha đầy tình thương xót” (2 Cr 1,3), là Thiên Chúa nhân lành, đầy lòng từ bi, và là Thiên Chúa mọi nguồn an ủi, luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội thống hối ăn năn, luôn muốn điều tốt cho con cái. Hoán cải thực sự là dứt khoát từ bỏ tội lỗi, thống hối vì những tội đã qua và xin Chúa thứ tha. Thiên Chúa thương xót sẵn sàng tha thứ và tuôn đổ Thánh Thần tẩy xóa mọi tội lỗi quá khứ của hối nhân.
Trách nhiệm của con người
Thiên Chúa muốn chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm, trả lời về những kết quả hành động của chúng ta. Nên chúng ta không được hành động nửa vời: vì nếu nửa vời chúng ta sẽ chết. Tiên tri Ezekiel cảnh báo: ” Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết ” (Ed 18, 28).
Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng, nói “vâng”, “tôi biết”, “tôi thực hành giáo lý” mà thôi, chưa đủ, phải hành động, phải lên đường. Chính người con trai đã nói “không” với cha mình, nhưng nó hối cải và đi làm vườn nho, anh ta đã làm theo ý người cha, như thế, anh bước vào giao ước tình thương của cha anh, anh đã yêu mến cha trong hành động và chân lý.
Chúa Giêsu lên án các thượng tế và kỳ lão là những người biết rõ Kinh Torah, Lời Thiên Chúa, nhưng chỉ biết thôi không làm cho họ nên công chính. Chúa long trọng tuyên bố: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). Các thượng tế và kỳ lão hiểu rất rõ sứ điệp trên, nên họ sẽ không dung tha cho Chúa Giêsu: ít ngày sau, chính họ là những kẻ sẽ lên án tử cho Người. Đúng, sự đồi bại của kẻ công chính sẽ dẫn đến cái chết, thậm chí dẫn đến cái chết của những người vô tội, như Hêrôđê dẫn đến cái chết của các thánh Anh Hài!
Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước
Lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu như một ánh hào quang của Tin Mừng được xây dựng chung quanh hạng nguời đĩ điếm, lý tưởng hoá họ và đối nghịch họ với những kẻ được gọi là công chính là các thượng tế và các kỳ lão, đã gây sốc cho nhiều người. Không có lời nói nào của Chúa Giêsu bị lạm dụng cho bằng lời nói: “Những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước” (Mt 21, 31).. Khi lý tưởng hoá hạng đĩ điếm, người ta cũng lý tưởng hóa luôn cả hạng người thu thuế, luôn đi kèm hạng đi điếm, là những kẻ cho vay nặng lãi, một loại luôn đồng hành loại gái điếm trong Tin Mừng đã gây lên một sự hiểu lầm đáng sợ, khi người ta không nhận thức đủ.
Những người thu thuế, là những nhân viên các cơ quan thâu thuế Roma, tham dự trong những hành xử bất công của những cơ quan này. Nếu Chúa Giêsu liên kết những gái điếm và những người thu thuế với nhau, Người làm vậy không phải là không có lý do; vì cả hai đều coi tiền bạc là sự quan trọng nhất trong cuộc sống.
Nếu Chúa Giêsu tôn trọng các cô gái điếm và người thu thuế hay kẻ tội lỗi, không phải do kiểu sống của họ, nhưng vì khả năng thay đổi và phục thiện… như Maria Madalêna, kẻ đã trở lại và đã theo Chúa Giêsu trên tất cả con đường thánh giá, là một gương mẫu cho sự này (đặt giả thiết bà là một cô gái điếm), Giakêu (x. Lc 9, 1-10), người phụ nữ Samaria (Ga 4, 1-42), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8, 1-11) và người con trai hoang đàng (x. Lc 15, 11 và 32).
Chúa Giêsu nói rõ lý do sẽ vào nước Thiên Chúa trước: “Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài” (Mt 21, 32).
Hoán cải không bao giờ là muộn.
Chúng ta được yêu cầu từ bỏ thái độ để ý đến mình hơn là tha nhân, thậm trí hơn cả Thiên Chúa nữa. Vì Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa”, là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 7, 21).
Những lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn về dụ ngôn hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho (x.Mt 21, 32). Qua đó, Chúa mở mắt những người Do Thái để họ hiểu rằng khi khép kín lòng mình trong sự bất chính và sai lầm của chính họ là một sự từ chối Nước Trời.
Họ nói “vâng” với Thiên Chúa. Nhưng trong thực tế, họ lại ngoan cố khước từ lời Thiên Chúa, gạt bỏ Nước Trời. Rõ ràng là nói “vâng” nhưng lại không thi hành. Và như một mẫu gưỡng về sự hoán cải, Chúa Giêsu đặt ra những tình huống trái nghịch: những người thu thuế và gái điếm. Ban đầu, họ nói “không” với Nước Trời và Giao Ước vì họ chưa nhận ra các yêu cầu phải thi hành để được vào Nước Trời, nhưng họ có đủ khả năng để thích ứng với dấu hiệu Nước Thiên Chúa. Sau đó, trên hành trình tìm kiếm Nước Trời. Dần dần, họ học cách nói “có”, nên Chúa Giêsu tuyên bố: “Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21, 43).
Phần chúng ta, chúng ta cũng phải học cách nói “có” … ” Con không đi’. Nhưng sau hối hận và đi làm” (Mt 21, 29). [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Trần Nguyên)
- Bài Tin mừng hôm nay không khởi đầu như thường lệ bằng câu: “Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng”, nhưng: “Khi ấy Đức Giêsu nói với các Thượng tế và các trưởng lão trong dân rằng”.
Vào thời Đức Giêsu, các Thượng tế và trưởng lão đại diện cho toàn thể giới lãnh đạo tôn giáo và xã hội Do Thái. Họ cho mình là rường cột của niềm tin chính thống và nền tảng của xã hội. Đức Giêsu đồng hoá họ với người con trưởng: Nói mà không làm.
- Đức Giêsu đảo lộn trật tự tôn giáo và xã hội. Ngài đồng hoá những người thâu thuế và các cô gái điếm với người con thứ hai: Ban đầu từ chối, nhưng sau đó hối hận và làm theo ý cha mình.
Bài Tin mừng không thuật lại phản ứng của những người đối thoại với Đức Giêsu. Nhưng sự so sánh của Ngài phải nói là rất táo bạo, phải được gọi là một cuộc cách mạng, một sự đảo lộn bậc thang giá trị: Hạ giới lãnh đạo, hạ những người chốp bu xuống và nâng những người tội lỗi, nâng hạng người bị xã hội khinh thường lên.
- Người Cha là chủ vườn nho. Ông không sai những đầy tớ, những người làm công lao động trong vườn nho của mình, nhưng sai chính những người con.
Ba điều khác lạ trong bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta, những kitô hữu của ngàn năm thứ ba, sống Lời Chúa thế nào?
- Đức Giêsu muốn trực diện và nói thẳng với mỗi người chúng ta: Không phải mang nhãn hiệu kitô hữu với giấy chứng Rửa tội, không phải mỗi ngày đọc kinh, mỗi Chúa Nhật tham dự Thánh Lễ là đương nhiên sẽ được giấy vào Nước Trời. Nhưng phải chấp nhận và hành động theo Tin Mừng, phải tuyên xưng và sống niềm tin, phải nối đạo với đời.
- Mỗi thánh nhân đều có một dĩ vãng. Mỗi tội nhân đều có một tương lai. Không vì một dĩ vãng đen tối mà nằm lì trong vũng tội. Hãy noi gương những người thâu thuế và các cô gái điếm để biết lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận Tin mừng và thống hối, canh tân đời sống. Không bao giờ quá trễ và phải khởi sự ngay trong ngày hôm nay.
- Chúng ta, giáo sĩ và giáo dân, là những người con được Chúa trao trách nhiệm làm việc trong vườn nho của Ngài. Mỗi người chúng ta phải rao truyền và sống Tin mừng: Trong mỗi hành động, chúng ta phải là chứng nhân của niềm tin kitô; qua mỗi lời nói, bằng mỗi câu chuyện, chúng ta phải an ủi, nâng đỡ tinh thần và chia sẻ kinh nghiệm của đức tin, cậy, mến cho nhau. [Mục Lục]
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Người thu thuế và gái điếm vào Nước Trời trước các ông.”
Lời nói của Đức Giêsu như một trái bom nổ trước mặt các thượng tế, kinh sư, pharisêu, những người đáng kính vì đạo đức và học thức, những người đáng trọng vì chức vụ.
Làm sao những người hư hỏng và tội lỗi lại có thể qua mặt các bậc đáng kính như vậy?
Đức Giêsu đã soi sáng trước bằng một dụ ngôn.
Người cha sai hai đứa con đi làm vườn nho. Đứa con thứ nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Đứa con cả từ chối, sau hối hận nên lại đi.
Con thứ tượng trưng cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo. Họ tuyên bố mình sống nghiêm chỉnh theo Lề Luật. Tiếc thay chính sự đạo đức của họ lại làm cho họ tự mãn và khép kín đến nỗi không thể tin vào Đức Giêsu và đón lấy Ngài như quà tặng bất ngờ của Thiên Chúa.
Đứa con cả tượng trưng cho những người tội lỗi, những người bị đặt bên lề xã hội và tôn giáo. Đời sống của họ là một sự nhơ nhuốc đáng buồn. Nhưng chính tội lỗi đã làm cho họ khiêm tốn và dễ dàng hoán cải trước lời mời của Gioan. Rốt cuộc, họ lại là những người tin vào Đức Giêsu và gặp được ơn cứu độ trước nhiều người khác.
Đi làm hay không đi làm vườn nho đồng nghĩa với tin hay không tin vào Đức Giêsu.
Niềm tin có khả năng biến đổi cuộc sống.
Niềm tin thực sự luôn chuyển thành hành động.
“Chúng tôi phải làm gì, dân chúng hỏi Đức Giêsu, để được gọi là làm việc của Thiên Chúa?”
“Làm việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài sai đến”
Đó là câu trả lời của Đức Giêsu (Ga 6,28-29).
Tin là một việc làm, một dấn thân nghiêm túc.
Niềm tin vào Đức Giêsu đòi hỏi một sự hoán cải và từ bỏ.
Giới lãnh đạo Do Thái Giáo sợ tin vào Đức Giêsu. Họ sợ mất chỗ đứng và quyền lợi, sợ phải thay đổi quan niệm của họ về Thiên Chúa.
Kitô giáo là tôn giáo của lòng tin.
Lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17).
Lòng tin không phải chỉ là một tuyên xưng ngoài miệng nhưng là một tuyên xưng bằng cuộc sống: “Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm ý Cha Thầy” (Mt 7,21).
Tôi phải tránh lối giữ đạo hình thức: có tiếng là Kitô hữu, nhưng lại không thuộc về Đức Kitô, bởi có một khoảng cách rất xa giữa điều tôi tuyên xưng và điều tôi sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đọc Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa là điều tốt, nhưng chưa đủ nếu không sống Lời Chúa. Bạn lượng giá thế nào về việc sống Lời Chúa của bạn trong đời thường đầy bon chen?
Bạn nghĩ gì về việc anh Giuse Nguyễn Đức Minh xin hiến thân xác anh cho y học? Bạn có coi đó là một hành vi đức tin cụ thể không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. [Mục Lục]
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Dụ ngôn hai người con trai là một truyện kể mà các phần tương ứng với ý tưởng Thiên Chúa muốn diễn ta. Chúa cố thử cho người ta hiểu điều sau đây: những người Biệt phái ưng thuận thi hành lề luật, nhưng đến cuối họ không đón nhận Đấng Messia được lề luật loan báo, thái độ ấy khiến họ thụt lùi sau những người tội lỗi. Những người này tuy không tuân giữ lề luật, nhưng cuối cùng đã biết đặt lòng tin vào Đấng được xức dầu của Thiên Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Hai người con trai là người thu thuế và người Biệt phái, người thì tuân giữ lề luật của Môisê, kẻ thì không. Những người thu thuế tuân giữ được ý định tối hậu của lề luật là tin vào Đấng Kitô cùng hoán cải vào đời sống; người biệt phái vì từ chối không chịu tin vào Chúa Giêsu cũng từ chối không hoán cải theo Phúc Âm. Kết cục người thu thế thi hành thánh ý Thiên Chúa, còn người Biệt phái thì không. Thông thường trong Phúc Âm khi một dụ ngôn nói thẳng cho người Do thái cũng kèm theo ý định giảng dạy cộng đoàn Kitô hữu. Do đó dụ ngôn hai người con trai cũng nói cho những ai trong Giáo Hội ngày nay buông mình mang lấy não trạng “chính nhân” giống như người Biệt phái. Chính cho chúng ta ngày nay mà lời khuyến cáo cần phải thi hành thánh ý Thiên Chúa, chứ không được dựa cậy vào những việc tuân giữ bề ngoài được thốt ra. Câu ngắn ngủi trung tâm của truyện kể được Chúa Giêsu tạo ra là: Ai là kẻ đã làm theo ý muốn của Cha? Ý muốn của Thiên Chúa ở đây là gì?
1) Ý muốn của Thiên Chúa là chúng ta tin vào Con Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc loài người. Nhưng cần nhấn mạnh điểm này: dụ ngôn đòi chúng ta hãy dấn bước lên đường vì đức tin chứ không buộc chúng ta phải đến nơi rồi. Khi nghe dạy ra vườn nho, một trong hai đứa con cuối cùng đã đi. Câu ấy có nghĩa là dấn bước, đi tới một mục tiêu. Trong đời sống đức tin luôn luôn phải lên đường. Chúng ta chưa bao giờ đến đích cả. Vào lúc Chúa Giêsu phán dạy ngụ ngôn, các người nghe Ngài nói ngay cả các môn đệ, không thể nào đạt tới một đức tin trọn vẹn, họ chưa có đủ các yếu tố. Chúa Giêsu chưa đưa các môn đệ vượt qua mọi giai đoạn dẫn đến lời tuyên xưng đức tin mà họ sẽ công bố sau ngày Hiện xuống. Nhưng điều quan trọng ở chỗ nào? Ở chỗ khởi sự tin với những ánh sáng ta có và với tất cả thiện chí ta có.
2) Làm cách nào để luôn tiến bước trong cuộc sống đức tin? Bằng cách tự hoán cải không ngừng. Tự hoán cải là không làm theo ý của mình, nhưng làm theo ý của Thiên Chúa. Thực thi thánh ý Thiên Chúa có nghĩa là sống thực sự là Kitô hữu không ở trong lời nói nhưng trong việc làm, không những ở các việc đạo đức, nhưng trong cụ thể đời sống. Đức tin tuyên xưng trong tâm trí cần phải thấm nhập cụ thể cách sống và xử sự của chúng ta. Nếu tính ích kỷ của chúng ta phản ứng lại đòi hỏi ấy, đó cũng là việc thường tình và cũng thường tình nếu thoạt tiên đôi khi chúng ta cảm thấy cám dỗ khước từ lời Thiên Chúa dạy. Thiên Chúa không xét đoán chúng ta căn cứ vào cơn cám dỗ hay phản ứng thoạt tiên ấy. Ngài xét đoán chúng ta “tại chỗ”, nghĩa là những gì cuối cùng chúng ta làm khi tuân theo ý Ngài. Phúc cho Kitô hữu nào đi theo con đường trực tiếp ấy mà đến Nước Trời! [Mục Lục]
Chúng ta luôn thấy trong cuộc sống có sự mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, có sự xung khắc giữa quyền bính và sự vâng phục trong nhiều lãnh vực của đời sống: trong gia đình, trong lớp học, trong nhà máy, trong chính quyền quốc gia và địa phương. Sự đấu tranh đó có quá nhiều khía cạnh mà chúng ta không thể nhắc đến được tất cả cũng như tìm cách giải quyết. Tuy nhiên chúng ta có thể đề ra một vài gợi ý.
Phần nhiều tùy thuộc ở cách thế, thời gian và nơi chốn mà lệnh truyền được ban ra. Cung giọng, vẻ mặt, cách xử sự góp một phần đáng kể có lẽ người cha trong câu chuyện Chúa Giêsu kể đã ra lệnh với cung giọng cộc cằn độc tài. Có lẽ không bao giờ ông tâm sự và chia sẻ với các con ông trong khi có những quyết định. Điều thực tế này rất thường có ngay trong đời sống giáo xứ, trong đời sống Giáo hội nói chung. Quyền bính và trách nhiệm được chia sẻ nhiều hơn thì sự đấu tranh phải giảm đi.
Dĩ nhiên, trên hết chúng ta coi như người ra lệnh hay những chỉ dẫn, thì có trí thông minh, khả năng hiểu biết và kinh nghiệm hơn.Trong câu truyện Chúa Giêsu kể, người con thứ nhất nói là anh ta đi làm, nhưng không đi làm. Người con thứ hai nói không đi làm và rồi lại đi làm.
Lúc đó Đức Giêsu quay lại phía các người chất vấn và hỏi họ: “Ai trong hai đứa con đã thi hành ý của Cha?”. Họ chỉ có thể đồng loạt trả lời: “đứa thứ nhất”. Đâu còn gì rõ ràng hơn, con người xứng danh được phán xét theo hành động họ làm, không theo ý hướng hay thay đổi của họ.
Khi thuật lại dụ ngôn này cho cộng đoàn, thánh sử Mt muốn biện hộ cho một Giáo Hội mở rộng vòng tay đón tiếp những người thu thuế, gái điếm đã hoán cải Ngài cảnh giác các Kitô hữu, xưa cũng như nay, chống lại một thứ tôn giáo bề mặt chỉ biết lải nhãi: “Lạy Chúa, lạy Chúa” nhưng không bao giờ “thi hành ý Cha”.Ngược lại, những người mà Do Thái giáo chính thức coi là đáng khinh bỉ và vô phương cứu chữa, những “người thu thuế” và “đĩ điếm”, những người tội lỗi công khai xem ra rất xa đường “công chính”, lại đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu cũng như họ đã đón nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy giả: họ đã “hối cải và tin vào lời Ngài”.
Thật là tuyệt vời nếu chúng ta nói rằng: “Con sẽ làm hay con cố gắng làm” và rồi thực tế là đã cố gắng làm việc đó.Có một người con như thế thật đẹp lòng Chúa biết bao. Thiên Chúa không chỉ cần ta hành động trong cuộc sống, mà Ngài con muốn mỗi người chúng ta vừa biết vâng lời như đứa con thứ hai, vừa biết thực hành như đứa con thứ nhất.
Lạy Chúa, mẫu gương vâng lời và thực hành tuyệt vời là chính Con Thiên Chúa, Đấng đã vâng lời Cha trên trời cho tới chết, xin cho chúng con cũng vâng theo và thực thi ý Chúa mỗi ngày trong đời sống chúng con. Amen. [Mục Lục]
TRONG DỰ ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA, SỰ CHẾT DẪN ĐẾN SỰ SỐNG
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Một học sinh đã thức khuya và dậy thật sớm để chuẩn bị cho kỳ thi tuyển vào trường trung học. Một nhạc công violon tập dợt nhiều tháng để trình diễn bản concerto đầu tiên dành cho violin của nhạc sĩ tài danh Mendelssohn. Một vận động viên đã chạy một đoạn đường khá dài mỗi ngày, ông thực hiện đó mỗi ngày để tham dự vào một giải chạy marathon.
Có phải Thiên Chúa giống như thế không? Có phải Người đã thực tập trước khi Người sáng tạo thực ư? Có phải bây giờ Người phải chịu đựng để mang vũ trụ đến một chung cục hoà điệu không? Có phải Thiên Chúa đang lớn dần lên và phát triển thành một điều gì quyền lực hơn bây giờ không? Dĩ nhiên là không rồi. Thiên Chúa hoàn hảo. Người không thể lớn lên và không thể thay đổi gì nơi thần tính của Người. Nhưng sự nhập thể lại là một chuyện khác.
Người Con Thiên Chúa, có tự đời đời và ngang bằng với Cha Người trong mọi sự, đã không do dự để trở thành một con người nhân loại. Trong lúc vẫn còn là thần linh, Người trở thành giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Những lời mà thánh Phaolô đã can đảm dùng để miêu tả sự Nhập Thể thì đáng chú ý như chính sự kiện: “Chúa Giêsu đã tự làm trống rỗng chính mình và mặc lấy hình hài của một nô lệ, được sinh ra trong nòi giống con người”. Chúa Giêsu trở thành con người để tuân theo Thánh Ý Cha của Người, để hoàn tất chương trình của Cha Người là cứu độ chúng ta. Chúa Giêsu giống như người con trong dụ ngôn, nói “vâng” khi Thiên Chúa Cha sai Người đi vào vườn nho của thế gian để làm việc hầu cứu độ chúng ta và Người giống như đứa con thứ, Chúa Giêsu đã đi thật sự. Chính vì điều này mà “Người đã trở nên sự vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Chúa Cha đã đáp lại hành động phi thường này bằng việc đưa Người Con tới sự sống Phục sinh. Chúa Cha không muốn Con của Người phải trải qua cái chết trong một cách như vậy, để rồi rơi vào quên lãng ngay cả trong bản tính nhận loại của Người nữa. Không. Chúa Cha muốn tán tụng Chúa Con và “ban cho Người một danh hiệu vượt trên hết mọi danh hiệu”. Nhưng điều kiện cho sự tán tụng này là, hay nói chính xác hơn, nguyên nhân của sự tán tụng này là Người đã vâng lời cho đến chết. Thánh Phaolô đã tuyên bố cách rõ ràng: “Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết” và bởi vì điều này mà Thiên Chúa đã tôn vinh Người. Chúng ta sẽ thấy từ: “Bởi vì” đã được viết hoa.
Không phải việc Chúa Giêsu chết và sống lại là một điều gì giống như anh chàng điên tự đập đầu mình rồi sau đó cảm thấy tốt hơn nếu không làm như thế nữa. Chân lý này mầu nhiệm Vượt Qua, dự định của Thiên Chúa Cha là biến những nơi đau buồn nên con đường để đến với niềm vui, sự khiêm tốn biến thành lời ca tôn vinh và cái chết biến đổi thành sự sống đời đời.
Mầu nhiệm Vượt Qua là con đường của Chúa, không chỉ vì một mình Chúa Giêsu mà cả chúng ta nữa. Chúng ta bước vào trong cuộc đụng chạm với Mầu Nhiệm Vượt Qua trong phép rửa tội, nơi mà chúng ta đã chết cho tội và sống lại với một sự sống mới thánh thiện trong Đức Kitô. Chúng ta cử hành mầu nhiệm Vượt Qua trong mỗi thánh lễ: chúng ta tuyên xưng “Chúa Kitô đã chết đi, đã sống lại và sẽ đến một lần nữa”. Từ hy tế Thánh Thể chúng ta kéo sức mạnh xuống để sống theo ý nghĩa của bí tích rửa tội. Giống như Đức Kitô, chúng ta phải vâng theo ý muốn của Thiên Chúa trong mọi sự, ngay cả cái chết nữa. Trong cung cách chúng ta đang sửa soạn cho cuộc kiểm tra cuối cùng, chúng ta thực hiện việc thông dự vào sự hoà hợp phong phú của thiên đàng và chúng ta cố gắng chiến đấu để ngày càng trở nên giống Đức Kitô hơn. Cung cách của Thiên Chúa là mầu nhiệm Vượt Qua, có vẻ lạ lùng đối với một số người, hoặc có vẻ thiên vị, nhưng Thiên Chúa đã dẫn Con của người qua Mầu nhiệm Vượt Qua. Chúng ta sẽ thấy sự khôn ngoan và niềm vui khi thông dự vào Mầu Nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô. [Mục Lục]
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Hôm nay, Thánh sử Matthêu kể cho chúng ta nghe một câu chuyện khá thú vị:
Một người cha có hai người con. Một hôm ông nói với hai con: “Hôm nay, hai con đi làm vườn nho cho cha nghe!”Hai người con đã đáp lại bằng hai thái độ khác nhau: Người con thứ nhất đã dùng tiếng “không”để đáp lại lời mời gọi của cha. “không, con không đi”. Nhưng sau đó, anh ta nghĩ lại, rồi quyết định đi làm vườn nho như ý cha muốn.
Ngược lại, người con thứ hai, ngay từ đầu đã tỏ ra lễ phép và vâng phục. Anh ta đáp lại: “Thưa cha, vâng ạ!”, nhưng đó chỉ là câu nói lừa bịp đối với cha, vì anh ta không đi làm vườn nho như ý cha muốn. Anh chỉ nói mà không làm.
Thưa anh chị em,
Ai cũng hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Chúa muốn nói với chúng ta: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói “có”ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói “không”, rồi sau đó anh đã đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy!
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hàng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.
Lời hứa không bao giờ có thể thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời; “Thưa cha, vâng ạ”. Nhưng rồi lại không đi làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Đạo Kitô dạy các tín hữu thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là người đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói làm là làm ngay.
Thưa anh chị em,
Ngày nay, người ta thường nói: “Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay”. Người Kitô hữu chúng ta vẫn có nguy cơ rơi vào một thứ “duy tâm”nào đó. Chúng ta cần để cho Lời Chúa “đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay”. Nhiều người chỉ nghe Lời Chúa bằng tai thôi- tai này lọt qua tai kia là hết- Nhiều người khác đã để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ… Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên hệ gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm… Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi cầu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được “đến đôi tay”, nghĩa là được người kitô hữu đem ra thực hành ở giữa chợ, ở trường học, ở cơ quan, và cả ở những nơi giải trí… Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.
Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun quén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, chia sẻ cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Thời Chúa Giêsu, những người Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình- nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Ngày nay cũng vậy: có Pharisiêu thời xưa thì cũng có Pharisiêu ngày nay: dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, tự chước chuẩn cho mình.
Kitô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Chúa Giêsu đã định nghĩa Kitô hữu là “ánh sáng cho thế giới”. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. “Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Chỉ có Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là CÓ chứ không phải khi CÓ khi KHÔNG. Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Này con xin đến để thi hành ý Cha” (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành ý Chúa Cha một cách hoàn hảo để nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời. [Mục Lục]
Thiên Chúa luôn muốn cho chúng ta những điều tốt đẹp nhất. Khi Chúa muốn ai đi làm một công việc gì thì chắc rằng điều đó có lợi cho loài người nói chung và bản thân người đó nói riêng. Do đó, chúng ta phải vâng lệnh và thi hành theo chương trình của Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta. Dụ ngôn hai người con cho chúng ta hiểu về đời sống đạo đức đích thực được thể hiện qua việc làm chứ không phải bằng lời nói suông.
Cả hai người này đều là con của Chúa. Ở đây không chú trọng đến tình trạng đạo đức của mỗi người con đó, cũng không để ý đến lời nói, nhưng quan tâm đến việc họ không làm hay sẽ làm. Thật ra, Chúa thường sai tôi đi làm công việc cho Chúa dưới hình thức nào, có bao giờ hiện ra gọi đích danh tôi không? Nếu Chúa hiện ra bảo tôi đi làm “vườn nho” chắc chắn tôi đã nói vâng và đi làm ngay, không dám chậm trễ. Tuy nhiên, Chúa không sai tôi trực tiếp mà sai tôi gián tiếp qua các vị bề trên, qua lời Kinh thánh, qua lương tâm, qua bổn phận trong cuộc sống. Ý Chúa thể hiện trong Mười Điều Răn, trong Tám mối phúc, trong lời giảng dạy của linh mục, bề trên, những câu giáo lý, hay qua những biến cố trong cuộc sống… Qua những gì đã hoặc sẽ xảy đến, tôi có thể đoán biết được mình là người thế nào, có những tính tốt hay tật xấu nào, cần phải làm gì… để xứng đáng là người con của Chúa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, cả hai người con đều được mời gọi đi làm cho Chúa, một người xem ra không vâng lời nhưng biết hối lỗi và làm theo ý Chúa, một người xem ra công chính nhưng lại không thi hành giáo huấn của Chúa. Có thể nói, cả hai đứa con này là tiêu biểu cho hai hạng người được Chúa mời làm vườn nho của Chúa. Có người nói “vâng” nhưng lại lười cố gắng, bỏ thi hành lời Chúa; có người nói “không” nhưng biết suy nghĩ và hối hận về sự vô lối của mình nên đã thay đổi cuộc sống và tin theo Chúa. Chúa không xét bề ngoài nhưng xét từ trong lòng mỗi người, vì thế Chúa có thể chọn những tội nhân làm môn đệ và ban cho ơn cứu độ, trong khi một số người biệt phái cứng lòng không nhận ra Chúa. Do đó, mỗi người chúng ta phải xét mình hằng ngày để hiểu rõ tấm lòng của mình đối với Chúa. Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt thứ hạng nào trong xã hội, vấn đề là mỗi người có làm, có sống theo lời Chúa dạy hay không.
Trong dụ ngôn này, người con thứ nhất nói: “con không đi”, cho thấy sự từ chối, bất tuân của kẻ tội lỗi, nhưng sau đó biết suy nghĩ lại, quyết tâm thay đổi và tuân phục thiên Chúa. Ngược lại, có những kẻ ngôn hành bất nhất, tỏ ra đạo đức nhưng chỉ là mồ mả tô vôi, không thi hành luật Chúa như lời họ nói. Khi Gioan Tẩy Giả đến làm phép rửa, nhiều tội nhân đến sám hối và chịu phép rửa, trong khi các kỳ lão, Biệt Phái lại từ chối lời mời gọi của Chúa, họ đã cứng lòng, bỏ qua mọi lời khuyên của Chúa. Những người mệnh danh là công chính này đã không nhận thấy thân phận yếu đuối nhiều lầm lỗi của mình. Phần chúng ta, chúng ta có hoán cải và lắng nghe tiếng Chúa luôn luôn không? Rất nhiều lần tôi chứng kiến ơn trở lại của người khác mà tôi có động lòng, từ bỏ lối sống cũ, mặc lấy Chúa kitô cách trọn hảo hơn trước không?
Chúng ta phải mau mắn thưa vâng và thi hành mọi lời Chúa dạy theo bậc sống, theo bổn phận của mình. Chúng con sẽ nổ lực thực hiện những gì mình hứa làm, nếu chúng con lỡ vấp phạm thì sớm ăn năn để được ơn tha thứ. Chúng ta có thể cầu nguyện, giúp đỡ những người khô khan, tội lỗi để họ trở về với Chúa và đến lượt họ khi trở nên sốt sắng sẽ là lời nhắc nhở chúng ta sống đạo tốt hơn.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con vốn là những kẻ tội lỗi, bất xứng trước mặt Chúa, nhưng Chúa không chấp tội chúng con, Ngài chỉ muốn con nhận ra được tình thương của Ngài và làm theo ý Ngài. Xin Chúa cho chúng con biết sống cho Chúa một cuộc đời mới để xứng đáng với tình thương của Chúa hơn và mai sau được Chúa thưởng trên Thiên Đàng vinh phúc. [Mục Lục]
(Suy niệm của Đức Ông Trần Văn Khả)
Bài Phúc âm theo thánh Matthêô 21,28-32 cần được đọc trong bối cảnh của những cuộc tranh luận cuối cùng giữa Chúa Giêsu và các người Pharisiêu và nhóm thù địch khác chống lại Chúa, và các cuộc này đưa tới sự căm thù và việc Chúa Giêsu bị lên án tử trên thập giá.
Ngoài ra đoạn Phúc Âm này cũng cần được đọc chung với bài sách Ngôn sứ Êdêkien (Ed 18,25-28, bài đọc thứ I Chúa nhật 26 Thường niên) về việc Thiên Chúa kêu mời người tội lỗi trở lại. Và đây là chủ đề của Chúa nhật thứ 26 hôm nay.
Trong mạch văn của Phúc âm thánh Matthêô, dụ ngôn Hai người con (Mt 21,28-32), cùng với Dụ ngôn những người tá điền vườn nho (Mt 21,33-41), và lời giáo huấn về viên đá góc tường bị loại bỏ (Mt 21,42-46), là những dụ ngôn và giáo huấn nhắm vào các tư tế và những người biệt phái và thái độ cứng cỏi của họ không chấp nhận lời mời gọi cứu rỗi của Thiên Chúa, qua con người và các phép lạ của Chúa Giêsu Kitô. Những người biệt phái đã hiểu rõ Chúa Giêsu nói những dụ ngôn này ám chỉ về mình, nên đã tìm cách bắt Chúa và loại trừ Chúa (xc Mt 21,45-46). Trước đó, họ chất vấn Chúa lấy quyền nào mà đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi khuông viên đền thờ (xc. Mt 21,23-27). Để trả lời họ, không những Chúa làm cho họ cứng họng im lặng, mà còn cho họ thấy sự cứng cỏi trong thái độ đối với Chúa, cũng như với lời kêu gọi thống hối ăn năn. Như vậy, không những Chúa Giêsu cho cho họ biết Ngài là ai, mà còn đòi buộc chấp nhận Ngài là vị cứu rỗi duy nhất.
Trở lại với bản văn của dụ ngôn Hai người con, chúng ta có đưa ra mấy nhận xét sau đây để có thể hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn và từ đó có những áp dụng cụ thể cho đời sống đức tin của mình.
Trước tin, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với chính những người hỏi Chúa. Chúa bắt họ tự vấn về thái độ phải có đối với lời mời gọdi thống hối và trở về, tức là đối với chính Chúa Kitô: “Các ông nghĩ sao?”
Tiếp theo, Chúa dùng hình ảnh vườn nho, rất quen thuộc với người biệt phái và các tư tế, để nói lên thái độ của người môn đệ đối với Nước Trời, tức là với Chúa Kitô. Họ thuộc về vườn nho đó, hay không thuộc về vườn nho đó; thế nào là thuộc về vườn nho đó hay không thuộc về vườn nho đó, là ở trong vườn nho đó hay ở ngoài vườn nho đó? Có người mang tiếng thuộc về vườn nho, ở trong đó, nhưng lại thực sự không thuộc về, không ở trong đó.
Sau cùng là hình ảnh trái ngược giữa nhóm người biệt phái và những người tội lỗi. Hình ảnh này thường thấy trong Phúc âm thánh Matthêô. Những người biệt phái tưởng là thuộc về, là ở trong vườn nho Thiên Chúa, vì là thành phần nồng cốt; nhưng thực ra họ bị phán quyết là đã bị loại ra ngoài (Mt 6,2.5.16; 7,21). Còn những người thu thuế, đĩ điếm, tội lỗi, thì lại được tuyên bố là thuộc về, là ở trong vườn nho (xc. 9,10-13), Lý do chỉ là vì một bên không có, một bên có điều kiện cần của việc thuộc về này: đó là tâm tình thống hối trở về (xc. Mt 5,20; 7,21)
Đó là tóm lược giáo huấn của Gioan Tẩy Giả gửi tới mọi người và dọn đường cho Chúa Kitô tới (Mt 3,1tt;11,12). Đó là sự công chính do Gioan rao giảng: thống hối trở về để tin nhận Chúa Kitô.
Hôm nay khi đọc và suy niệm bài Phúc Âm này, chúng ta cũng đang được Chúa Giêsu Kitô hỏi chúng ta: con nghĩ sao về Ta? Về lối sống đạo của con trong liên hệ với Ta? Về sự công chính mà con tưởng con đang có và từ đó tự nhủ thầm về phần phúc thiên đàng mai sau? Và chúng ta hãy tự kiểm thảo cách thành thực đức tin của chúng ta trước mặt Chúa trong lương tâm của ta. [Mục Lục]
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Vậy mà các anh lại nói, đường lối của Thiên Chúa không ngay thẳng” (Ez 18,25).
Nữ ca sỹ Frank Sinatra đã cất lên bài hát “Tôi đã làm theo đường lối của tôi, và cứ thế, tôi sẽ tiếp tục thực hiện, nhiều hơn, nhiều hơn nữa”. Đây là một quan niệm khá phổ biến. Con người có tự do. Vì thế, chúng ta dễ xác tín vào cuộc sống của chúng ta và cứ thực hiện, cứ sống theo cách thế của mình, theo lương tâm, theo tài năng của mình và cũng chẳng cần màng đến giá trị của chúng ta ra sao nữa. Nhưng đến một lúc nào đó, Chúa mời gọi chúng ta đi theo đường lối Chúa, thì cách tốt nhất, là chúng ta hãy sống theo con đường mà Chúa đã vạch dẫn, giống như Đức Giêsu đã thực hiện, khi Ngài dấn bước vào cuộc hành trình Thập giá.
Tiên tri Ezêkiel nói cho dân Israel về đường lối của Thiên Chúa, một cách rất rõ nét. Đó là một lối đường ngay thẳng và tốt lành. Đồng thời trong đường lối đó, Thiên Chúa cũng trao phó cho con người trách nhiệm để họ ý thức về những tội lỗi của chính mình. Dường như hơi kỳ lạ, là dân chúng phản kháng, chống lại tuyên bố trên. Họ cho rằng họ chẳng có trách nhiệm gì hết. Chính vì thế Ezêkiel đã khơi lại lời ca thán của dân khi họ nói “Đường lối của Thiên Chúa quả thật, không ngay thẳng chút nào”. Với sự ngạc nhiên, Thiên Chúa đáp trả khi vặn hỏi lại dân “Có phải đường lối của Ta không ngay thẳng, hay chính đường lối của các ngươi không ngay thẳng?”.
Lời phàn nàn của dân chúng dường như phát nguồn từ một não trạng cứng ngắc nơi những con người hay tự mãn, luôn cho mình là ngay lành và chân chính. Nhưng khi kẻ ngay chính từ bỏ sự ngay chính của họ, hay những con người tốt lành bỏ xa con đường tốt lành mà họ đang dấn bước, thì hậu quả sẽ ra sao? Thiên Chúa phán quyết một cách nghiêm khắc “Khi người ngay chính bỏ con đường ngay thẳng của họ và phạm những tội bất chính, nó sẽ chết. Cũng thế, khi một người gian ác từ bỏ tội lỗi họ đã gây nên mà tuân giữ các lệnh truyền của ta, và thi hành điều chính trực công minh, chắc chắn nó sẽ sống và không phải chết. Sự hoán cải và trở nên công chính là tâm điểm nơi phán quyết của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ cân nhắc sự hối lỗi của chúng ta và Ngài sẽ đổi ý định giáng phạt. Kiên trung đi theo đường ngay nẻo chính là điều trọng yếu, chứ không phải chỉ khẳng định là mình đã sống chính trực trong quá khứ một cách nhất thời mà thôi. Vì thế, những ai biết suy xét, biết thay đổi đời sống, biết đoạn tuyệt với những sai phạm, họ sẽ được sống, và không phải chết.
Đường lối của Thiên Chúa luôn là đường ngay chính, cho dù lối đường này nhiều khi có vẻ đánh đố và làm chúng ta kinh ngạc, đặc biệt khi chúng ta không hiểu nổi lòng thương xót của Thiên Chúa sâu xa như thế nào. Chúng ta có thể cứng đầu cứng cổ cho rằng, lối đường của Thiên Chúa không ngay thẳng. Nhưng ngay cả khi chúng ta cố tình chống lại lối đường của Thiên Chúa, thì đường lối của Ngài vẫn luôn là cách thế tuyệt vời nhất để biểu tỏ lòng yêu thương của Ngài đối với con người. Đức Giêsu chính là nguyên mẫu cho chúng ta. Ngài đã trọn vẹn đi theo đường lối của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã bắt đầu bài thánh thi ca tụng Đức Giêsu, bằng việc khuyến mời giáo đoàn Philip hãy có “cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau” giống như Đức Giêsu đã thực hiện. Ngài xin anh chị em tín hữu “Hãy sống khiêm nhường, luôn coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích riêng cho cá nhân, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác”. Theo Thánh Phaolô, cách thái này chính là lối bước trọn lành mà đức Giêsu đã vạch dẫn , và trên nẻo đường này, sự vâng phục Thiên Chúa luôn phải được thực thi cách triệt để.
Qua cách thái mà Chúa Giêsu đã thực hiện, Thánh Phaolô muốn ngỏ trao cho chúng ta một sứ điệp: “Đức Giêsu đã nêu gương cho ta, đã tự nguyện biến mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, sống kiếp phàm nhân. Khi mang thân phận con người, Ngài đã tự hạ vâng lời cho đến chết và chết trên Thập tự”. Đây là con đường dẫn đến núi sọ và huyệt đá. Đây cũng chính là con đường mà trong vườn cây dầu, Đức Giêsu đã khiếp sợ khi phải đối diện, đến mức độ Ngài đã khẩn xin Chúa Cha cất mình tránh khỏi con đường đó. Tuy nhiên Ngài đã chấp nhận dấn bước trong khiêm tốn, trong vâng phục và hy sinh cho đến chết. Lẽ tất nhiên, nhiều lúc chúng ta cũng có thái độ giống như đám đông ngày xưa. Họ đã la toáng lên và nói với Ezêkiel “ Đường lối của Thiên Chúa chẳng ngay thẳng chút nào”. Sự cố chấp này trái ngược hẳn với thái độ của Đức Giêsu, Đấng luôn khiêm tốn và vâng phục cách triệt để. Họ phản kháng như thế không phải là để tra hỏi xem đường lối của Thiên Chua như thế nào, không giống như Đức Giêsu đã hành xử. Cũng không phải là họ nài xin Thiên Chúa thực hiện nơi họ một lối đường khác. Không phải thế. Chính họ đã phản kháng, ngoan cố chống lại Thiên Chúa và đường lối của Ngài. Khi chúng ta chối từ con đường mà Thiên Chúa đã vạch dẫn, chính là lúc chúng ta đang chống lại Ngài, và đang tìm cách để đào thoát cũng như xa tránh Ngài.
Tuy vậy, như Ezêkiel đã mô tả, ngay khi chúng ta đang tìm cách né tránh đường lối Thiên Chúa, Ngài vẫn còn tạo cho chúng ta cơ hội để giúp ta sám hối và quay trở về. Động thái khoan dung này được biểu tỏ qua dụ ngôn của Thánh Mathêu trong phụng vụ hôm nay với hình ảnh về hai người con. Trong dụ ngôn, đứa con thứ đã thưa không với cha, nhưng sau đó nó suy nghĩ lại và thay đổi quyết định, trong khi đứa thứ nhất nói có, nhưng lại không đi làm vườn nho cho cha nó. Nếu chúng ta là chính đứa con đã từng nói không với Thiên Chúa là Cha của chúng ta, chúng ta vẫn còn cơ hội để thay đổi. Ngay cả như đứa con thứ nhất tuy đã thưa vâng nhưng lại không đi, nó cũng vẫn có thể sám hối và đổi thay . Chúng ta hay thích làm theo ý chúng ta, thế thì tại sao, chúng ta lại không cố gắng tìm kiếm và thi hành theo đường lối của Thiên Chúa. Điều đó tùy thuộc vào thái độ nội tâm nơi mỗi người. [Mục Lục]
chính là thay đổi ngay lập tức
Một người bạn nói với tôi: -Việc biểu dương những kẻ mại dâm làm tôi bực mình. Cha sở của chúng tôi luôn trưng dẫn bản văn này: “Những cô gái mại dâm sẽ vào Nước Trời trước các con”.
Tôi đã sửa lại: Tin Mừng không nói “sẽ vào trước các con” mà là “vào trước các con”. Chúa Giêsu không dành một sự ưu tiên về mặt lý thuyết cho tất cả các cô gái mại dâm! Ngài nhận thấy một điều đó là trong số các thính giả của Ngài, những cô gái mại dâm là những người đầu tiên tin vào Ngài và trở lại đạo.
Người bạn của tôi ngập ngừng.
– Tôi làm vui lòng Chúa Giêsu nếu tôi là một tên vô lại chính cống hơn là một người suy nghĩ chín chắn hay sao?
Tôi đã thấy nhiều người Kitô hữu vấp phải khó khăn này, nhất là sau một bài giảng trong đó người ta đã hành hạ họ. Chắc chắn họ không để ý rằng họ phản ứng hơi giống như những người Pharisêu mà Chúa Giêsu dành dụ ngôn hai người con cho họ.
Hai người con nhận cùng một lời mời gọi. Đây là chi tiết chủ yếu: cho dầu hoàn cảnh và cuộc sống của chúng ta như thế nào, Thiên Chúa vẫn dành cho chúng ta lời mời gọi cơ bản và cũng một lời đề nghị đó. Những khác biệt giữa chúng ta có thể là lớn, nhưng chúng rất hời hợt so với sự chọn lựa sâu xa của chúng ta; trả lời vâng hoặc không cho Chúa Giêsu Kitô.
Khi hai người con nghe: “Hôm nay con ra làm vườn nho cho cha nhé”, một người nói vâng, nhưng anh ta không đi. Người kia nói không, nhưng “nghĩ lại” anh ta lại đi. Hãy ghi nhớ hai tiếng mấu chốt: hôm nay và nghĩ lại, và bạn hãy nghĩ đến những người vây quanh Chúa Giêsu lúc Ngài nói điều này. Chính Ngài là lời mời gọi của Thiên Chúa, lời mời gọi mạnh mẽ nhất: “Hôm nay, hãy lắng nghe Ta trong khi lắng nghe Con Ta”.
Cho tới lúc đó một số người tin rằng họ nói vâng với Thiên Chúa nhưng thực tế họ nói không với Ngài. Họ không biết thực sự người ta nói vâng với Thiên Chúa như thế nào. Trên quan điểm này những người Pharisêu gống y như những cô gái mại dâm. Tất cả những người ấy đều đứng trước cơ may lớn lao là cuối cùng có thể nói vâng với Thiên Chúa ngay lập tức (vào ngày hôm nay): họ chỉ cần lắng nghe Chúa Giêsu là đủ. Những người mại dâm chớp lấy cơ may này, trong khi người Pharisêu bình chân như vại.
Làm sao giải thích một phản ứng khác biệt đến thế được? Tất cả đều nằm trong điều này: “nghĩ lại”. Để nói vâng với Thiên Chuá, phải bắt đầu bằng việc thấy rằng chúng ta đang nói không với Ngài. Thú nhận điều đó không phải là điều dễ dàng. Có một nguy cơ rình rập những người tốt nhất, những kẻ có nhiều nỗ lực như người Pharisêu: tin rằng mình ở gần Thiên Chúa đến độ không nghĩ đến hoán cải, thay đổi. Đối với những người mại dâm, tiếng không của họ nói với Thiên Chúa lớn đến nỗi họ không ngần ngại khi họ đã hiểu họ có thể nói vâng với Ngài ngay lập tức. Chúng ta, người con cả! Chúng ta nói biết bao nhiêu lần Amen… nhưng chúng ta không nhúc nhích.
– Thế thì phải làm người luật sĩ hoặc kẻ mại dâm?
– Không, mà là khám phá ra chúng ta là những luật sĩ và những người mại dâm. Dù là ngươì này hay người khác, tức là những kẻ tội lỗi. Khi chúng ta ý thức về điều đó, chúng ta có cơ may làm người con thứ hai, người con của tiếng vâng thực sự. [Mục Lục]
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Thomas Mertin mồ côi cha mẹ lúc lên mười sáu tuổi, hai mươi tuổi ông theo Đảng Cộng Sản, lúc hai mươi ba tuổi thì trở lại đạo Kitô, hai mươi bốn tuổi làm phóng viên cho tuần báo New York, sau khi nghỉ phóng viên đến hai mươi sáu tuổi từ bỏ mọi sự cuốn gói đi theo Chúa.
Thomas Mertin đến ở nhà Dòng Kentucky và trở thành tu sĩ sống đời chiêm niệm. Trong tập sách tự thuật về “Cuộc Đời Của Mình”, Thomas mô tả lại những bước đầu tiên của cuộc trở lại như sau:
Lúc đó tôi vừa mới xong trung học và đang dùng xe lửa để đi thăm khắp nơi Âu Châu với một cuộc sống khá phung phí. Một hôm nằm trong khách sạn, tôi chợt ý thức về những tội lỗi của mình, tất cả mọi sự qua đi thật nhanh. Tôi như được soi sáng để nhìn biết sự khốn cùng của tâm hồn tôi. Tôi nhất định thoát ra khỏi hoàn cảnh này, khỏi những ồn ào và lần đầu tiên Thomas Mertin đã ý thức là mình đã có kinh nghiệm cầu nguyện, cầu nguyện để xin Thiên Chúa giải thoát mình khỏi mọi ràng buộc.
Bài Phúc Âm hôm nay xem ra như người con thứ nhất nói không đi rồi lại đi, anh ta có một thái độ thay đổi cách tự động máy móc. Nhưng trong thực tế, trong đời sống thiêng liêng của mỗi người chúng ta, cần phải có thời gian cùng với những lời cầu nguyện, xin Chúa thương nâng đỡ chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi hoàn cảnh hiện tại là đang sống trong tội lỗi, đam mê của xác thịt. Mỗi người cần phải ăn năn trở lại, cần phải thưa vâng với Lời Chúa mời gọi, vì không ai có thể nói là mình đã hoàn toàn thưa vâng với Chúa.
Mỗi người đều cảm thấy nhiều khó khăn làm mình khó trở lại, khó chấp nhận với hoàn cảnh hiện tại của mình, cảm thấy trống vắng và muốn thay đổi, cảm thấy có một sự không ổn nào đó trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Đó là bước đầu tiên của tiến trình trở lại cùng Chúa. Rồi một biến cố nào đó đánh động và mở ra một quyết định, một bất ngờ như Thomas Mertin đang ở trong khách sạn, bất ngờ cảm thấy sự khốn cùng của mình và muốn vượt ra khỏi sự khốn cùng ấy.
Nói theo ngôn ngữ thần học thì đây là giây phút của ân sủng đánh động, mời gọi chúng ta trở về với Ngài để đời sống chúng ta được ăn khớp với lời dạy của Chúa. Cuối cùng cần phải có một quyết định cụ thể để thực hiện một việc làm theo hướng đi mới. Mỗi ngày chúng ta cần cầu nguyện nhiều và tiếp xúc thân mật với Chúa để xin Chúa ban ơn soi sáng cho chúng ta có một quyết định dứt khoát theo đúng hướng đi mà Chúa muốn chúng ta tiến bước. Hơn nữa, mỗi ngày chúng ta cần trở về với Chúa và thưa với Chúa “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa”.
Xin Chúa soi sáng giúp con nhận ra thánh ý Chúa trong những việc làm hàng ngày, trong những biến cố xảy ra trong đời sống của con và xin Chúa ban cho con được ơn can đảm chu toàn đến cùng, xin Chúa gìn giữ mỗi người trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính. [Mục Lục]
1) Ý nghĩa thứ nhất của dụ ngôn:
Do Thái và lương dân đều có những thái độ khác nhau, giống như thái độ của hai anh em đề cập trong dụ ngôn. Những người trước nài xin vâng rồi bỏ đi, và giờ quyết định họ sẽ bị kết án. Còn lương dân bị gạt bỏ, sau tìm thấy đường về với nước Chúa. Lối giải thích phổ biến này có vẻ hữu lý, nhưng chưa đi vào điểm cốt yếu. Không thể quả quyết về lương dân rằng họ đã từ chối từ nguyên tắc. Nói chung, thái độ của những người đại diện ưu tú của họ chứng tỏ rằng, họ là những người đang tìm hiểu và nhận biết đấng thần linh là lẽ sống của họ. Nhưng theo lời chú giải riêng của Đức Kitô, Ngài đã hướng dụ ngôn này theo một ý nghĩa khác.
Có những nhà chú giải thấy ở đó sự giải thích về tương quan giữa lý thuyết và thực tế. Bản văn tin mừng chỉ có những người trong lý thuyết không chấp nhận, nhưng lại chấp nhận trên thực tế. Song giải thích này cũng bất toàn, vì lời chối từ của người đầu tiên không dựa trên những nhận định lý thuyết mà phát sinh từ một tâm tính cục cằn và bất nhã. Những người khác thấy trong dụ ngôn của Chúa sự đối lập giữa thực tại và vẻ bên ngoài. Người con thứ hai hình như vâng lời, nhưng thực tế lại bất phục. Trong lúc người có một tâm hồn tốt đẹp, nhưng bên ngoài lại khó thương. Lối giải thích này cũng vô ích nếu ta đào sâu bản văn, vì yếu tố cốt yếu không phải là tình trạng cố hữu, cũng không phải là thái độ trung thực núp trong vẻ bên ngoài giả dối. Yếu tố cốt yếu chính là sự hoán cải tình cảm, chính là một ý hướng canh tân, một tình trạng cải hóa của con người: nghĩa là hối hận về một thái độ sai lạc và sau khi đã ý thức, họ ước muốn thay đổi. Đây là điều thấy hiện rõ trong lời Chúa: “Rồi sau anh hối hận và đi làm”.
Theo lời quả quyết của Chúa Giêsu, dụ ngôn này nói về những điểm khác nha giữa những người biệt phái và luật sĩ, những người thu thuế và những kẻ khác, những người lãnh đạo tinh thần của Israel sống mãi trong một thái độ vị kỷ, làm họ xa Thiên Chúa. Chỉ biết chấp nhận lời Chúa, họ trung thành với Môisen, với đức tin, và với những đòi hỏi, như đứa con thứ nhất trung thành với ý cha. Còn khi những giới luật Thiên Chúa không còn đáp ứng với những nguyện vọng cá nhân của họ, họ không còn tha thiết nữa. Qua việc làm của Gioan Tẩy giả xưa, Chúa đòi hỏi việc thống hối, kêu gọi hoán cải tâm hồn và cuộc sống, thì họ không lo gì đến. Còn những người phần thu có lẽ đã lầm lạc, có lẽ hành động trái với thiên ý, nhưng khi họ nghe thấy tiếng gọi của Chúa Giêsu, họ hối cải và đạt tới nước Chúa. Trung thành đích thực nghĩa là sẵn sàng trả lời tiếng gọi của Chúa. Người ta không thể tự khép mình mãi trong một hình thức cuộc sống, vì họ phải thay đổi ngay nếu tiếng gọi từ cao đòi hỏi. “Các ông đã không thống hối để tin vào Gioan tẩy giả”. Đó là lời mắng trách mà Chúa Giêsu nêu ra cho bọn Biệt Phái.
2) Ý nghĩa thứ hai của dụ ngôn.
Những chú giải khác đem tới kết luận khác nhau. Một lối chú giải sai lạc chỉ nêu cao ý nghĩa lịch sử. Dụ ngôn được áp dụng theo dự phóng của thời đại cho thái độ khác nhau của Do Thái và lương dân, biệt phái và phần thu. Lối giải thích lịch sử đó khá xa xôi với đòi hỏi quan trọng nhất. Vì như thế, dụ ngôn chỉ áp dụng cho kẻ khác chứ không cho chính mình.
Dụ ngôn có một ý nghĩa khác nếu ta thấy trong đó có một đòi hỏi phải sẵn sàng tin tưởng. Trong trường hợp này, con người cảm thấy tâm hồn bị khích động rồi nhận ra một đòi hỏi khắt khe rằng: cần phải thuộc về Giáo Hội và phê bình những ai ở ngoài Giáo Hội, rồi sẽ ngoan cố bịt tai không chịu nghe thấy tiếng gọi của Ngài. Vô tình người ta tự cho mình đang đi đúng đường và sống trong tình trạng thiện hảo. Lòng tự tin sai lạc này biến thành cảm giác tự mãn: trong lúc kết án Biệt phái thì người ta lại trở nên giống họ! Ở đây trái lại, Đức Kitô mạnh mẽ mời gọi những ai nghe theo tiếng Ngài phải thống hối, biến đổi, sẵn sàng thay đổi hay hoán cải cuộc sống theo lệnh Thiên Chúa. Thái độ chính đáng duy nhất là tâm hồn sẵn sàng đón nhận đức tin, luôn luôn chú ý nghe và vâng lời, không tự ý điều hòa cuộc sống, nhưng đặt tất cả trong bàn tay Thiên Chúa. Những người có tín ngưỡng giữ đạo theo vẻ bên ngoài, với thời gian sẽ không được chấp nhận vào nước Chúa. Những kẻ khác, bề ngoài có vẻ theo một đường xấu, nhưng trong thâm tâm nhận biết sự sai lạc của tâm hồn mình rồi hoán cải, chính họ sẽ được cứu rỗi. Vậy dụ ngôn này đề phòng chống lại thái độ cứng lòng trong tâm hồn, sự kiêu hãnh tôn giáo, sự an bình giả tạo bên trong và đòi hỏi chúng ta phải nghe Thiên Chúa để theo tiếng gọi của Ngài. Con người phải hoán cải và để cho người ta hoán cải không ngừng, bởi vì từ một thái độ sai lạc, họ sẽ lầm lạc vào đường xấu. Cho dù bên ngoài, tất cả xem ra tốt đẹp. Thật là kỳ cục khi thấy Chúa Giêsu yêu thích những kẻ phần thu hơn những bọn Biệt Phái và Luật sĩ. Hẳn thái độ đó phải là dịp tội cho Do Thái. Nhưng sở dĩ như thế, vì Chúa Giêsu thấu suốt thâm tâm nhân loại. Một tội nhân ý thức về tội tính của mình và hối cải khi được ơn sủng đánh động, còn giá trị hơn một người mộ đạo chỉ muốn sống trong vẻ đạo đức của mình, và vì kiêu ngạo không nghe thấy tiếng gọi siêu nhiên. Hiểu như thế, dụ ngôn bày tỏ sự nghiêm trọng và thái độ cứng rắn đặc biệt đối với những ai ở bên trong. Dụ ngôn khiển trách thái độ hoán cải giả trá và thái độ bất mãn ban đầu. Khi con người đi từ thái độ chấp nhận đến từ chối, thì đó là thái độ đáng thương hại. Vì thực ra, phải đi từ từ chối đến chấp nhận mới hợp lý. Con người mà luôn luôn liều lĩnh chối bỏ Thiên Chúa, cũng sẽ phải tỏ ra luôn sẵn sàng hối cải cách trung thực nhất. Đó là điều mà dụ ngôn này bàn tới. [Mục Lục]
Anh chị em thân mến.
Một lần nọ, người chủ ruộng dẫn con trâu đến mảnh đất để cày, con trâu và người chủ làm việc suốt buổi sáng. Đến trưa người chủ thả trâu cho nghỉ ngơi và ăn cỏ, còn người chủ cũng ăn uống lấy sức. Con trâu đang nằm nhơi cỏ, thì bỗng đâu có con cọp xuất hiện làm cho trâu hốt hoảng, nhưng cọp trấn an trâu và nói: thân mi to lớn, với sức khoẻ phi thường, tại sao mi phải lệ thuộc con người yếu đuối và chịu sự điều khiển như thế? Con trâu trả lời: con người tuy nhỏ bé, yếu đuối, nhưng họ có trí khôn, nên sức mạnh không làm gì được trí khôn của họ. Cọp mới hỏi trâu trí khôn là gì mà ghê thế? Trâu bảo cọp hãy đến hỏi con người. Cọp mới đến gần con người xin cho xem trí khôn. Con người bảo là để quên ở nhà, anh bảo cọp chờ anh ta về nhà lấy cho nó xem. Nhưng anh ta chợt suy nghĩ và bảo cọp. Mi hãy để ta trói mi lại, chứ nhở khi về lấy trí khôn cho mi xem, mi sợ và bỏ trốn thì sao? Cọp bị chạm tự ái, nên để cho người trói lại. Vừa trói xong, anh ta lấy một cây to đến bên cọp và đánh cho đến khi cọp không còn sức vùng vẫy nữa, anh ta bảo: trí khôn của ta đây nầy. Con trâu nhìn thấy thế và mỉm cười cho cọp.
Con trâu nhận ra được sức mạnh của con người nên nó vâng phục và không cưỡng lại, nên nó được an toàn và được sức mạnh đó bảo vệ nó. Còn con cọp, không biết được thực chất như thế nào nên nó bị sức mạnh đó tiêu diệt nó.
Hai người con trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu cho mọi người nhìn thấy, họ không phải là những người bốc đồng hay thay đổi. Nhưng người con thứ nhất biết suy nghĩ và nhận ra được giá trị đích thực của cuộc sống, anh nhận ra được sức mạnh của tình yêu thương nơi người cha, nên anh hối hận và quay trở về với tình yêu thương và thi hành những gì mà người cha bảo anh làm. Còn người con thứ hai, chỉ sống hời hợt bên ngoài, anh tưởng nghĩ có thể lấy lòng người cha bằng cử chỉ bên ngoài; anh đã lầm, người cha rất buồn và có lẽ cũng đang chờ đợi anh hành động theo như những gì mình đã nói. Người thi hành ý muốn của cha, mới là người vâng lời cha thực sự, chứ không phải người nói khác nhưng thực hành hoàn toàn khác là có giá trị.
Ngôn hành bất nhất là những gì thường thấy nơi con người. Khi con người chỉ biết có chính mình mà không biết đến người khác, khi đó lời nói và hành động khó mà đi đôi với nhau được.
Những gì là thường tình của con người, những gì là của câu chuyện ngày xưa, nó có phải là những gì của mỗi người trong chúng ta ngày hôm nay không?
Nhiều lần trong cuộc sống, mỗi người chỉ nhìn thấy chính mình, nhìn thấy những gì mình có, những gì mình làm được, để rồi mang niềm tự hào đến tự phụ kiêu căng. Khi đó, Thiên Chúa không còn hiện diện và không có giá trị cho cuộc sống, vì khi đó chỉ có tài năng sức lực con người là trên hết. Thiên Chúa dường như phải thi hành để trả lại cho con người những gì đã ban ra. Những lúc đó, chúng ta giống như con cọp trong rừng, không biết mình cũng không biết người, không giá trị của mình như thế nào. Nếu cứ ngoan cố trong những ý nghĩ và suy tư của mình như thế, thì số phận của chúng ta không khác gì số phận con cọp bao nhiêu.
Nhưng nếu trong cuộc sống, chúng ta nhận ra quyền năng Chúa, chúng ta cũng nhận ra được những giới hạn của chính mình, để biết quay trở về và vâng phục thánh ý Chúa thì hạnh phúc biết bao.
Những lần chúng ta dâng lên Chúa những lời kinh, những lời cầu nguyện chân thành, cùng với những việc làm tốt đẹp mà chúng ta nhìn thấy nhu cầu cần thiết của người khác và đáp ứng cho họ. Đó là những lần chúng ta thi hành thánh ý Chúa bằng cả lời nói và việc làm. Cũng có những lúc chúng ta thấy bất mãn trong cuộc sống, muốn bỏ cuộc, muốn buông trôi tất cả, muốn hành động cho thỏa cơn nóng giận, nhưng chợt kịp suy nghĩ và ngưng ngay lại, vì nhận ra đây là những điều không đẹp lòng Chúa. Đó là những lúc chúng giống như người con thứ nhất, nói không rồi chợt hối hận để sẳn sàng thi hành những gì đẹp lòng Chúa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa soi sáng cho mỗi người để biết nhận ra Chúa trong đời sống, đồng thời cũng biết nhận ra những yếu đuối của chính mình để biết quay trở về với tình yêu Chúa. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trang Tin Mừng hôm nay trình bày dụ ngôn hai người con nhận cùng một lời mời gọi của cha với hai thái độ khác nhau.
– Người con thứ nhất: Lúc đầu từ chối, không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại, nó đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Chúa Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.
– Người con thứ hai: Lúc đầu ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này có vẻ công chính, tượng trưng cho các Thượng tế Kinh sư Pharisiêu. Tuy giữ luật Môsê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối Gioan Tẩy Giả, người đã đến chỉ đường công chính. “Thưa cha, con đây”: câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo; “Nhưng rồi lại không đi”: đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng bề ngoài. Sau đó nó không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Anh ta có thái độ “ngôn hành bất nhất”, “nói mà không làm”, “nói một đàng mà làm một nẻo”. Một đời sống vụ hình thức bề ngoài. Một thái độ đạo đức giả. Người con thứ hai ám chỉ những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu. Thời ấy, họ là những bậc vị vọng, họ tự xưng mình là đạo đức, công chính, trong sạch. Thực tế họ rất giả hình. Nói rất hay nhưng không thực thi điều mình nói. Họ nói mà không làm.
Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn. Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Con người dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn nữa khi việc làm mâu thuẫn với lời nói.
Nói và làm, một tiêu chuẩn để xét định đời sống.
Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đó là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Ở đây rõ ràng có hai loại người: nói ít làm nhiều và nói nhiều làm ít.
– Nói ít làm nhiều.
Nói ít không phải là “ít nói” vốn thường hiểu theo nghĩa tiêu cực bộc lộ một lòng trí tối tăm hay lòng dạ mưu mô. Nói ít cũng chẳng phải là không có gì để nói hay không biết nói gì. Trái lại người nói ít là người biết mình nói gì và cũng là người có khả năng nói nhiều với chính mình bằng ngôn ngữ tư tưởng, với người bằng ngôn ngữ hành động. Chính vì thế họ dễ trở thành những người “làm nhiều”. Những người nói ít làm nhiều thường là những người tốt bụng, nhiệt thành với công việc, chu toàn nhiệm vụ và biết trách nhiệm. Họ không làm phiền người bên cạnh. Họ thích làm tốt cho người khác. Họ không bận tâm đến tiếng chê, chẳng nặng nợ với lời khen. Họ chăm chỉ làm việc và quan tâm tới từng việc làm. Với họ, làm là cách nói tốt nhất.
– Nói nhiều làm ít.
Có những người nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Họ là những người hay nói. Hay nói chưa chắc nói hay nhưng chắc chắn một điều: hay nói là một cánh cửa luôn rộng mở cho những người thích nói hay nói tốt về mình, để làm điều kiện thuận lợi cho việc dèm pha phê bình người khác. Đây là một nguy cơ của việc nói nhiều. Có biết đâu phê bình người khác lại là một cách bộc lộ lòng dạ mình ra. Mang kính đen thì phê bình sao người khác đen quá, giống như lưỡi đắng có bao giờ thấy canh ngọt. (x. Làm nụ hoa trắng, trang 90-91, ĐGM Vũ Duy Thống).
Nói và làm, hai thái độ sống
Sau câu hỏi, Chúa Giêsu xác định một câu nghe thật nhức nhối: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”. Những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu không chịu nghe lời Chúa, không ăn năn sám hối. Những người thu thuế và gái điếm, khi được mời gọi đã thành tâm sám hối. Có hạng người nói không làm và hạng người làm không nói.
– Người nói mà không làm. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi.
– Người không nói nhưng lại làm. Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa.
Những bài học
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai bài học quan trọng.
– Việc làm quan trọng hơn lời nói.
Chính việc làm minh chứng lời nói. Chính việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay có đẹp đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Nhưng trái lại, có những người nói không hay, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời chúng ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, chúng ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Con đường đi từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Rung động trước nổi khổ của người khác là điều tốt, giúp cho họ bớt khổ là điều tốt hơn. Thánh Gioan khuyên rằng: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Những Luật sĩ Biệt phái Kinh sư bị lên án dữ dội vì họ giả hình. Họ nói mà không làm. Họ đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng bản thân lại tránh né. Ngày nay cũng vậy, có những bậc cha mẹ dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, không làm gương sáng cho con cái. Chúa đòi hỏi phải thực hành: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.
– Hãy làm một cách khiêm tốn.
Những người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương. Muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Ðeo rồi, sợ người khác không nhìn thấy, họ phải “đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài” để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương dễ biến thành tự phụ tự mãn, hợm hỉnh. Nên những người Pharisiêu “ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy”.
Khi phê phán người Pharisiêu, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ hãy sống đạo trong kín đáo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy… Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo… Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy… Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Ðấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,1-6). Kín đáo làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến Chúa chân thực sẽ dẫn đến thái độ khiêm tốn, luôn biết kính trọng người khác và luôn biết phục vụ anh em.
Xin Chúa giúp chúng con biết sống “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng con luôn đẹp lòng Chúa và mưu ích cho tha nhân. Amen. [Mục Lục]
Có một ông công chức, khi về hưu, đã mua mấy mẫu đất ở miền quê để làm một thửa vườn rộng. Thế nhưng, ông thấy mình không thể đảm đương hết mọi công việc, nên ông đã đi thuê người giúp việc.
Đầu tiên, một chàng thanh niên tới và ông đã hỏi:
– Anh có biết gì về nghề làm vườn hay không?
Anh trả lời:
– Tôi có biết chút ít.
Ông ta chỉ dẫn cho anh:
– Anh hãy lấy những hạt giống này, ngâm vào nước âm ấm cho qua một đêm, rồi mới đem gieo trồng.
Thế nhưng anh đã phản đối và cho rằng đó không phải là một cách thức tốt.
Sáng hôm sau, một chàng thanh niên khác đến xin việc, ông ta cũng hỏi:
– Anh có biết gì về nghề làm vườn hay không?
Anh trả lời:
– Tôi không biết nhưng rất vui lòng được học.
Ông ta cũng chỉ cho anh cách ươm cây và anh đã vâng theo làm như vậy. Cuối cùng ông ta cắt nghĩa:
– Đây là giống bạch đàn không dễ gieo trồng. Nếu không ngâm vào nước ấm trong một đêm thì hạt sẽ khó mà nẩy mầm.
Và chàng thanh niên đã thú nhận:
– Tôi không biết lý do nhưng tôi nghĩ rằng ông có kinh nghiệm hơn tôi nên ông bảo sao thì tôi làm như vậy.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Một số người có quyền và có bổn phận bảo cho người khác điều phải làm. Chẳng hạn người cha trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe, có quyền và có bổn phận đó. Còn hai người con của ông tiêu biểu cho chúng ta, là những người có bổn phận phải làm, phải thi hành, phải vâng theo.
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, luôn có sự xung khắc giữa quyền bính và sự vâng phục trong nhiều lãnh vực của đời sống. Chẳng hạn như nơi gia đình, trường học, nhà máy, chính quyền và có khi ngay cả nơi Giáo Hội, là gia đình của Thiên Chúa.
Riêng với chúng ta, những người có bổn phận phải vâng nghe, chúng ta hãy coi những người ra lệnh hay chỉ dẫn là những người có khả năng và hiểu biết hơn chúng ta. Nhất là đối với cha mẹ trong gia đình.
Như chúng ta cũng đã thấy cha mẹ là những người thay mặt Chúa để nuôi dưỡng giáo dục chúng ta, vì thế dưới một góc độ nào đó, thì vâng lời cha mẹ cũng chính là vâng lời Chúa. Nhờ lời chỉ bảo và hướng dẫn của các ngài, chúng ta sẽ trở nên những con người tốt lành như ca dao đã bảo:
– Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Qua câu chuyện Chúa Giêsu kể hôm nay, người con thứ nhất nói là mình không đi làm, nhưng sau anh đã nghĩ lại và đã vâng theo lệnh cha. Còn người con thứ hai nói làmình sẽ đi làm nhưng rồi lại không đi. Thật là tuyệt vời nếu như có người con thứ ba nói rằng: Con sẽ làm hay con sẽ cố gắng làm và thực tế là anh đã chu toàn công việc người cha trao phó.
Chính Đức Kitô đã làm gương cho chúng ta bởi vì Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết chu toàn thánh ý Chúa, nhất là khi thánh ý ấy được biểu lộ qua những lời chỉ dạy và hướng dẫn của cha mẹ, của những người bề trên chúng ta hay không? [Mục Lục]
Với lời mời gọi: Hôm nay, con hãy đi làm vườn nho cho cha, chúng ta cùng nhau xét lại thái độ của chúng ta đối với thánh ý Thiên Chúa.
Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta.
Rất có thể khi nghe biết được lời mời gọi ấy, chúng ta đã mau mắn xin vâng, nhưng rồi sau đó lại chẳng hề làm điều Chúa truyền dạy. Chúng ta chỉ nói mà không làm, chỉ ước muôn mà không dám chấp nhận mạo hiểm và dấn thân. Đó là trường hợp của người con thứ trong dụ ngôn, tượng trưng cho các thượng tế và kỳ mục.
Cũng có thể là khi nghe biết được lời mời gọi của Chúa, chúng ta đã từ chối, nhưng rồi sau đó chúng ta hối hận, nên đã đi làm. Đó là trường hợp của người con trưởng, tượng trưng cho những kẻ thu thuế và gái điếm.
Khi so sánh các thượng tế và kỳ mục cới những kẻ thu thuế và gái điếm, mà chân lý lại thuộc vào hạng người thứ hai này, thì rõ ràng cuộc đấu tranh giữa Chúa Giêsu và giai cấp lãnh đạo tôn giáo thời báy giờ đã đi tới chỗ quyết liệt.
Qua đó chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu rất ghét sự giả hình của những kẻ nói mà không làm: họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu, hay làm ngược lại những gì mình đã nói: họ nói vậy mà không phải vậy đâu. Đồng thời Ngài luôn yêu thích sự thành thật của những người làm theo ý muốn Chúa Cha..
Đây không phải là lần thứ nhất Chúa Giêsu để cao giá trị của việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Ngài cũng đã từng khẳng định:
– Không phải những ai nói rằng lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, chỉ những ai chu toàn thánh ý Chúa Cha, Đấng ngự ở trên trời, thì mới được vào mà thôi.
Các thượng tế và kỳ lão đã làm rất nhiều việc, nào là cầu kinh, nào là dâng tiến lễ vật, nào là chăm sóc và hướng dẫn cộng đoàn Dân Chúa, không thể trách cứ họ được điều gì trong việc tuân giữ lề luật. Về phương diện này, họ là những mẫu gương sáng chói.
Thế nhưng, họ có thực sự làm những việc ấy vì Chúa và cho Chúa không? Các việc ấy có giúp họ tìm kiếm và thức thi thánh ý Chúa không? Hay chỉ giúp họ tìm kiếm chính mình, tạo cho họ niềm tin vào công đức của mình mà chểnh mảng với những đòi hỏi của lời Chúa, đó là sám hối và tin vào Phúc Âm, đó là thực thi những lệnh truyền của Tin mừng.
Họ có thể trung thành với mọi hình thức tôn giáo, nhưng lại không làm theo ý muốn của Chúa. Do đó, truớc mặt Chúa, họ chẳng làm được việc gì.
Trái lại, kẻ thu thuế và gái điếm, khi đã tin nhận Chúa Giêsu và đón nhận sứ điệp của Ngài mà trở về cùng Thiên Chúa, thì họ thực sự là những người đã làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Hậu quả là họ sẽ được vào Nước Trời trước những vị kia.
Với chúng ta thì sao? Ngày hôm nay, Chúa muốn nói gì với tôi và tôi phải làm gì để đáp trả lời mời gọi của Chúa?
Như những người đi rừng phải chú ý tới những tiếng động hết sức nhỏ, nhờ đó biết được sự có mặt của một người hay một vật nào khác. Cũng vậy, tôi phải chú ý tới những tín hiệu rất nhỏ mà Chúa gửi đến qua những người tôi gặp gỡ, qua những biến cố xảy ra chung quanh tôi.
Tôi tìm dấu chân Ngài và tôi lắng nghe tiếng nói của Ngài trong những sự việc rất tần thường của cuộc sống. Tôi không cần phải lìa bỏ thế gian để đi tìm kiến Chúa, bởi vì Ngài có mặt ở đó, ngay giừa lòng cuộc đời chúng ta.
Người không đòi hỏi tôi phải làm những công việc rạng rỡ. Như các thượng tế và kỳ mục, có thể tôi đã làm rất nhiều, nhưng lại bỏ qua một việc chính yếu, đó là thực thi công bằng bác ái.
Như thánh nữ Têrêsa, tôi muốn đi trên con đường nhỏ, tôi muốn làm những công việc tầm thường một cách phi thường vì lòng yêu mến Chúa. Nhờ đó, chúng ta sẽ trở thành những con én, góp phần làm nên mùa xuân của Giáo Hội, hay trở thành những Têrêsa nhỏ, làm mưa hoa hồng xuống cho nhân loại. [Mục Lục]
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói tới hai loại người qua hình ảnh hai người con: Người con thứ nhất, bảo đi làm thì nói không đi, nhưng rồi lại làm như ý người cha. Người con thứ hai, gọi dạ bảo vâng, nhưng rồi không chịu đi làm. Rồi chính Chúa đã giải thích cho chúng ta biết: người con thứ nhất ám chỉ những người thu thuế và những người đàng điếm, hai loại người này bị xã hội Do Thái khinh miệt nhất. Những người thu thuế bị khinh miệt vì họ cấu kết với ngoại bang để bóc lột đồng bào mình. Vì thế dân chúng oán ghét họ và liệt họ vào hạng người phản quốc, bỏ đạo và không thể ăn năn hối cải. Còn những ả giang hồ thì thời nào cũng vậy, đều bị xã hội khinh miệt sát đất, coi họ là hạng người xấu xa, làm dơ bẩn xã hội, và cũng không thể được cứu rỗi.
Ngược lại, người con thứ hai, ám chỉ những thượng tế, kinh sư và Pharisêu thời ấy, là những người tự xưng mình là đạo đức, công bằng, trong sạch, nhưng là thứ đạo đức, công bằng, trong sạch giả hình, bôi bác. Ngoài miệng thì nói hay lắm, nhưng không thực thi điều mình nói. Đó là những người “ngôn hành bất nhất”: nói mà không làm.
Nhưng tại sao Chúa lại nói với các thượng tế, kinh sư và Pharisêu: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”? Bởi vì những thượng tế, kinh sư và Pharisêu khi Chúa giảng dạy, không chịu nghe, coi thường lời Chúa, không ăn năn sám hối. Còn những người thu thuế và gái điếm, khi được Chúa kêu gọi, họ đã thành tâm sám hối. Chúng ta thấy: những người nói sẽ làm, rồi lại không làm, là loại người đáng trách. Còn những người nói không làm, rồi lại làm, là loại người đáng khen.
Chúng ta biết: từ tư tưởng đến lời nói và tới việc làm là cả một đường dài xa xăm. Thực vậy, một khuôn vàng thước ngọc, dù có hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng là không hay và vô ích. Cũng thế, có tư tưởng hay mà không đem thực hành thì cũng như một bông hoa không bao giờ kết trái. Chúng ta vẫn nói: “Ăn vóc học hay”: ăn để mà học, học để mà biết, biết để mà làm. Không biết thì không thể làm gì được, chỉ còn biết đứng dựa cột mà nghe. Nhưng biết mà không làm thì lấy gì minh chứng cho sự hiểu biết ấy? Biết mà không làm thì giống như người đầy tớ đem chôn nén bạc và bị xét xử. Hơn nữa, biết mà lại cứ làm sai thì càng bị xét xử nặng hơn. Cho nên, đã biết thì làm, cả hai đi song song nhau, hỗ trợ nhau, thì mới hữu dụng, hữu ích. Nhưng thực tế, trong xã hội, chúng ta thấy có những người biết mà không làm, hoặc nói thì rất hay nhưng lại không chịu làm.
Câu nói: “Năng thuyết bất năng hành”: hay nói mà không hay làm, hoặc nói được làm không là như thế. Ở đời này, hơn thua nhau ở chỗ lý thuyết và thực hành: một lý thuyết dù hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng vô ích. Nhưng tại sao chúng ta nói mà không làm? Có thể là vì chúng ta không có khả năng hành động, có thể là vì chúng ta chống đối, bất tuân không muốn làm, có thể là vì việc làm đó không đem lại lợi ích gì cho chúng ta. Tuy nhiên, nói mà không làm thì lời nói không có giá trị và về sau người ta không tin lời chúng ta nói nữa. Cũng thế, “đức tin không việc làm là đức tin chết”. Cho nên, có đạo lý đúng và hay chưa đủ mà còn cần phải sống và thực hành thì mới minh chứng được đạo lý đó đúng hay sai.
Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Chúng ta phê bình người khác, nhưng chúng ta có rờ lên gáy mình không? Hay là chúng ta thấy cái rác trong mắt người mà không thấy cái xà trong mắt mình? Hay là “chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại cứ quanh quéo, gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao? [Mục Lục]
Một trong những khả năng độc đáo mà Thiên Chúa đã ban cho con người là khả năng hồi tâm. Nghĩa là con người biết nhìn lại những lời nói hay những việc làm của mình. Nhìn lại để thấy đâu là những điều tốt cần phát huy và đâu là những điều chưa tốt cần phải sửa chữa.
Người con thứ nhất trong dụ ngôn của đoạn Tin mừng hôm nay, đã biết sử dụng một cách tuyệt vời khả năng ấy. Lúc đầu khi nghe người cha kêu đi làm vườn nho thì nó trả lời: “Con không đi. Nhưng sau đó nó đã biết hối hận và đi làm”. (Mt 21,29). Ngược lại đứa con thứ hai thì nhanh chóng đáp lời cha. Tuy vậy, đáng tiếc là nó lại không đi.
Hình ảnh đứa con thứ nhất Chúa Giêsu muốn nói đến là những người được coi là tội lỗi nhưng biết thật lòng ăn năn sám hối. Còn hình ảnh đứa con thứ hai chính là những thượng tế và các kỳ lão trong dân Do thái thời ấy. Bên ngoài thì họ làm ra vẻ rất ngoan ngoãn. Nhưng thực chất họ không những không đón nhận những lời chỉ dạy của các tiên tri mà cũng chẳng đón nhận Người cũng như những lời dạy bảo của Người. Đến nỗi một lần nọ Chúa Giêsu đã nói: “Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác,và nói:”Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than.Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: “Ông ta bị quỷ ám.” Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Mt 11, 16-19).
Chúng ta thường nghe nói: “Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại”. Cho nên Chúa Giêsu đã tuyên bố với các ông ấy: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31b). Bởi lẽ: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Như thế, không phải là Chúa Giêsu nhượng bộ hay dung túng cho những người được coi là tội lỗi này. Nhưng quan trọng là vì họ đã biết hối hận, sửa đổi lại cách sống sai trái của mình.
Là con người yếu đuối không ai là không có những lần sai lỗi. Điều quan trọng là sau những lần lầm lỗi đó chúng ta có biết nghe lời Chúa để quay đầu lại hay không. Augustinô là một trong những mẫu gương sống động cho chúng ta.
Hãy biết trân trọng và sử dụng sao cho có hiệu quả ơn độc đáo mà Thiên Chúa đã ban cho con người chúng ta. Đó là khả năng hồi tâm và biết sửa đổi. [Mục Lục]
Một chàng thanh niên đang đi kiếm mấy món hàng cần dùng trong siêu thị, anh để ý thấy một bà cụ cứ chăm chú nhìn mình. Thoạt tiên, anh phớt lờ, nghĩ rằng chẳng có gì và tiếp tục đi kiếm hàng. Khi anh đến quầy tính tiền, lại gặp bà cụ đang đứng ở đó. Anh lịch sự nhường cho bà đứng xếp hàng phía trước anh. “Xin cậu thứ lỗi”, bà nói, “Tôi thành thật xin lỗi đã nhìn chăm chú vào cậu, vì trông cậu rất giống người con trai của tôi vừa mới qua đời”. Động lòng trước bà cụ đáng thương, chàng thanh niên nói: “Thật đáng tiếc, má à. Con có thể làm được gì để giúp má không”? Bà cụ mỉm cười trả lời: “Cậu biết cái gì làm cho má cảm thấy an ủi hơn không? Con trai của má thường đi sắm đồ chung với má. Khi má ra về, cậu ấy thường nói: “Tạm biệt, Má”, Cậu có thể nói như vậy giống như con trai của má đang đứng ở đây với má thêm một lần nữa được không?” – “Được chứ, con rất vui vẻ nói mà, đâu có sao!” chàng thanh niên đơn sơ trả lời.
Sau khi gom tất cả mọi món đồ từ quầy tính tiền đặt vào bao, bà cụ ra về. Chàng thanh niên lớn tiếng chào, “Tạm biệt, Má!” Bà cụ mỉm cười, quay lại vẫy tay từ biệt. Rồi chàng thanh niên lấy những món đồ đã chọn từ trong giỏ để lên quầy tính tiền. Cô thâu ngân tính toán, rồi đưa hóa đơn cho anh. Tổng cộng là 140 đôla. Chàng thanh niên giật mình: “Xin lỗi cô, cái hoá đơn đâu có đúng. Tôi chỉ mua có vài món hàng. Nó chưa đến 25 đôla”. Cô thâu ngân liền đáp: “Má của anh đã nói với tôi rằng anh sẽ trả cho bà mà”. Chàng thanh niên lịch sự đã không biết đến những khía cạnh phức tạp, đen tối của trái tim con người. Ngay cả những người già cũng có thể lừa đảo bằng những lời gian dối quanh co!
Con người là tạo vật phức tạp. Phức tạp trong trái tim. Phức tạp trong đời sống. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói lên sự phức tạp trong trái tim con người qua dụ ngôn hai người con. Người cha thương lượng với hai anh em về việc đi làm trong vườn nho. Một người từ chối không đi làm, nhưng đã đi. Người kia chấp nhận đi làm, nhưng lại không đi!
Trong cuốn “The Cultural World of Jesus”, John J. Pilch nói rằng một nhà truyền giáo ở Trung Đông đã thường dùng dụ ngôn hai người con để chia sẻ Phúc Âm với những người dân làng nơi ông đến thăm viếng, và hỏi họ: “Người con nào tốt hơn?” Đại đa số đã trả lời người con thứ hai thưa vâng nhưng đã không đi làm vườn nho là người con tốt hơn. Sự trả lời của người con này đã làm vinh danh và kính trọng người cha. Đây là điều người cha muốn được nghe. Đối với người Trung Đông, danh giá là chủ yếu, còn việc người con có đi làm hay không chỉ là vấn đề phụ thuộc.
John Pilch nói tiếp: “Hãy nhớ rằng đời sống ở Trung Đông là đời sống cộng đồng. Giá trị chủ yếu của nền văn hoá này là danh giá cần phải được công bố công khai. Câu chuyện đối thoại giữa người cha và hai người con trong dụ ngôn này không xảy ra ở nơi riêng tư, nhưng ở nơi công cộng, dưới sự quan sát và lắng nghe của nhiều người trong làng. Giống như con cháu của họ ngày nay, những người dân làng Trung Đông trong dụ ngôn ưa thích người con biết kính trọng người cha mặc dù không vâng lời hơn là người con bất kính nhưng vâng lời”.
Trong nền văn hoá Trung Đông, đối với John Pilch, danh dự của người cha được quần chúng xác nhận qua lời tuyên bố công khai của con cái. Người con thưa vâng đã trả lời một cách kính trọng, và trong sự phán đoán của quần chúng, lệnh của người cha có giá trị, danh dự của ông được bảo vệ. Ngược lại, người con thưa không đã phỉ báng và công khai hạ nhục uy tín của người cha. Nhưng John Pilch cũng xin lưu ý ở điểm này: “Chúa Giêsu đã không hỏi người con nào thể hiện danh giá của người cha? Người hỏi: “Người con nào đã làm theo ý muốn của người cha?” Những người Trung Đông hiện đại cũng chấp nhận phán đoán của khán giả lắng nghe lời Chúa: “Người con thứ nhất”, là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Họ nhìn nhận tầm quan trọng của sự vâng lời, nhưng cũng coi trọng cả danh dự nữa”.
Sự phức tạp trong dụ ngôn này là điều rắc rối trong trái tim của con người. Người con thứ nhất thật lòng không muốn đi, thưa không, nhưng nghĩ lại đã ân hận vì làm sỉ nhục danh giá của cha, đành đổi ý, ra đi làm việc. Còn người con thứ hai chỉ muốn giữ danh giá bề ngoài cho cha, thưa vâng cho qua chuyện, rồi không giữ lời hứa. Hứa bằng lời nói thôi cũng chưa đủ, phải có hành động cụ thể. [Mục Lục]
Một linh mục phó xứ quyết định mở khoá học Thánh Kinh vào mỗi buổi tối Chúa nhật. Sau thánh lễ 8 giờ sáng, ngài yêu cầu giáo dân ở lại để trình bày ý tưởng về nhóm học Thánh Kinh. Sau khi cắt nghĩa chương trình, ngài hỏi, “Quý ông bà anh chị em có nghĩ rằng chúng ta nên mở khoá học Thánh Kinh trong họ đạo vào mỗi tối Chúa nhật không?” Có tất cả 54 người giơ tay đồng ý, tán thành ý tưởng đạo đức này. Sau đó, trở về nhà xứ, ngài trình bày với cha xứ về sự hưởng ứng nhiệt liệt của giáo dân đối với dự tính của ngài. Cha xứ đã lắng nghe, rồi nhẹ nhàng nói: “Có lẽ cha nên đặt lại câu hỏi”. Sáng Chúa nhật tuần sau, cũng sau thánh lễ, ngài xin giáo dân ý kiến, và đặt lại câu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ dự buổi học Thánh Kinh tối nay?” Thật tuyệt vọng, cha phó đã đếm được bốn người giơ tay.
Đối với lời mời gọi đi làm vườn nho của Thiên Chúa, hôm nay chúng ta cũng tự hỏi mình, chúng ta là người con nào? Sự phức tạp trong tâm hồn của con người còn có thể tạo ra nhiều thái độ hơn nữa. Xin nêu lên 4 thái độ điển hình:
- Thưa không với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã đi làm: Theo John Pilch, những người thu thuế và đĩ điếm đã có thái độ giống như người con thứ nhất. Lúc ban đầu họ đã nói không với Thiên Chúa, nhưng khi Gioan Tẩy giả rao giảng, họ đã sám hối, trở lại và hành động vui lòng Thiên Chúa.
Thánh Phaolô là một gương sáng. Khi Phaolô mới nghe biết về Chúa Kitô, về Phúc Âm và những môn đệ của Người, ông đã chống lại họ bằng mọi cách. Phaolô hoàn toàn cự tuyệt, bắt bớ và huỷ diệt Phúc Âm cùng Giáo Hội của Người. Tuy nhiên điều này hoàn toàn vô ích. Một ngày nọ, Đức Kitô đã gặp ông trên đường đi Damascus. Phaolô đã sám hối, thay đổi, và trở thành một con người mới, với trái tim và tinh thần mới. Phaolô đã sống suốt cuộc đời còn lại để thưa vâng với Thiên Chúa.
- Thưa vâng với Thiên Chúa, nhưng sau đó đã không đi làm: Theo John Pilch, các thầy thượng tế và các bậc kỳ lão Do Thái đã có thái độ giống như người con thứ hai. Họ thích tôn trọng danh giá bề ngoài. Họ đã nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan tẩy giả và nhìn thấy những người thu thuế, tội lỗi ăn năn trở lại. Họ làm bộ ưng thuận bằng những lời lẽ tôn vinh và kính trọng Thiên Chúa, nhưng đã không thể hiện điều gì trong cuộc sống.
Trong cuốn tiểu thuyết “The Fall” của Albert Camus, có một cảnh diễn tả một chàng luật sư đáng kính đang bước đi trên đường phố Amsrerdam. Anh nghe rõ một tiếng kêu la giữa đêm tối. Anh nhận ra một người đàn bà đã ngã xuống đất, đang bị đẩy xuống dòng sông, và đang kêu la xin cầu cứu. Rồi những tư tưởng chợt đến trong tâm trí: “Dĩ nhiên tôi phải ra tay giúp đỡ, nhưng… một luật sư nổi tiếng lại can dự vào vụ này? Những người liên can đến vụ này là ai?…, Và sự nguy hiểm cho tính mạng mình là gì? Sau cùng, ai biết được chuyện gì đang xảy ra ở đó. Vào lúc anh đang chần chờ suy tính thì đã quá trễ. Anh tiếp tục bước đi, và tạo ra đủ mọi lý lẽ để biện minh cho sự thất bại, không hành động của mình. Nhưng, Camus, trong một hàng chữ bi đát đã kết luận như sau: “Anh ta đã không đáp trả tiếng kêu xin cầu cứu. Đó là con người của anh?”
- Nhất quyết thưa không với Thiên Chúa:
Đây là loại người có thái độ cương quyết nói không với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến cuối đời, trong cả lời nói lẫn hành động. Họ sống cả cuộc đời từ chối và chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa.
- “Con Người” luôn nói thưa vâng với Thiên Chúa:
Con Người luôn nói thưa vâng với Thiên Chúa từ ban đầu cho đến phút cuối, trong lời nói cũng như hành động, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người đã dâng hiến tất cả mọi vinh quang và hạnh phúc cho Thiên Chúa. Người là khuôn mẫu hoàn hảo của chúng ta.
Người đã được thánh Phaolô diễn tả bằng những đoạn tuyệt vời nhất trong lá thư gửi cho tín hữu Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi làm vườn nho nước trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi chúng ta một sự lựa chọn triệt để: “Để được Nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành động nữa”. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta có thái độ giống Chúa Giêsu: một tiếng “thưa vâng” trong lời nói và hành động suốt cuộc đời. [Mục Lục]
Một em bé ba tuổi cả ngày nghịch ngợm không ngoan ngoãn nên bà mẹ phạt bé phải đi ngủ sớm. Chú bé bỏ vào phòng không một lời phản đối, nhưng chỉ ít phút sau, chú ta đi ra với một con thú nhồi bông, con heo đất và một ít quần áo… Thằng bé nói: “Con bỏ nhà đi đây”. Ba nó hỏi: “Vậy thì con làm gì khi bị đói?” “Con sẽ về nhà để ăn”. “Ồ, vậy khi hết tiền rồi con làm gì?” “Thì con về nhà xin thêm”. “Vậy quần áo bẩn hết rồi con làm sao?” “Con mang về cho mẹ giặt”. Nhiều người cũng vội nói, vội quyết định hoặc nói mà không làm theo đường lối của mình.
Dụ ngôn trong bài Phúc Âm hôm nay là một dụ ngôn rất dễ hiểu. Đó là câu chuyện hai người con làm vườn nho cho cha. Một người trong họ hứa đi, nhưng thay đổi không đi; còn người kia nói không đi, nhưng thay đổi ý định của mình nên đi làm. Chúa Giêsu hỏi: “Các con nghĩ sao? Ai là người làm theo ý người cha?” (Mt 21,28,31). Dĩ nhiên ai trong chúng ta cũng có thể trả lời được là người con đã thay đổi ý định của mình nói không đi rồi đi làm vườn nho cho người cha.
Những người lãnh tụ tôn giáo là những người Chúa Giêsu đã hỏi họ và họ cũng biết họ khó mà chấp nhận những giáo lý của Chúa Giêsu, vì họ khó thay đổi cõi lòng để làm theo ý Thiên Chúa. Cho nên Chúa Giêsu đã phải thốt nên: “Thật ta bảo thật cho các ngươi biết những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ngươi.” (Mt 21,31) Tại sao? Bởi vì những người lãnh tụ tôn giáo tự cho mình luôn luôn đúng, không sai lầm bao giờ nên họ không cần thay đổi và tin ai khác. Nói cách khác là họ sẽ không bao giờ để Chúa thay đổi họ. Còn những người thu thuế, cao bồi du đãng và gái ăn chơi, họ nhận ra những gì họ cần phải thay đổi để sống tốt hơn trong mỗi ngày sống của họ.
Đây cũng là một bài học cho mỗi người chúng ta, vì nhiều lúc chúng ta cũng trở nên những người tự mãn. Như tự cho mình là người Kitô hữu ngoan đạo, là người biết những gì Chúa mong đợi. Chúng ta cũng dễ dàng rơi vào tình trạng là Chúa không còn gì để nói với chúng ta nữa. Và rồi chúng ta nhìn thấy mình giống như những người tự cho mình là người công chính, thượng tế và luật sĩ trong bài Phúc Ân hôm nay.
Có người biết tất cả mọi câu trả lời về mọi khía cạnh về thần học. Nhớ hết đoạn nào, câu nào trong Thánh Kinh, và tất cả những bài Thánh Vịnh một cách thuộc lòng và có thể viết lại tất cả những bài nguyện kinh ban sáng, trưa và tối không khó khăn chút nào. Nhưng chưa đủ, họ mới chỉ có nói. Họ cần thi hành Thánh ý Chúa Cha, cần đi làm vườn nho của Ngài. Sự cản trở lớn nhất cho việc Nước Chúa đến là do chính những người chỉ chuyên môn chúc tụng Chúa bằng môi miệng, nhưng không thực hành qua việc làm. Nếu chỉ bằng lời nói có thể cứu được nhân loại thì trần gian này chính là thiên đàng. Rất nhiều Kitô hữu chỉ sống đạo bằng những lời hay, tiếng tốt hơn là thi hành những điều mình nói, hoặc chỉ muốn bàn luận thật hay, nhưng không thấy hành động.
Lời Chúa chỉ có thể ăn sâu trong tâm hồn chúng ta, không phải qua những lời chúng ta nói, nhưng qua những cách thức chúng ta sống hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Những gì không tốt chúng ta thường có thói hay kêu lớn tiếng. Có như thế chúng ta mới cảm thấy những gì chúng ta cần thiết để thay đổi để chúng ta có thể đến gần Chúa hơn và xa tránh những gì làm cho chúng ta xa Chúa. Những người cảm thấy mình không cần thay đổi lại chính là những người cần phải sửa đổi nhiều nhất.
Thời đại mà chúng ta đang sống được gọi bằng nhiều tên gọi. -t năm trước đây, một triết gia cho rằng thời đại chúng ta là thời đại “có và không.” Triết gia đó viết như sau: “Đây là thời đại của sự lưỡng lự, không quyết định. Vì câu trả lời của chúng ta thường nằm trong lãnh vực giữa có và không. Vả lại, chiều hướng câu trả lời của chúng ta cũng nằm giữa sự khả quyết và không khả quyết.
Trong Chúa Giêsu không có vấn đề “vâng và không”. Nhưng trong Ngài luôn luôn là tiếng “xin vâng”. Trong đền thánh, lúc 12 tuổi Ngài đã thưa “Vâng”: Ta phải thi hành công việc của Cha Ta. Sự cám dỗ trong sa mạc: “Ta phải thực hiện ý muốn mà Đấng đã sai Ta.” Giảng dạy tại Nararet: “Ta phải rao giảng sự công chính và tha thứ, cho dù họ muốn giết Ta.” Trong vườn Giêtsemani: “Xin đừng theo ý Con, nhưng theo ý Cha.” Trên đồi Canvê: “Xin tha cho chúng, Con xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha.”
“Vâng” lạy Chúa! Ý Chúa sẽ được thực hiện trên trần gian. Nhưng do ai? Do chúng con chăng? “Vâng,” Lạy Chúa; chúng con phải thi hành thánh ý Chúa! “Vâng” lạy Chúa, chúng con phải “đi và làm vườn nho Chúa ngay hôn nay.” “Vâng,” lạy Chúa, chúng con phải thi hành điều Chúa dạy hơn là chúng con kêu lớn tiếng, để đáp lại điều mà Chúa dạy cho chúng con, nghĩa là chúng con phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. [Mục Lục]
Sống như người con Thiên Chúa: điều kiện để được vào Nước Trời
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý CHÍNH: DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON.
Qua dụ ngôn “hai người con”, Đức Giêsu muốn gián tiếp cảnh cáo thái độ giả hình của bọn đầu mục Do thái, và kêu gọi họ hoán cải để được cứu độ. Dụ ngôn trình bày hai thái độ khác nhau của hai người con trước cùng một yêu cầu của người cha như sau:
– Người con thứ nhất (c 28-29): Lúc đầu đã từ chối không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại mà lại đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Đức Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.
– Người con thứ hai (c 30-32): Lúc đầu đã ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này tượng trưng cho các thượng tế và kỳ mục. Tuy giữ luật Mô-sê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối không tin Gio-an Tẩy giả, là người đã đến chỉ đường công chính cho họ, tức là dạy những điều Thiên Chúa muốn (c 32).
Cuối cùng Đức Giêsu kết luận: ” Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông ” (c 31).
2) CHÚ THÍCH:
– (c 28) Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ong ta đến nói với người thứ nhất: “Này con hôm nay con hãy đi làm vườn nho”.:
+ Các ông nghĩ sao?: Các ông ở đây là các thượng tế và kỳ mục dân Do thái tại Giê-ru-sa-lem (x Mt 21,23-27). Họ đòi Đức Giêsu phải chứng minh về quyền giảng dạy của Người bắt nguồn từ Thiên Chúa (c 23). Để trả lời cho đòi hỏi ấy, Đức Giêsu đã lái vấn đề là đòi họ phải xác định nguồn gốc sứ mệnh của Gio-an Tẩy giả: “Phép rửa của Gio-an do đâu mà có? Do trời hay do người ta?”. Nếu họ bảo là do trời, thì tại sao lại không tin Đức Giêsu là Người mà Gio-an đã xác nhận là Đấng Thiên Sai?
+ Một người kia có hai con trai: Người kia là cách nói trống ngôi, ám chỉ Thiên Chúa. Cả hai con trai ở đây đều được cha đối xử công bằng và khách quan. Họ tượng trưng cho hai thành phần dân Do thái là các người tội lỗi và các người tự nhận là công chính.
+ Người con thứ nhất: ám chỉ các người thu thuế và các cô gái điếm tội lỗi. Lúc đầu những người này đã từ chối không chịu làm theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Nhưng về sau, họ đã tin theo Đức Giêsu mà ăn năn sám hối và trở thành con ngoan của Thiên Chúa.
+ Hôm nay: Hôm nay là thời điểm hiện tại, ý nói về sự cấp bách cần phải làm ngay. Chẳng hạn Đức Giêsu đã tuyên bố về thời điểm cứu độ tại hội đường Na-da-rét như sau:” Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).
+ Con hãy đi làm vườn nho: Đi làm vườn nho tức là làm theo ý Thiên Chúa.
– (c 29) Nó đáp: “Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi “:
+ Con không muốn đâu: Câu trả lời cho thấy thái độ từ chối không tuân lệnh của cha. Điều này ám chỉ những kẻ tội lỗi đã sống ngược với thánh ý Thiên Chúa thể hiện qua thái độ không tuân giữ các giới răn Thiên Chúa và lề luật Hội Thánh.
+ Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi: Ở đây không cho biết lý do tại sao người con thứ nhất hối hận. Chỉ biết rằng nó đã nhận ra lỗi mình và hoán cải để vâng ý cha mà đi làm.
– (c 30) Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi:
+ Ông đến gặp người thứ hai: Người thứ hai là những người có vẻ công chính, ám chỉ các đầu mục của dân Do thái là các thượng tế và kỳ mục.
+ Thưa Ngài, con đây!: Đây là câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo.
+ nhưng rồi lại không đi: Đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng, nhưng lòng anh ta lại ở xa cha, nên sau đó đã không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Anh ta đã có thái độ “ngôn hành bất nhất”, “nói mà không làm”, chứng tỏ anh có một đời sống vụ hình thức bề ngoài. Đây là thái độ đạo đức giả của các đầu mục Do Thái là các thượng tế và kỳ lão. Họ giữ luật Mô-sê trong từng chi tiết nhưng lại không tin vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến là Đức Giêsu.
– (c 31) “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”:
+ Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?: Đặt ra câu hỏi này, Đức Giêsu muốn gián tiếp cho thấy thái độ mâu thuẫn của các đầu mục dân Do Thái
+ Tôi bảo thật các ông: Đức Giêsu muốn nhấn mạnh sự thật mà Người sắp bày tỏ
+ Những người thu thuế và những cô gái điếm: Đây là hai hạng người bị xã hội Do Thái khinh dể, vì họ không giữ luật Mô-sê và có đời sống tội lỗi, gây gương xấu cho kẻ khác.
+ Vào nước Thiên Chúa trước các ông: Ở đây không nhằm nói đến thời gian trước sau, nhưng là sự thay thế. Những người thu thuế và gái điếm vì biết hối cải mà tin theo Đức Giêsu nên họ sẽ chiếm chỗ trong nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập, để thay chỗ của các đầu mục là các thượng tế và kỳ mục Do Thái.
– (c 32) “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy”.
* Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông: Gio-an Tẩy giả bằng một lối sống khổ hạnh và bằng việc rao giảng phép rửa thống hối, đã dạy dân chúng biết những điều cần phải làm để chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai. Nhờ đó mà họ sẽ được nên công chính
*Mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin: Các thượng tế và kỳ mục Do Thái đã không tin lời Gio-an Tẩy Giả. Ngược lại, các người thu thuế và các cô gái điếm đã nghe Gio-an giảng và giới thiệu Đức Giêsu cho họ nên đã tin theo Người.
*Còn các ông: Các đầu mục Do Thái dù đã nhìn thấy lối sống khổ hạnh và đã được nghe lời Gio-an Tẩy Giả rao giảng thánh ý Thiên Chúa muốn cho họ “ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, nhưng họ vẫn cứng lòng không tin Gio-an, do đó cũng không tin Đức Giêsu, nên họ sẽ không được gia nhập và nước Thiên Chúa.
- HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) LỜI CHÚA: Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).
2) CÂU CHUYỆN:
– NGUYÊN NHÂN SỨC MẠNH SIÊU PHÀM CỦA MỘT CÔ GÁI ĐIẾM
Một hôm nghe tin về một cô gái điếm tuy tội lỗi, nhưng lại có một quyền năng siêu phàm, vua A-đúc (Ashoka) đã triệu vời cô ta tới và yêu cầu cô thi thố tài năng để có dịp tận mắt chứng kiến và biết rõ thực hư ra sao. Trước mặt nhà vua cùng các quần thần, các đạo sĩ và đám đông dân chúng tụ tập bên bờ sông Hằng, cô gái điếm kia đã thi thố tài năng: cô có thể ra lệnh cho dòng sông đang cuồn cuộn chảy phải thay đổi chảy ngược lại, gây ra những tiếng động ầm ầm giống như long trời lở đất. Đang khi đo, các vị đạo sĩ tuy đã dày công tu luyện nhiều năm và rất am tường Phật pháp lại đành chịu bất lực trước nạn lụt hằng năm, nước sông dâng lên tràn bờ đê, gây ra cảnh lụt lội lớn lao, làm cho nhân dân dọc theo hai bên dòng sông ngày một lầm than đói khổ! Nhà vua không thể tin đươc một cô gái điếm, thuộc hạng tiện dân và tội lỗi lại có sức mạnh siêu phàm như thế. Bấy giờ vua hỏi cô gái rằng: “Do đâu mà một kẻ tội lỗi ti tiện như ngươi lại có thể làm được việc lớn lao phi thường như thế?” Cô gái đáp:”Tâu Đức vua, đó là nhờ đức hạnh của tiện nữ!”. Đức vua lại cười khẫy và văn hỏi:”Thế đức hạnh của ngươi ra sao?”. Cô đáp: “Tâu đức vua, đức hạnh của tiên nữ chính là do cách cư xử công chính đối với mọi người. Khi tiếp chuyện với bất cứ ai, dù họ là bậc quân vương, quý tộc hay đám thường dân, tiện nữ đây cũng hết lòng tôn trọng và luôn đối xử vẹn tình trọn nghĩa. Tuyệt đối không dám khinh thường hoặc gian dối với bất cứ người nào cả!”.
Như vậy, theo lời cô gái trong câu chuyện trên: Muốn có sức mạnh làm được những việc phi thường, thì người ta phải ăn ở công chính, nghĩa là đối xử công minh chính trực với mọi người. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã nêu tên Gio-an Tẩy giả và đòi những ai muốn được ơn cứu độ phải tin ông Gio-an và đi theo đường công chính của ông như sau: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (c 32).
– ĐIỀU KIỆN ĐỂ LỜI CẦU XIN ĐƯỢC CHÚA NHẬM LỜI?
Một chàng thanh niên kia cứ thắc mắc tại sao Chúa không ban những ơn cần thiết cho những kẻ tin vào Người. Một hôm Chúa đã cho anh ta nằm mơ thấy mình được đi theo Chúa Giêsu khắp đó đây. Anh đã thuật lại câu chuyện xảy ra trong chuyến đi ấy như sau:
Hôm ấy khi được Đức Giêsu cho đi theo một đoạn đường đất đỏ dẫn đến một làng nghèo nàn kia, thì anh nhìn thấy một người đàn ông đang hì hục đẩy chiếc xe thồ chất đầy hàng đang bị ngã đổ nằm nghiêng một bên đường, vì bánh xe chẳng may bị sụt ổ voi trên đường. Bấy giờ người chủ xe liền quỳ xuống giơ hai tay lên trời và lớn tiếng cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa hay thương giúp những kẻ gặp gian nan khốn khó. Xin thương cứu giúp con:Chiếc xe của con đang bị lật ở giữa nơi thanh vắng này. Con tin vào quyền năng mạnh mẽ của Chúa. Chúa chỉ cần phán một lời là chiếc xe của con sẽ lật lại được, để con có thể tiếp tục đến chợ bán hàng. Lạy chúa, xin hãy mau đến giúp con!”. Cầu nguyện rồi, ông ta cứ quỳ mãi để chờ Chúa làm phép lạ theo ý ông xin. Bấy giờ anh chàng đi theo Chúa Giêsu cảm thấy bức xúc khi nghe lời cầu nguyện của người chủ xe. Nhưng anh rất ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu làm như không nghe thấy gì và cứ tiếp tục đi qua chỗ anh ta đang quỳ cầu nguyện.
Một lát sau, hai người đến gần một cái chợ, anh chàng đi theo Đức Giêsu lại nhìn thấy một cảnh đổ xe tương tự. Anh ta nghe thấy người chủ xe chỉ cầu nguyện vắn tắt như sau: “Lạy Chúa Giêsu, con đang gặp tai nạn vượt quá sức con. Xin Chúa hãy soi sáng giúp cho con biết con phải làm gì để có thể vượt qua hoàn cảnh khó khăn này”. Cầu nguyện rồi, ông ta tìm cách dựng chiếc xe đổ lên như cũ. Sau một lúc làm không được, ông ta chạy đến nhờ người đi đường đến giúp. Bấy giờ anh chàng theo Đức Giêsu thấy Người tỏ vẻ quan tâm tới người chủ xe này. Người bảo anh ta: “Con hãy mau đến hợp sức giúp anh ta một tay!”. Khi chiếc xe đã được lật lên như cũ thì người chủ xe lại cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã thương sai người đến giúp con”. Sau đó, hai người lại tiếp tục lên đường. Bấy giờ anh ta mới hỏi Đức Giêsu rằng: “Lạy Chúa, tại sao người chủ xe trước tha thiết cầu xin lâu giờ mà Chúa lại dửng dưng và không làm gì để giúp đỡ ông ta? Đang khi người chủ xe sau chỉ xin Chúa một câu thôi, thì Chúa lại tận tình thúc giục nhiều người đến giúp ông ta như vậy?”. Bấy giờ Đức Giêsu mới ôn tồn giải thích cho anh ta hiểu như sau: “Con không thấy lời cầu nguyện của hai người khác nhau hay sao? Người chủ xe trước đã cầu xin Ta làm phép lạ giúp cho xe ông ta được lật lên, còn chính ông ta chỉ biết chờ đợi phép lạ. Nhưng Ta không muốn người ta làm biếng làm việc và chỉ biết ỷ lại vào Ta, nên Ta đã để mặc ông ta tự xoay sở lấy. Còn người chủ xe sau chỉ dám cầu xin ơn soi sáng, rồi cố gắng làm hết sức mình để khắc phục khó khăn. Chính vì thế mà Ta đã ra tay trợ giúp bằng cách thúc giục nhiều người khác, trong đó có con, đến giúp đỡ cho ông ta”.
Như vậy, qua câu chuyện trên, tác giả muốn nói rằng: Mỗi khi gặp một điều gì khó khăn, vượt quá sức lực tự nhiên, chúng ta hãy vừa cầu xin Chúa ban ơn soi sáng trợ giúp cho ta, nhưng đồng thời cũng phải cố gắng xử dụng những phương tiện tự nhiên Chúa ban để tự mình vượt qua sự gian nan ấy. Tục ngữ có câu: “Hãy tự cứu mình, rồi Trời sẽ trợ giúp”. Hoặc câu khác: “Hãy thắp lên một ngọn đèn, chứ đừng cứ ngồi yên mà nguyền rủa bóng tối”. Còn bạn, bạn thường có thái độ thế nào khi gặp hoàn cảnh khó khăn hoạn nạn?
3) SUY NIỆM:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tuyên bố một câu khiến những người đầu mục dân Do Thái đương thời phải sững sờ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Một số nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích từ “vào trước” không chỉ có nghĩa là “trước” so với “sau”, nhưng là “thay thế”. Vì các đầu mục Do Thái “đã không tin” (c 32), nên họ sẽ không được vào nước Thiên Chúa, chứ không phải sẽ “vào sau”. Như vậy câu này có thể được dịch lại như sau: “Những người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa thay thế cho các ông”. Nếu những người thu thuế và gái điếm đã vào Nước Thiên Chúa thế chỗ của các đầu mục Do Thái rồi, thì chắc họ sẽ bị loại ra ngoài Nước ấy.
– TẠI SAO CÁC ĐẦU MỤC DO THÁI LẠI BỊ MẤT CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã nêu ra lý do thứ nhất: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết ” (Ed 18,26). Thực vậy, người ta thường nghĩ mình vẫn đang tốt khi đã từng sống tốt và được người khác đánh giá tốt, nên không ngờ có thể một ngày nào đó mình lại trở nên xấu. Để rồi đến giờ chết, khi định vào Nước Thiên Chúa, thì mới hay mình không có chỗ trong đó! Bài Tin Mừng cho biết lý do thứ hai: Người cha đến nói với đứa con thứ hai: “Con hãy đi làm vườn nho cho cha”. Nó đáp: “Thưa vâng, con đi”. Nhưng rồi nó lại không đi (Mt 21,30). Thực vậy, người ta thường hay tự lừa dối khi nghĩ rằng mình chỉ cần nói: “thưa vâng” với Chúa là đủ. Các đầu mục Do Thái đã “thưa vâng” nhiều lần khi họ tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết. Chính chúng ta ngày nay cũng thường “thưa vâng” như thế khi giữ một số điều luật như đi lễ, đọc kinh. Nhưng những lời “thưa vâng” như thế cũng không phải là điều kiện để ta có chỗ trong Nước Thiên Chúa sau này.
– TẠI SAO NGƯỜI THU THUẾ VÀ GÁI ĐIẾM CHIẾM CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã cho biết lý do thứ nhất như sau: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh,thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,27). Lý do thứ hai là thái độ đứa con thứ nhất lúc đầu từ chối, nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi (Mt 21,29). Thực ra cả hai câu trên đều cho thấy một lý do là: Biết hối hận về sai lầm trong quá khứ của mình và hồi tâm hoán cải. Thực vậy rất nhiều câu chuyện được diễn tả trong phim ảnh cũng như đời thường về những người có quá khứ tội lỗi như trọm cướp, trùm ma-phi-a nhưng họ không những đã được biến đổi nên người tốt, mà còn có lòng vị tha bác ái đặc biệt. Có những tú bà hay những cô gái điếm sau khi hoàn lương, đã bỏ được nếp sống nhơ nhớp trước kia, để sống một đời sống mới dạt dào tình thương yêu người khác. Họ thật xứng đáng vào trong Nước Thiên Chúa để thay thế những kẻ đã từng sống tốt, nhưng đã biến chất trở thành những kẻ giả đạo đức như bọn đầu mục Do Thái thời Đức Giêsu.
– VẬY CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
Ki-tô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17). Lòng tin không phải chỉ là tuyên xưng ngoài miệng, nhưng phải được tuyên xưng bằng chính cuộc sống như Đức Giêsu dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Dòng đời luôn thay đổi, và con người cũng dễ dàng đổi thay: Hôm nay có thể ta đang là một con người tốt, nhưng ngày mai lại hoá ra xấu và ngược lại. Do đó chúng ta đừng vội hãnh diện với quá khứ đạo đức của mình, đến nỗi không thấy được là mình đã thay đổi trở thành kẻ xấu. Cần năng tự kiểm vào mỗi cuối ngày để biết rõ con người thực của mình, mình có giữ lời hứa hay không. Vì dù ta có nói giỏi nói hay và hấp dẫn bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu ta không giữ được lời đã hứa, hoặc “ngôn hành bất nhất” thì ta tự làm mất uy tín của mình và làm cho những lời ta nói không còn được mấy ai nghe. Mỗi ngày chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta thay đổi những sai lỗi hay thiếu sót để ta ngày càng sống tốt hơn và xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này.
4) THẢO LUẬN:
Học Lời Chúa, nghe giảng Kinh Thánh có cần hay không? Học Lời Chúa cho thông suốt để đi tranh cãi hay để đi rao giảng Tin Mừng cho người khác đã đủ chưa? Việc sống Lời Chúa giữ đời thường có giá trị thế nào trong đời sống đức tin của bạn? Người ta thường nói: “Lời nói tốt xấu ra sao, thì con người tốt xấu như vậy”. Vậy hiện tại lời nói của bạn đang là lời xây dựng hoà bình và tình yêu thương hay đang gây chia rẽ, hiểu lầm và phân tán?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA GIÊSU. Con thấy việc sám hối không phải là điều dễ, vì chúng con hiện chưa đủ khiêm tốn để lắng nghe người khác phê bình chỉ trích thói hư khuyết điểm của mình. Chúng con chưa dám tự nhận lỗi về phía mình như lời kinh thú nhận: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng!”. Nhưng chúng con cũng ngỡ ngàng khi thấy Chúa dù là Đấng vô tội, nhưng đã đứng xếp hàng chung với các tội nhân để chờ đến lượt được Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa cho. Qua hành động ấy, Chúa muốn mang thân phận tội nhân giống chúng con để nêu gương khiêm nhường cho chúng con.
LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết năng tự kiểm về tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu xót của mình mỗi ngày. Xin cho chúng con thường xuyên điều chỉnh lối suy nghĩ nói năng và hành động của mình để tránh ảo tưởng về mình, và khỏi trở thành những Pha-ri-sêu giả đạo đức trong thời đại hôm nay. Ước gì Chúa ban cho chúng con được ơn hoán cải, dám cắt tỉa đi những thói hư tật xấu nơi bản thân con. Hy vọng sau khi đã được Chúa ban ơn tha thứ như ông Gia-kêu, chúng con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn, sẽ quảng đại để hiến dâng cho Chúa tất cả những gì chúng con có, để Chúa sẽ ban tất cả những gì Chúa có cho chúng con.
- X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
2) LẠY MẸ MA-RI-A. Xin cho chúng con tránh được thái độ của người con thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay: Thưa vâng rồi để đó không làm. Nhiều lần chúng con đã đi xưng tội, đã tham dự các buổi tĩnh tâm sám hối, đã thưa vâng với Chúa. Nhưng rồi sau đó đâu lại hoàn đó. Chúng con vẫn sống như cũ, chẵng có gì thay đổi, chẵng thêm gì mới cả!
LẠY MẸ. Xin cho chúng con biết hoán cải giống như người con thứ nhất. Tuy lúc đầu có lỗi phạm, nhưng đã hồi tâm sửa mình, thay đổi đời sống nên tốt hơn, bằng một thái độ quyết tâm đổi mới, để sẽ sẵng sàng lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu thánh ý Chúa muốn và quyết tâm thực hành lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Xin cho chúng con luôn giữ lời đã hứa, nói ít làm nhiều và nhiệt thành cải thiện môi trường sống của chúng con.
- X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON. [Mục Lục]
(Suy niệm của Mark Link)
Chủ đề:
“Hối cải là một tiến trình, là một cuộc du hành liên tục chỉ kết thúc vào lúc chết.”
Thomas Merton mồ côi cha mẹ năm 16 tuổi. Cậu gia nhập Đảng Cộng sản năm 20 tuổi và gặp được Đức Kitô năm 23 tuổi. Đến năm 24 tuổi chàng trở thành phóng viên tờ Nữu Ước thời báo (New York Times). Năm 26 tuổi, chàng thu gom toàn bộ tài sản vào một chiếc túi vải rồi đến sống ở Kentucky và trở thành một thầy dòng chiêm niệm Trappist (Anh em hèn mọn). Trong quyển sách tự thuật về cuộc sống tâm linh rất ăn khách nhan đề “The seven storey Mountain” (Ngọn núi bảy tầng), Thomas Merton mô tả lại bước đầu tiên trong tiến trình hối cải của chàng. Ngay khi vừa tốt nghiệp Trung học, Thomas đã đi du lịch một mình qua Âu Châu và sống một cuộc sống hơi buông thả. Một đêm nọ, chính trong căn phòng chàng. Thomas bỗng nhiên ý thức được tội lỗi của mình. chàng viết: “Toàn bộ sự việc xảy ra nhanh như chớp. Bỗng dưng một nhận thức sâu xa về nỗi bất hạnh và sự hư hỏng của linh hồn mình xâm chiếm hoàn toàn thân tôi. Tôi vô cùng ghê tởm những gì tôi trông thấy… và linh hồn tôi ao ước trốn thoát khỏi tất cả điều ấy một cách mãnh liệt và cấp bách mà trước đó tôi chưa hề bao giờ cảm thấy như thế”.
Merton nói rằng đó là lần đầu tiên chàng đã cầu nguyện, cầu nguyện thực sự. Chàng cầu xin Chúa, Đấng mà trước đó chàng chưa hề biết, xin Ngài tự trời ngự xuống giải thoát chàng khỏi quyền lực xấu xa đã cầm giữ tâm hồn chàng trong vòng nô lệ.
Câu chuyện về Thomas Merton minh hoạ về sự hối cải của người con thứ trong câu chuyện Phúc Âm hôm nay. Đồng thời nó cũng minh họa cho sự hối cải mà tiên tri Êdekien nhắc đến trong bài đọc thứ nhất hôm nay.
Điều gì đã khiến cho người ta hối cải giống như trường hợp của đứa con thứ trong Phúc Âm hôm nay, hay giống như Thomas Merton trong câu chuyện trên?
Cách đây nhiều năm, các lý thuyết gia chính trị thường phác thảo những bước cần thiết cho một cuộc cách mạng trong một nước.
Bước thứ nhất là tạo ra tâm lý bất mãn tận căn nơi dân. Bởi vì thiên hạ chỉ nghĩ đến việc đổi thay nếu họ cực kỳ bất mãn với tình cảnh hiện tại của họ. Điều này cũng đúng xét về bình diện từng cá nhân. Người ta chỉ lưu tâm thay đổi cuộc sống riêng khi nào họ bất mãn với hiện trạng cuốc sống ấy. Chúng ta thấy rõ điều này trông trường hợp của Thomas Merton. Chàng đã bất mãn sâu xa với cuộc sống mình. nói cách khác, bước đầu tiên trong tiến trình cải tà là bất mãn với cuộc sống của chính mình. “Bước nảy lửa” trong đời Thomas Merton chính là điều chàng kinh nghiệm được trong căn phòng khách sạn của chàng. Nói theo ngôn ngữ thần học, đó là lúc ân sủng Chúa tuôn xuống.
Bước thứ ba là thực hiện một điều cụ thể đầu tiên hướng về một cuộc sống mới. Chúng ta cũng thấy điều này nơi cuộc đời Thomas Merton. Ngay sáng hôm sau, sau khi có được cái kinh nghiệm đã xảy ra trong căn phòng khách sạn, Thomas Merton đã đi bộ ra ngoài ánh nắng ban mai. Tâm hồn ngài tan nát vì đau đớn và ăn năn. Nhưng đây là một cảm giác tốt đẹp, giống như cái nhọt được bác sĩ dùng dao giải phẫu.
Dù chưa phải là người Công giáo, Merton vẫn đi đến một nhà thờ quì gối xuống và chậm rãi đọc kinh Lạy Cha với tất cả niềm tin của mình. Sau khi cầu nguyện xong, Merton trở lại dưới ánh nắng mặt trời. Chàng cảm thấy như được tái sinh. Trông thấy một bức tường thấp bằng đá, Merton liền ngồi xuống trên đó lòng hân hoan trong niềm an bình tâm hồn mới tìm gặp được. Trước đây chưa bao giờ Merton có được sự an bình như thế.
Merton vẫn còn quãng đường dài phải bước trước khi hoàn tất cuộc hối cải của chàng. Tuy nhiên chàng đã bắt tay làm một việc đầu tiên cực kỳ quan trọng là hướng về một cuộc sống mới. Cần phải ghi nhớ rằng tất cả chúng ta vẫn còn lữ hành trên đường hướng về sự hối cải trọn vẹn. Chẳng hạn, trong chúng ta có một số người cần phải chiến đấu để từ những Kitô hữu bình thường trở thành Kitô hữu tốt, một số khác cần phải cố gắng từ những Kitô hữu tốt trở thành những Kitô hữu xuất sắc. Và số khác nữa thì cố gắng từ những Kitô hữu xuất sắc trở thành kitô hữu gương mẫu.
Khi bình luận về cuộc du hành bất tận của người kitô hữu hướng về sự hối cải trọn vẹn, một thần học gia thế kỷ 19 người Đan Mạch tên là Soren Kierkegaard đã nói: “Không hề có tình trạng đã thành một kitô hữu mà chỉ có tình trạng đang trở thành một kitô hữu”
Như thế, sự hối cải là một tiến trình, là một cuộc du hành đang tiếp diễn và chỉ chấm dứt khi nào chúng ta chết.
Bước thứ nhất trong cuộc du hành này là sự bất mãn tận căn với nếp sống hiện tại của chúng ta. Hãy nhớ lại Merton đã bất mãn với cuộc sống mình như thế nào.
Bước thứ hai là bước tia lửa làm thành ngọn lửa thúc giục chúng ta phải làm một điều gì đó cho cuộc đời mình. hãy nhớ lại cảm nghiệm trong căn phòng khách sạn của Merton.
Bước cuối cùng là thực hiện việc làm đầu tiên cực kỳ quan trọng là hướng về một cuộc sống mới. Hãy nhớ lại Merton đã tới nhà thờ để cầu nguyện ngay sáng hôm sau khi xảy ra cảm nghiệm trong căn phòng khách sạn.
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta khám phá ra cuộc sống của mình. Chúng ta có cảm thấy bất mãn về mối tương giao hiện tại giữa mình và Chúa Giêsu không? Chúng ta có ao ước thân tình sâu sắc hơn với Chúa không? Chúng ta có muốn yêu thương gia đình láng giềng chúng ta nhiều hơn giống như Chúa Giêsu yêu thương họ không?
Nếu có thì các bài đọc hôm nay có thể ví như tia lửa bật ra để biến thành ngọn lửa mà chúng ta cần thiết phải có để làm nên một điều gì cụ thể cho các mối tương giao nêu trên.
Có lẽ việc làm đầu tiên cực kỳ quan trọng hướng về cuộc sống mới là ra trình diện để được chữa lành trong Bí tích Cáo giải; là bắt đầu bỏ giờ ra nhiều hơn cho việc cầu nguyện, là lưu tâm đến một số vấn đề gia đình, chẳng hạn như tính hay nóng nảy với con cái, đồng thời cầu xin Chúa Giêsu giúp chúng ta làm một điều gì đó cụ thể ngay tức khắc để lướt thắng khó khăn ấy.
Đây là lời mời gọi hướng đến đức tin mà chúa ngỏ với mỗi người chúng ta đang hiện dịên nơi đây qua các bài đọc hôm nay.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
Ôi giọng nói của Chúa Giêsu,
Xin hãy kêu gọi chúng tôi,
Khi chúng tôi lạc bước quá xa Ngài.
Ôi đôi mắt Chúa Giêsu,
Xin hãy mỉm cười nhìn chúng tôi
Khi chúng tôi cần Ngài khích lệ
Ôi đôi tay Chúa Giêsu,
Xin hãy xức dầu cho chúng tôi
Khi chúng tôi yếu đuối mệt mỏi.
Ôi cánh tay Chúa Giêsu,
Xin hãy nâng đỡ chúng tôi
Khi chúng tôi vấp ngã.
Ôi trái tim Chúa Giêsu,
Xin hãy giúp đỡ chúng tôi yêu thương nhau
Như chính Ngài đã yêu thương chúng tôi. [Mục Lục]
Trên đường tu đức, ai cũng ham đọc sách của Thomas Merton. Cha đã khai sáng một lối suy tư mới để cân bằng, cảnh tỉnh và thăng tiến đời nội tâm. Trong tác phẩm “Ngọn núi bẩy tầng” (The Seven Story Mountian) Thomas Merton đã diễn tả ơn trở về đặc biệt của chính bản thân.
Lúc 20 tuổi, Merton gia nhập đảng cộng sản và du lịch Âu châu. “Bỗng một đêm ở Paris, tôi nhận ra cái tình trạng tồi tệ, khốn quẫn và man dại của mình trong cơn ác mộng. Tôi bị quỉ dữ săn đuổi và cố chạy trốn! Càng chạy càng mắc và càng lâm nguy. Thức giấc trong kinh hoàng và ướt đẵm, tôi quì xuống khẩn cầu. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi tha thiết nguyện xin. Những mong Thiên Chúa giải cứu khỏi sự dữ đang kìm kẹp và đe doạ tôi. Thiên Chúa đã ra tay thị uy và tạo cơ hội cho tôi trở về”. Khi 23 tuổi, Merton đã tin nhân và suy phục Chúa. Anh làm phóng viên cho tờ Nữu Ước Thời Báo. Và lúc tròn 26, anh giã từ nghề nghiệp, bố thí gia sản, rồi dồn những đồ tùy thân vào một túi vải, gõ cửa xin gia nhập dòng Trapist tại Kentuckty. Chúa đã chuyển hóa một thanh niên hoang đàng thành một thầy dòng khổ tu. Thật lạ lùng!
Không hài lòng với bản thân, nổi loạn với cha mẹ, chống cưỡng quyền bính, và tranh đấu cho công bằng xã hội, chúng ta thường có hai phản ứng tương khắc. Một là dấn thân xây dựng cơ cấu và thế hệ mới, cải tiến gia đình, học đường và xã hội. Đây là con đường đoan chính và thánh thiện mà lịch sử Giáo Hội còn ghi đậm những nết son đặc thù của một Phaolô, Augustinô, Inhaxiô, Phanxicô. Hai là bất mãn, chống đối, làm loạn, thủ tiêu và trả thù theo thuyết “thần học giải phóng”. Thuyết này đã được phái vô thần áp dụng tuyệt mức. Họ cấy thù hận vào tâm não; dùng tra tấn, đàn áp và tù tội làm chính sách; lấy thủ tiêu, bỏ đói và tra tấn làm phương tiện. Kết quả là có nhiều tâm hồn thất vọng, chán chường.
Sống bất an và bất hạnh, Merton quyết tung cánh chim tìm về tổ ấm và ra khỏi ngõ cụt của văn hoá sự chết. Merton được cải tử hoàn sinh qua ba giai đoạn. Một là ý thức quá khứ lỗi lầm và hướng thiện. Hai là cương quyết thăng tiến và thay đổi. Ba là dấn thân sống lý tưởng và hành hiệp trượng nghĩa. Đây là ba chặng chuyển hướng quan trọng, phải theo đúng nếu muốn cải tử hoàn sinh. Merton, Phaolô, Mai Đệ Liên, Augustinô… đã thành công và trở thành những “tín hữu thật” theo quan niệm của Soren Kierkegaard “Chưa có một tín hữu thật sự trên đời, mà chỉ có tiến trình trở thành một tín hữu”. Quả vậy tâm tình “ngại núi e sông” đang trói chặt chúng ta. Vì thế chúng ta còn tiếc xót đời tiện nghi, ấm cúng, hạnh phúc, chưa đeo nổi túi vải lên vai và vui bước lên đường.
Phúc Âm hôm nay tra vấn, thức tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi giấc mơ tầm thường của thế tục. Bạn nghĩ sao? Cải tử hoàn sinh để nhập vương quốc nước trời hay lết lê kiếp sống tai bay vạ gió và miệt mài với cảnh nay còn mai mất!! [Mục Lục]
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu lấy ví dụ người cha có hai con. Ông đến nhờ đứa thứ nhất đi làm vườn cho ông. Nó trả lời rằng nó không đi, nhưng rồi sau đó nghĩ lại hối hận, nó lại đi. Ông nhờ đứa thứ hai, nó trả lời nó sẽ đi làm nhưng rồi lại không đi. Sau đó, Chúa Giêsu hỏi các Thượng tế và Kỳ lão Do thái: “Ai trong hai người con đó đã làm theo ý cha mình” và họ đáp “người con thứ nhất” (Mt 21,31).
Chúa Giêsu dùng chính câu trả lời của họ mà kết luận về chính họ: “Tôi bảo thật các ông, người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31). Tại sao vậy? Tại vì họ cũng giống như người thứ hai, biết ý cha mình muốn và ngoài miệng thì trả lời là làm theo, nhưng thực sự thì không. Họ là “những kẻ chỉ mến Chúa bằng môi, bằng miệng, còn lòng thì ở xa Người” (Mt 15,8). Mà những kẻ chỉ mến Người bằng môi bằng miệng mà không thực hiện ý Người thì không thể vào Nước Trời: “Không phải chỉ kêu Lạy Chúa, Lạy Chúa là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ý Cha” (Mt 7,21)
Họ như cây vả xum xuê cành lá bên ngoài, nhưng không có trái là việc làm tốt, nên bị nguyền rủa (Mt 21, 18-19). Họ là những kẻ mà Chúa Giêsu đã ca thán: “Tại sao các ngươi kêu với Ta “Lạy Chúa, Lạy Chúa” mà điều Ta nói, các ngươi lại không làm?” (Lc 6,46).
Gioan đến với họ trong đường công chính và bề ngoài thì họ kính nể Gioan bởi nếu không, thì sẽ bị dân chúng ném đá (Lc 20,5-6), nhưng trong lòng thì không tin ngài (Mt 21,32). Trái lại những người thu thuế và gái điếm vẫn bị coi là kẻ tội lỗi, thì như người con thứ nhất, biêt “hối hận và đi làm” (Mt 21,29)
Thực vậy, khi Gioan rao giảng thì những người thu thuế đã thống hối xin chịu thanh tẩy và còn hỏi cho biết việc phải làm: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3,12) “Họ đã chấp nhận Thiên Chúa công minh, còn Biệt phái và Luật sĩ đã khinh màng ý Chúa” (Lc 7,29). Khi cầu nguyện với Chúa, thì ngược hẳn với thái độ kiêu ngạo khoe khoang của Biệt phái, họ “Đứng đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ đấm ngực mà rằng: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ có tội”. (Lc 18,9-14). Họ biết thực hiện lời Chúa phán mà “bố thí nửa phần gia tài cho kẻ khó và nếu có gian lận ai thì đền gấp bốn”.
Còn những nguời gái điếm như người phụ nữ trong Luca 7,37-49 hay Maria Madalena trong Luca 8,2, và bọn Biệt phái khinh khi kẻ tội lỗi (Lc7,39), đã biết thống hối cải thiện đời sống theo ý Chúa muốn: “Họ đã tin Người. Còn các ông (Biệt phái), sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin Người”. (Mt 21,32).
“Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác thì nó phải chết: chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Khi kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi và thực thi công chính thì nó sẽ được sống” (Ezekiel 18,26-27- Bài đọc I) Đó là điều chúng ta cần phải suy nghĩ và đem ra thực hành trong đời sống Công Giáo của chúng ta.
Lạy Chúa, tuần này con quyết vừa vâng nghe vừa làm theo thánh ý Chúa để đáng là đức con hiếu thảo tận tình của Chúa. [Mục Lục]
“Các ông nghĩ sao?”. Ngay từ đầu câu chuyện, Chúa Giêsu đã đưa ra lời hỏi đột ngột như một lời thẩm vấn buộc người nghe phải động não, phải tự đặt vấn đề cho mình. Có thể nói lời hỏi đột ngột của Chúa Giêsu như muốn gây giật mình, cùng lúc lôi cuốn sự chú ý của người nghe vào trong câu chuyện mà Người sắp nói nhằm giúp họ tra xét chính bản thân họ.
“Các ông nghĩ sao? Người kia có hai con trai”. Cả hai con trai đều được ông sai đi làm vườn nho. Nhưng các con của ông sao mà tính khí bất định, để rồi tiếng vâng mà thực là không, tiếng không lại là vâng. Đứa thứ nhất trả lời không, cuối cùng đi làm. Đứa thứ hai trả lời có, cuối cùng bất tuân. Dù tính cách và những câu trả lời của những người con bất định đến thế, nhưng theo mạch văn của Tin Mừng, đối với Chúa Giêsu, hình như cái làm cho chúng trở nên đúng hay sai, tốt hay xấu, không thuộc về tính cách và càng không phải là lời những người con ấy nói, nhưng là rốt cuộc chúng làm hay không làm theo ý của cha mình.
“Các ông nghĩ sao?”. Nếu ngày xưa Chúa hỏi những người đương thời như thế, thì hôm nay lời ấy cũng sẽ là lời tra vấn chúng ta. Hay nói cách khác, Chúa cũng sẽ hỏi bạn và tôi: “Các con là loại người nào trong hai người con trai kia?”. Dù trong ta, có thể có cả hai thái độ của hai người con, nhưng hôm nay, chúng ta nói đến người con thứ hai, qua đó xét lại thái độ sống đức tin của mình.
Chắc chắn không ai là không ủng hộ, đồng tình với việc giữ đạo từ nhỏ đến lớn, ủng hộ việc thường xuyên lãnh bí tích, thường xuyên dự lễ, đọc kinh… Nếu ai sống đạo được như thế, thực sự họ đã là những người ngoan đạo. Nhưng cái được coi là ngoan đạo của những người ngoan đạo ấy, nếu không để ý, có khi đẩy ta rơi vào một thái cực khác khá nguy hiểm: chỉ sống đạo theo thói quen. Việc giữ đạo lâu ngày trở thành một cái khuôn, chỉ cần rập khuôn theo là đủ, hoặc sự sáo mòn từ ngày nay qua ngày khác làm ta cảm thấy mình không sai luật, không lỗi bổn phận, và cuối cùng, không thấy cần phải sám hối ăn năn, vì không biết mình có phạm tội gì để ăn năn hay không? Từ đó sinh ra một thái độ khác càng tệ hại hơn nữa: thái độ tự mãn, tự kiêu, tự đắc thắng. Đó cũng chính là thái độ tự phong mình làm “thánh”, dù không nói ra thành lời. Nếu điều này có thật thì thật nguy hiểm cho ta. Bởi vì có ai hoàn hảo đâu, chỉ vì chưa nhận ra mình bất toàn nên không hoán cải mà thôi.
Đấy chính là thái độ của người con thứ hai. Anh ta thưa với cha mình: “Vâng, thưa cha con sẽ đi làm vườn nho”, nhưng lại không đi. Còn chúng ta, ai cũng đang sống trong Giáo Hội, ai cũng có thể thưa với Chúa rằng: con yêu mến Chúa, con tin Chúa, con muốn theo Chúa, nhưng trong thực tế, đời sống đạo của mình cứ ì ạch, không có gì khá hơn, không đổi mới gì và cũng không thấy mình cần phải ăn năn hối cải.
Nếu đúng là ta có một cung cách, một thái độ sống đạo tự mãn đó, chỉ biết rập khuôn theo luật, mà không có một tâm tình, một ý thức nào để cải thiện đời sống, điều đó có nghĩa là mình đang tự lừa dối chính bản thân. Nếu có lúc nào bạn và tôi thật khiêm tốn, tự kiểm điểm mình thật thành tâm, tôi nghĩ, chắc là lúc ấy chúng ta không còn dám tự mãn nữa.
Chắc bạn còn nhớ lời khen của Chúa Giêsu đối với thái độ của người thu thuế khi cầu nguyện. Anh ta đứng xa xa ở cuối nhà thờ, không dám ngước mắt lên, đấm ngực mà cầu nguyện: “Lạy Chúa tôi là kẻ có tội”. Sau lời cầu nguyện ấy, anh ra về và tội của anh được tha. Thế nhưng cùng lúc ấy, cũng có một người biệt phái cầu nguyện trong nhà thờ ấy. Rất tiếc và rất đáng thương cho anh ta. Anh ta quá tự mãn, chỉ thấy nơi mình toàn điều tốt. Thái độ tự mãn ấy đã biến lời cầu nguyện thành lời khoe khoang. Làm sao một người không từng thấy mình yếu đuối, thấy mình tội lỗi lại có thể được thứ tha! Bạn và tôi cần lắm thái độ của người thu thuế nơi chính bản thân mình. Và cũng cần lắm thái độ của người con thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay: trả lời “không” với cha. Nhưng tiếng “không” lại biến thành tiếng “có” ngay sau đó. Tiếng “không” như thế vẫn đẹp rực rỡ, đẹp hơn nhiều so với tiếng “có” của người con thứ hai, rốt cuộc chỉ là một tiếng “không” vô tận. Bởi lời đáp trả dẫu có quan trọng, nhưng hành động đi liền với lời đáp trả ấy quan trọng hơn nhiều. Biết tránh thái độ tự mãn, biết nhận ra bản thân để thánh y Cha được thể hiện mới là điều quí giá vô cùng.
“Các ông nghĩ sao?”. Ngày xưa Chúa hỏi những người biệt phái, thượng tế, kỳ lão như vậy. Ngày hôm nay Chúa cũng hỏi mỗi người hiện diện ở đây, từng người một rằng: “Các con nghĩ sao? Nghĩ sao về cách sống đạo của mình? Nghĩ sao về cách thể hiện đức tin? Nghĩ sao về lòng yêu Chúa mà mình phải có? Nghĩ sao về thánh ý Chúa mà mình phải thực hiện?”.
“Các ông nghĩ sao?”, lời đó xin gởi lại cho bạn và cho những ai thành tâm thiện ý để tất cả chúng ta cùng suy gẫm và xét đạo cách sống đạo của mình. Trên hết mọi sự, bạn và tôi hãy để Lời Chúa tra vấn mình: “Các con nghĩ sao?”. [Mục Lục]
Câu hỏi gợi ý:
- Khi giải quyết những vấn đề quan trọng, việc phân biệt điều chính điều phụ có quan trọng không? Còn trong việc nên thánh, việc giữ đạo, việc vào nước Trời thì sao? Điều nào là điều quan trọng nhất để nên thánh?
- Đối với Đức Giêsu, thờ phượng Thiên Chúa, cầu nguyện và sống yêu thương, việc nào quan trọng nhất? Cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện?
CHIA SẺ
- Cần phân định chính phụ trong việc sống đạo để nên thánh
Trên đời, biết bao người cùng nhắm một mục đích, nhưng đạt được mục đích lại chẳng mấy người! Lý do: người ta không biết điều nào chính, điều nào phụ. Vì thế, họ cứ làm những cái phụ thuộc, chẳng cần thiết hoặc ích lợi gì cho mục đích. Việc nên thánh, nên hoàn hảo cũng vậy. Biết bao Ki-tô hữu lấy việc nên thánh, nên hoàn hảo làm lý tưởng cho cả cuộc đời mình, nhưng họ chẳng đi tới đâu. Họ có một cuốn Kinh Thánh chỉ cho họ đầy đủ con đường để nên hoàn hảo, nhưng họ lại không chịu đọc để xem cái cốt yếu hầu nên hoàn hảo là gì. Họ chỉ nghe người này nói thế này người kia nói thế nọ để bắt chước. Cuối cùng họ chẳng đạt được gì.
Nên thánh là việc chính yếu và quan trọng nhất của đời sống Ki-tô hữu. Vì thế, thiết tưởng người Ki-tô hữu cần nắm thật vững điều nào chính yếu và điều nào phụ thuộc trong việc sống đạo của mình. Nếu không, họ giống như một người muốn nấu cơm, mà lại cứ dùng cát để nấu: dù có nấu muôn đời cũng chẳng thành.
- Những người dẫn đường mù quáng
Theo thánh Mát-thêu thì bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói với “các thượng tế và kỳ mục trong dân” (Mt 21,23), tức những bậc thầy về tâm linh cho các tín hữu Do Thái giáo. Điều thật bất ngờ đối với chúng ta là Đức Giêsu dám nói thẳng vào mặt họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Những người thu thuế và các cô gái điếm vốn là những người bị những bậc “đạo sư” Do Thái ấy coi thường và loại bỏ ngay từ đầu ra khỏi “Nước Thiên Chúa” theo quan niệm của họ. Lúc nào họ cũng chắc mẩm rằng họ là đối tượng ưu tiên của Nước Trời. Vì thế, câu Đức Giêsu nói làm cho họ bật ngửa. Điều thật mỉa mai là: họ là những bậc thầy chỉ dẫn người ta vào Nước Trời, thế mà chính họ lại được vào đấy sau cả bọn đĩ điếm. Lý do: họ là “những kẻ dẫn đường mù quáng” Mt 23,16), “là những người mù dắt người mù” (Mt 15,14).
Tại sao? Vì họ chuyên quan trọng hóa những điều phụ thuộc, còn những điều chính yếu và quan trọng nhất thì họ không thèm để ý tới. Đức Giêsu nói về họ: “Các người bảo: Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc. Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn?” (Mt 23,16-22); “Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự thành thật” (Mt 23,23).
Rút kinh nghiệm quá khứ, thiết tưởng để nên thánh, chúng ta nên đọc kỹ Kinh Thánh để nghe chính Đức Giêsu chỉ dẫn cho những điều cốt yếu, và nên dựa trên những gì mà bản thân chúng ta xét thấy hợp lý. Đừng thuần túy dựa vào ý kiến hay chỉ dẫn của người khác.
- Đức Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết để nên thánh
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hé mở cho chúng ta bí quyết hay điều cốt yếu phải làm để nên thánh qua dụ ngôn hai người con: một người nói mình sẽ làm theo ý cha mình, nhưng lại không làm, còn người kia không nói mà làm. Người không nói mà làm mới là kẻ làm đẹp lòng Cha. Rất nhiều chỗ trong Tin Mừng, Đức Giêsu cho biết điều chính yếu để nên thánh là thực hiện thánh ý của Thiên Chúa. Thiết tưởng đoạn sau đây là rõ ràng nhất: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng:”Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đa” (Mt 7,21-27).
Tóm lại, điều chính yếu nhất để nên thánh và để vào nước Thiên Chúa chính là vâng theo thánh ý Thiên Chúa, tức thực hành những điều Đức Giêsu dạy. Vậy, chúng ta cần phải nắm thật vững thánh ý Thiên Chúa là gì, hay Đức Giêsu dạy ta điều gì? Hãy nghiêm túc đặt lại vấn đề này một lần cho cả cuộc đời để đi cho đúng đường, và đạt được mục đích của mình là nên thánh. Nếu không, coi chừng kẻo chúng ta giữ đạo cả cuộc đời mà vẫn “sôi hỏng bỏng không”, hay như “dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”, chỉ vì điều quan trọng nhất thì ta coi thường, còn điều phụ thuộc thì chúng ta lại coi là tối quan trọng.
Đọc toàn bộ Tin Mừng, tôi thấy điều quan trọng nhất mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh là: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Ngay câu kế tiếp, Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của nó: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13.35). Ngoài điểm chính ấy, thì tất cả những điều khác, đều là phụ thuộc, và những điều phụ thuộc này dù quan trọng tới đâu thì cũng chỉ là quan trọng hàng thứ yếu. Chính vì thế, vào ngày phán xét, Đức Giêsu chỉ phán xét mọi người về một điều duy nhất: cách họ đối xử với tha nhân (x. Mt 25,31-46).
Chúng ta cần chú ý tới điều mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh, và những người dẫn đường thiêng liêng cho quần chúng cũng phải nhấn mạnh giống như Đức Giêsu. Nếu điều quan trọng nhất lại không nhấn mạnh, mà lại nhấn mạnh những điều phụ thuộc, thì họ cũng chỉ giống như những người dẫn đường thiêng liêng cho quần chúng trong đạo Do Thái mà thôi.
- Chúng ta đặt nặng và sống đúng điều quan trọng nhất chưa?
Điều quan trọng nhất trong Ki-tô giáo chính là sống yêu thương: trước tiên là yêu thương những người gần gũi mình nhất (cha mẹ, vợ con, anh chị em…), rồi đến những người xa hơn một chút (bà con, lối xóm, bạn bè, người cùng cộng đoàn…), rồi mới đến những người xa hơn nữa (người quen, người gặp ngoài đường…), để rồi yêu thương không trừ một ai, kể cả kẻ thù của mình (vì họ cũng là con người, là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa). Cần ghi lòng tạc dạ điều quan trọng nhất ấy để thực hành. Tất cả những chuyện khác đều là thứ yếu – không có nghĩa là không quan trọng, mà chỉ là không quan trọng bằng – thường là phương tiện để giúp ta thực hành điều quan trọng nhất ấy.
Chẳng hạn việc thờ phượng Chúa và việc cầu nguyện. Đây là hai việc được coi là rất quan trọng trong Ki-tô giáo mà không một Ki-tô hữu nào được phép coi thường. Nhưng chúng ta không thể coi hai việc này quan trọng hơn điều răn quan trọng nhất là sống yêu thương được. Đọc hết Tin Mừng, tôi không hề thấy có chỗ nào Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc thờ phượng Thiên Chúa hay cầu nguyện bằng hoặc như Ngài đã từng nhấn mạnh bổn phận phải yêu thương cả.
Qua câu “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24), tôi thấy rõ rằng Ngài coi trọng việc thể hiện tình thương đối với đồng loại hơn cả việc thờ phượng Thiên Chúa nữa. Ngôn sứ I-sa-i-a còn cho thấy Thiên Chúa ghê tởm việc thờ phượng và cầu nguyện của những con người đối xử với đồng loại không ra gì: “Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu” (Is 1,14-15; nên xem hết cả đoạn Is 1,11-19). Hãy nghe Ngài kết án hết sức nặng nề những việc làm thiếu bác ái: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5,21-22). Trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Ngài có vẻ như cay cú với thầy tư tế và lê-vi đã bỏ mặc nạn nhân bị cướp trên đường vì đã coi trọng việc thờ phượng và giữ những chi tiết trong luật Mô-sê hơn bổn phận bác ái là giới răn quan trọng nhất.
Cầu nguyện là để tiếp xúc với Thiên Chúa hầu nhận được sức mạnh của Ngài mà sống yêu thương anh chị em mình. Nó là phương tiện cần thiết để đạt được mục đích là sống yêu thương. Đừng biến phương tiện thành mục đích mà quên mục đích đích thực phải thực hiện. Về việc thờ phượng Thiên Chúa, hãy bắt chước Đức Giêsu: cả đời chỉ thực hiện tình thương đến mức hy sinh cả mạng sống, và cuộc đời đầy yêu thương đó chính là hy tế thờ phượng Thiên Chúa đẹp lòng Ngài nhất.
Đối với điều chính và điều phụ, lập trường của Đức Giêsu là: “Các điều này (điều chính yếu) vẫn cứ phải làm, mà các điều kia (điều phụ thuộc) thì không được bỏ” (Mt 23,23c). Dẫu phải làm cả hai, nhưng vẫn phải phân biệt điều nào chính điều nào phụ để khi không thể làm được cả hai, thì biết phải chọn lựa điều nào.
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Lạ thật! Biết bao người nói rằng họ theo Ta, nhưng những điều Ta khuyên hay yêu cầu họ làm thì họ chẳng thèm làm. Họ cứ tưởng: họ bám theo Ta và lải nhải nịnh nọt Ta suốt ngày thì Ta sẽ hài lòng và như vậy mới là theo Ta. Họ làm như Ta là một bạo chúa chỉ thích nghe những lời nịnh nọt! Ta là Thiên Chúa, Ta có cần họ làm gì cho Ta đâu, thế mà họ lại cứ quan tâm đến Ta, đang khi anh chị em của họ ở ngay bên cạnh họ, rất cần họ yêu thương săn sóc – những người đó chính là hiện thân của Ta ở giữa họ – thì họ chẳng thèm màng tới. Quả thật, họ đang làm những chuyện vô ích mà cứ tưởng là cần thiết”. [Mục Lục]
- Tôi khám phá ba điều khác lạ
- Bài Tin mừng hôm nay không khởi đầu như thường lệ bằng câu: “Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng”, nhưng: “Khi ấy Đức Giêsu nói với các Thượng tế và các trưởng lão trong dân rằng”.
Vào thời Đức Giêsu, các Thượng tế và trưởng lão đại diện cho toàn thể giới lãnh đạo tôn giáo và xã hội Do Thái. Họ cho mình là rường cột của niềm tin chính thống và nền tảng của xã hội. Đức Giêsu đồng hoá họ với người con trưởng: Nói mà không làm.
- Đức Giêsu đảo lộn trật tự tôn giáo và xã hội. Ngài đồng hoá những người thâu thuế và các cô gái điếm với người con thứ hai: Ban đầu từ chối, nhưng sau đó hối hận và làm theo ý cha mình.
Bài Tin mừng không thuật lại phản ứng của những người đối thoại với Đức Giêsu. Nhưng sự so sánh của Ngài phải nói là rất táo bạo, phải được gọi là một cuộc cách mạng, một sự đảo lộn bậc thang giá trị: Hạ giới lãnh đạo, hạ những người chốp bu xuống và nâng những người tội lỗi, nâng hạng người bị xã hội khinh thường lên.
- Người Cha là chủ vườn nho. Ông không sai những đầy tớ, những người làm công lao động trong vườn nho của mình, nhưng sai chính những người con.
Ba điều khác lạ trong bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta, những kitô hữu của ngàn năm thứ ba, sống Lời Chúa thế nào?
- Đức Giêsu muốn trực diện và nói thẳng với mỗi người chúng ta: Không phải mang nhãn hiệu kitô hữu với giấy chứng Rửa tội, không phải mỗi ngày đọc kinh, mỗi Chúa Nhật tham dự Thánh Lễ là đương nhiên sẽ được giấy vào Nước Trời. Nhưng phải chấp nhận và hành động theo Tin Mừng, phải tuyên xưng và sống niềm tin, phải nối đạo với đời.
- Mỗi thánh nhân đều có một dĩ vãng. Mỗi tội nhân đều có một tương lai. Không vì một dĩ vãng đen tối mà nằm lì trong vũng tội. Hãy noi gương những người thâu thuế và các cô gái điếm để biết lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận Tin mừng và thống hối, canh tân đời sống. Không bao giờ quá trễ và phải khởi sự ngay trong ngày hôm nay.
- Chúng ta, giáo sĩ và giáo dân, là những người con được Chúa trao trách nhiệm làm việc trong vườn nho của Ngài. Mỗi người chúng ta phải rao truyền và sống Tin mừng: Trong mỗi hành động, chúng ta phải là chứng nhân của niềm tin kitô; qua mỗi lời nói, bằng mỗi câu chuyện, chúng ta phải an ủi, nâng đỡ tinh thần và chia sẻ kinh nghiệm của đức tin, cậy, mến cho nhau. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Có một tâm sự như sau: Lúc tôi còn là một chàng thanh niên nhà nghèo từ miền quê lên thành phố học tập, mẹ tôi đã phải gồng gánh, chắt chiu từng đồng gửi cho tôi ăn học. Mỗi lần có dịp về thăm nhà, tôi thấy ngôi nhà ẩm thấp, nóng nảy ngày xưa vẫn không hề thay đổi. Trời tối nóng bức, mẹ tôi phải phe phẩy chiếc quạt nan cũ kỹ cả đêm. Tôi nói với mẹ: Tháng lương đầu tiên, con sẽ mua tặng mẹ cái quạt điện cho mát. Thời gian trôi qua, tôi cũng đã có việc làm, nhưng dường như tôi đã quên hẳn lời hứa với mẹ về tháng lương đầu tiên. Cuộc sống ở thành phố cứ cuốn tôi vào với dòng chảy của nó, bạn bè ngày càng nhiều hơn, các bữa tiệc ngoại giao ngày càng thường xuyên hơn, có những bữa tiệc tiêu tốn đến vài triệu.
Rồi một ngày, nhận được tin mẹ mất, tôi vội vã trở về với mẹ. Vẫn ngôi nhà đơn sơ năm xưa, mẹ tôi nằm đó, trên gương mặt còn đậm nét khắc khổ. Buổi chiều hôm ấy, khi người ta đặt mẹ vào quan tài, những người phục vụ đã không quên bỏ vào quan tài của mẹ chiếc quạt nan cũ kỹ năm xưa. Nhìn thấy chiếc quạt, tim tôi thắt lại, giật mình nhớ lại lời hứa về tháng lương đầu tiên sẽ mua tặng mẹ chiếc quạt điện. Tôi vô cùng hối hận vì đã không thực hiện được một lời hứa nhỏ bé dành cho mẹ. Kể từ đó, mỗi khi ngồi cạnh chiếc quạt điện tại văn phòng, tôi lại nhớ lời hứa năm xưa với mẹ mà lòng đau đớn.
Hối hận là gì? Thưa là tiếc nuối, day dứt về một hành động trong quá khứ, về một việc tốt có thể làm mà ta đã không làm và ước mong có cơ hội để chuộc lại sai lầm ấy.
Nếu hối hận chỉ là day dứt và tiếc nuối quá khứ thôi, thì chưa đủ ; trái lại, nó cần phải đi kèm một quyết tâm khắc phục sửa chữa sai lầm của mình trong quá khứ, đó mới là hối hận thực sự. Thiên Chúa cũng luôn chờ đợi con người nhận ra sai lầm của mình, hối hận và làm lại cuộc đời, và khi con người hối hận thực lòng, Thiên Chúa không còn xét đến quá khứ của người ấy nữa, Ngài sẵn sàng tha thứ và đón nhận người ấy như người con đi xa trở về với Cha. Những luật sĩ và biệt phái tỏ ra khó chịu khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế và tội lỗi. Họ tự cho mình là những người đạo đức, luôn chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa, nhưng thực ra họ chỉ nói mà không thực hành, xét đoán khắt khe với người khác, nhưng lại không nhìn lại bản thân mình.
Câu chuyện dụ ngôn về hai người con hôm nay, Chúa Giêsu cho thấy, Thiên Chúa quan tâm đến hành động hối lỗi một cách cụ thể hơn là những lời nói suông trống rỗng. Cả hai đứa con trong câu chuyện đều được cha đến tận nơi và mời gọi: Con ơi ! Hôm nay, con hãy đi làm vườn nho cho cha. Đứa con thứ nhất trả lời: Con không muốn đi. Người con này, lúc đầu nó từ chối lời mời của cha nó, nó làm cho cha hụt hẫng, đau lòng vì bị từ chối thẳng như thế ; nhưng sau đó, nó hối hận và đi làm. Chắc chắn khi thấy nó vào vườn nho làm việc, cha nó sẽ quên hết nỗi đau trước đây, và ông vui mừng vì sự hiện diện thiện chí của nó. Ngược lai, Người con thứ hai đã nhanh chóng trả lời: Vâng con sẽ đi. Nó nói để lấy lòng cha nó, nhưng rốt cuộc anh ta không đi.
Câu hỏi được Chúa Giêsu đặt ra với các thượng tế và kỳ mục rằng: Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha? Họ trả lời ngay: Người con thứ nhất. Như thế, ngay câu hỏi của Chúa Giêsu đã cho thấy: Thiên Chúa như người cha trong câu chuyện, Ngài chờ đợi không phải là những lời nói ngọt ngào, dễ nghe, mà Ngài mong muốn những người con làm theo ý Ngài. Khi kể câu chuyện này, Chúa Giêsu muốn so sánh những thượng tế và kỳ mục giống như người con thứ hai. Khi Đức Giêsu đến giảng dạy về giới răn, lề luật của Thiên Chúa, gửi đến họ cơ hội để gia nhập Nước Trời, bên ngoài thì họ tỏ ra như một người con hiếu thảo, nhưng thực ra, họ lại không tuân giữ giới răn và không làm theo ý muốn của Thiên Chúa, mà làm theo ý mình. Còn những người bị coi là tội lỗi như những người thu thuế và gái điếm, trong con mắt mọi người, họ như những kẻ từ chối Thiên Chúa, nhưng khi nghe những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thì họ đã mau mắn hối hận và quyết tâm thay đổi tình trạng của mình. Vì thế, Chúa Giêsu đã quả quyết với họ: Những người thu thuế và các cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy, còn những người thu thuế và các cô gái điếm lại tin.
Đối với Thiên Chúa, quá khứ không quan trọng bằng hiện tại, việc làm cụ thể thì quan trọng hơn lời nói trên môi. Nếu chỉ dừng lại ở quá khứ để tự dằn vặt, trách mình thì sẽ chẳng ích lợi gì. Nhưng điều quan trọng là khi biết thực lòng hối hận ăn năn, thì đối với Thiên Chúa, không bao giờ là quá muộn, Ngài sẽ vui lòng và sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm và quên hết quá khứ của tội nhân. Bài đọc một, Thiên Chúa đã nói qua miệng tiên tri Ezekiel như thế: Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính mà làm điều gian ác, nó sẽ phải chết vì những điều bất chính của nó. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ sự gian ác nó đã làm, mà thi hành điều chính trực, nó sẽ cứu được mạng sống mình, nó sẽ được sống.
Thiên Chúa không muốn chúng ta nhìn Ngài như một nhà độc tài hoặc một vị thần khó tính, mà Ngài muốn chúng ta nhìn Ngài như một Thiên Chúa tốt lành, một người Cha nhân hậu. Ngài luôn đối xử với chúng ta theo lòng khoan dung của Ngài. Ngài chờ đợi tâm tình thảo hiếu của người con đối với cha, như Đức Giêsu là mẫu gương thảo hiếu, hết lòng yêu mến, vâng phục Cha. Thánh Phaolô đã nhận ra và mời gọi chúng ta noi gương Ngài: Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu-Kitô.
Tâm tình của Đức Giêsu Kitô là tâm tình nào? Đó là tâm tình yêu mến và vâng phục Thiên Chúa, vâng phục một cách tuyệt đối. Thánh Phaolô đã diễn tả tâm tình ấy qua bài ca: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Vì thế là môn đệ của Đức Giêsu, là con thảo của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải học nơi Đức Giêsu và phải có cùng một tâm tình vâng phục, yêu mến Thiên Chúa như Ngài.
Thưa quý OBACE, một trong những vấn đề của con người ngày nay, đó là họ làm điều tội, nhưng lại không cho là tội, làm tổn thương đến người khác mà vẫn coi như chuyện bình thường. Sự vô tâm đến vô tình ấy đã gây ra nhiều nỗi khổ cho người bên cạnh. Tình trạng ấy cũng đang xảy ra giữa nhiều người với Thiên Chúa. Họ gây tổn thương cho Thiên Chúa, từ chối lời mời gọi yêu thương của Ngài mà không hề áy náy hay hối hận. Ngoài ra, nhiều lần chúng ta không chỉ vô tình, mà còn cố ý xúc phạm đến Thiên Chúa, khi mang trên mình cái vỏ là Kitô hữu, nhưng thực ra, chúng ta từ chối giới răn lề luật của Chúa và để ngoài tai lời mời gọi của Ngài. Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở và mời gọi chúng ta, hãy can đảm nhìn vào tình trạng tâm hồn và đời sống của mình để biết hối hận ăn năn về những hành động, lời nói đã xúc phạm đến Chúa, đồng thời tin tưởng vào Thiên Chúa để quyết tâm sửa chữa sai lầm. Hãy đến với Chúa nơi Bí Tích Giải tội để nhận ra sự bao dung, tha thứ của Thiên Chúa. Hãy để cho Lời Chúa soi sáng, chỉ dạy chúng ta và quyết tâm thực hành những điều Chúa muốn. Chúa đang nói với mỗi người qua Lời Chúa chúng ta nghe mỗi ngày và qua tiếng nói của lương tâm, là lời mời gọi từ trong tâm hồn mà Chúa nhắn gửi chúng ta.
Không chỉ hối hận với Thiên Chúa, chúng ta cũng cần khiêm tốn để nhìn ra những tổn thương mà chúng ta đã gây ra cho nhau: trong gia đình, với ông bà cha mẹ, với vợ chồng con cái, với bạn bè. Một lời nói, một cử chỉ nào đó có thể gây ra vết thương trong tâm hồn nhau. Hãy mạnh dạn bước đến với nhau để bày tỏ sự hối hận của mình. Trước hết, mỗi người hãy bày tỏ sự hối hận với các bậc làm cha mẹ. Các Ngài là những Đấng sinh thành, dưỡng dục chúng ta, dạy dỗ chúng ta nên người, nhưng ngược lại, khi khôn lớn, chúng ta đã không kính trọng và biết ơn các ngài cho đủ, mà có những lời nói, cử khỉ hỗn láo, khinh thường. Điều đó làm tổn thương các ngài biết bao. Hãy làm những việc cần thiết, để bày tỏ sự hốn hận của mình với các Ngài trước khi quá muộn.
Không chỉ con cái gây tổn thương cho cha mẹ, nhưng nhiều khi chính cha mẹ cũng gây tổn thương cho con cái, vợ chồng gây tổn thương cho nhau, bạn bè làm tổn thương nhau… Đối với người Châu Á, việc một người lớn nói lời xin lỗi với người bề dưới quả là không dễ, nhưng là những bậc cha mẹ hoặc những người lớn, chúng ta cũng cần xét mình lại và can đảm bước đến với con cái, với những người bề dưới để nói với họ rằng mình đã sai và cố gắng sửa chữa sai lầm. Việc làm đó không làm giảm uy tín của người bề trên, mà trái lại càng làm tăng lòng cảm phục nơi người bề dưới. Trong tương quan với bạn bè cũng thế, khi biết hối hận và khắc phục sai lầm, sẽ làm cho tình bạn ngày càng chặt chẽ hơn.
Xin Chúa giúp mỗi chúng ta không ngừng nhìn lại tương quan của mình đối với Chúa để biết sống trọn tình con thảo, và nhìn lại tương quan của mình với anh em để sống với nhau trong sự cảm thông và yêu thương. Amen. [Mục Lục]
Các con thương,
Các con thường nghe ông bà ta thường nói: “Đánh người chạy đi chứ ai đánh người chạy lại”, nghĩa là con người có lầm lỗi to lớn thế nào đi nữa, nếu biết ăn năn hối hận thì được mọi người thương và tha thứ. Hơn nữa, họ còn được có cơ hội để làm lại cuộc đời.
Trong bài đọc thứ 1 hôm nay, tiên tri Êdêkiel cảnh báo những ai cho rằng mình đã đạo đức, đã tốt rồi không cố gắng sống tốt hơn, coi chừng ngày nào họ phạm tội thì họ cũng phải chết.
Cũng vậy, Ngài khuyến khích những kẻ gian ác hãy bỏ đi con đường tội lỗi và quay về thì sẽ được ơn tha thứ và tiếp tục sống. Nghĩa là Thiên Chúa luôn mở cho con người một tương lai, khuyến khích người xấu và người tốt ngày càng tốt hơn. Thiên Chúa không nhớ quá khứ tội lỗi của người biết hối cải. Người ta nói rằng: Thiên Chúa nhận lấy tội lỗi của chúng ta và quẳng nó xuống hố thật sâu. Người đặt một bản hiệu trên bờ hồ: “Miễn Vớt Lên”
Tục ngữ có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Trong Tin mừng các con vừa nghe, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến đời sống đạo đức thực sự, lòng đạo đức được thể hiện qua việc làm cụ thể chứ không do lời nói suông, không qua hình thức bên ngoài.
Cùng một câu nói: “Hôm nay con đi làm vườn nho cho cha nhé!”. Thế nhưng có hai câu trả lời khác nhau. – Người anh nói: “Con không đi đâu” nhưng rồi nó hối hận và đi làm; người em trả lời: “Vâng, con đi” nhưng rồi lại không đi.
Các con thương,
Điều giá trị không phải do các con nói hay, nói giỏi cho bằng làm giỏi và làm tốt.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói với các con rằng: “Các con hãy đi làm vườn nho cho Cha”! Các con sẽ trả lời với Chúa như thế nào? – Chắc các con sẽ hỏi lại: làm vườn nho của Chúa là làm những gì?
Theo Kinh thánh, dân Israel được ví như là vườn nho của Chúa. Chúa Giêsu ví “Thầy là cây nho, các con là cành nho”. Như vậy, vườn nho của Chúa là những con người: Cha mẹ, gia đình, anh chị, hàng xóm, trường học…
Khi phụ giúp cha mẹ và anh chị lau quét nhà, rửa chén, nấu cơm, giúp bà xỏ kim chỉ may áo… là các con đáp lời mời gọi làm vườn nho gia đình của Chúa.
Ở trường học, các con biết chăm chỉ học tập, vâng lời, quý mến thầy cô giáo, yêu thương giúp bạn học tập… là các con đang làm vườn nho trường học cho Chúa.
Các con đóng góp tiền để giúp nuôi bạn có điều kiện đến trường như mình; khi nuôi heo đất để xây dựng nhà tình thương cho người có hoàn cảnh khó khăn, khi sống những điều răn Chúa dạy ở môi trường hàng xóm… là các con đã tích cực làm vườn nho xã hội cho Chúa.
Đặc biệt, mỗi tuần đến nhà thờ, dự thánh lễ nghiêm trang, siêng năng chầu thánh thể, sốt sắng rước Chúa, hăng say học giáo lý… là các con đang làm vườn nho tâm hồn của Chúa.
Tất cả những công việc đạo đức thánh thiện tốt lành này không phải làm trong thời gian nào đó mà phải khiêm tốn làm trong sự kiên tri bền chí.
Trong thánh lễ hôm nay, các con xin lỗi Chúa vì nhiều lần các con như người em út trong câu chuyện, hứa với Chúa rất nhiều điều mà không thực hiện: không thưa kinh trong thánh lễ, còn nói chuyện trong nhà thờ, không thực hiện quyết tâm hy sinh mà Phong trào thiếu nhi Thánh Thể đề ra…
Xin Chúa giúp các con quyết tâm luôn biết thưa VÂNG với Chúa và kiên trì cho đến cùng.
Xin Chúa giúp các con luôn đồng nhất giữa lời nói và việc làm: “Nói thì phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay”. Amen. [Mục Lục]
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Ngày nay người ta đề cao vai trò của “thế giới kỹ thuật số”. Vì thế, họ vận dụng nghành kỹ thuật này như một phương tiện tối ưu cho vấn đề quảng bá trong lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, khi nghành này phát triển, họ đã không ngừng “kỹ xảo hóa” để làm bắt mắt người tiêu dùng và khai thác sự tò mò của người dân. Từ đó, sự gian trá trong lãnh vực này cũng leo thang. Nhiều người đã bị những viên: “Thuốc đắng bọc đường” đánh lừa.
Còn trong lãnh vực cuộc sống nhân sinh, con người ngày nay cũng đang phải đối diện với thực trạng tốt – xấu lẫn lộn. Khó có thể biện phân được đâu là người chân tình; đâu là người dối trá; đâu là người xây dựng, đâu là người phá hủy! Lý do là vì họ được bao bọc bởi cái mã bên ngoài rất tinh vi, quỷ quyệt!
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra hai hạng người tốt – xấu; thật – giả thông qua hình ảnh trong dụ ngôn: “Hai người con”, để nhằm giúp cho mọi người hiểu rằng: giá trị đích thực không phải ở chỗ nói nhiều, nhưng là thi hành đúng. Không phải ở chỗ nịnh hót, mà là toàn bộ đời sống của người đó có “ngôn hành đồng nhất” hay không.
- Ý nghĩa dụ ngôn
Khởi đi từ sách tiên tri Isaia giới thiệu về cách hành xử của Thiên Chúa như sau: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55, 9), bởi vì: “… tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).
Thật vậy, đường lối của Thiên Chúa thì khác xa với đường lối và tư tưởng của con người. Với chúng ta thì dễ nhìn về quá khứ và đóng khung trong đó như một định luật bất di bất dịch, hầu kết án hay khoan hồng. Nhưng với Thiên Chúa thì Người nhìn và hướng về tương lai để mong sao cuộc đời của mỗi người được tốt đẹp hơn và có cơ hội trở lại. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để đạt được điều hoàn thiện lại không phải phụ thuộc vào lời nói, mà là nơi hành động.
Để làm sáng tỏ vấn đề trên, Đức Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh của hai người con được cha sai đi làm vườn nho. Người thứ nhất không đi, nhưng sau lại đi. Người con thứ nhận đi, sau lại không đi.
Hình ảnh đứa thứ nhất được Đức Giêsu ám chỉ là những người tội lỗi, thấp cổ bé họng, bị xã hội ruồng bỏ. Họ cũng là những người dân ngoại, thu thuế và gái điếm, bị người Dothái khinh miệt. Vì thế, họ không dám tham gia vào công việc làm vườn của người cha, nhưng sau khi hiểu được lòng tốt của cha, họ đã sám hối, an tâm, can đảm và vui vẻ thi hành cách trung thực.
Còn đứa thứ hai là hình ảnh đại diện cho những Thượng tế, Kỳ lão, Luật sĩ và Biệt phái Dothái. Những người này luôn luôn tự hào mình là con cái Tổ Phụ Abraham, dòng dõi các Tiên tri và là những người trung thành với luật Maisen. Vì thế, cái vé vào Nước Trời là chắc chắn. Họ coi các dân tộc khác là những hạng người bị ruồng bỏ, là đứa con hoang, những hạng người như thu thuế, gái điếm thì khái niệm Nước Trời cũng không thể hiện hữu trong tâm tưởng phương chi nói gì đến ơn cứu độ!
Vì sẵn có tính tự kiêu, tự coi mình là con cưng, được ưu tuyển. Nên ban đầu, họ cũng nhận cho hài lòng người cha, nhưng vì kiêu ngạo, tự mãn, họ lại không làm. Điều này cho thấy, họ thuộc hạng người nịnh hót, nói một đàng, làm một nẻo.
Kết cục, Đức Giêsu phán: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Mt 20, 16a); bởi vì: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31).
Đó là câu chuyện Tin Mừng thời Đức Giêsu, nhưng ngày nay, điều đó có còn không?
- Thật giả vẫn luôn tồn tại
Chỉ cần ngồi lại để suy nghĩ một chút, chúng ta thấy hiện lên trong đầu rất nhiều tình huống thật giả, tốt xấu lẫn lộn đan xen quá nhiều. Nhất là trong lãnh vực quảng cáo. Họ tuyên truyền, thổi phồng tin tức, sự kiện để làm hấp dẫn điều muốn nói. Hay trong lãnh vực Marketing, người ta quảng bá những sản phẩm chất lượng tối ưu, bán chạy như tôm tươi, nhưng thực chất chỉ là thứ hàng giỏm, hàng giả.
Đôi khi điều đó là hành vi của những người xung quanh. Nhưng cũng không chừng, đó lại là của chính chúng ta!
“Căn bệnh giả dối” là đầu mối sinh ra những xói mòn về đạo đức, niềm tin của con người, từ đó phát sinh ra những suy thoái về giá trị tinh thần, nhất là làm lu mờ lương tâm.
Điều đáng nói là sự giả dối nó lan tràn và gần như là chuyện bình thường trong xã hội, nếu không muốn nói là nó đã trở nên ông chủ tồi chỉ đạo cuộc sống! Vì thế, nhiều khi muốn sống lương thiện cũng khó, làm người tử tế trong bối cảnh hiện nay không dễ!
Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì bậc thang giá trị không còn phụ thuộc vào sự thật nữa, cán cân công lý được điều chỉnh bằng tiền, quyền. Gian dối là bình thường, thật thà lại là bất thường, là ngu dốt, là kém cỏi… Vì thế, người ta thường có câu nói mỉa mai như sau: “Chân lý, chân giò cùng một giá”; “Lương thực, lương tháng và Lương Tâm bằng nhau”.
Thật vậy, nếu ai đóng kịch giỏi và giống thì sẽ được tôn vinh, kính trọng. Trong khi đó, người sống liêm chính thì phải chịu thân phận của 8 chữ “t”: “Thật thà thẳng thắn thì thường thua thiệt”. Còn kẻ vô tài, thất đức, lẻo mồm, tâng bốc, nịnh hót thì lên như diều, để rồi “làm láo, báo cáo hay”.
Vì vậy, không thiếu gì cảnh: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” (Truyện Kiều). Những người này thường dùng chiêu thức: “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa che lại”, vì thế, họ ưa sống hào nhoáng bên ngoài nhưng thực chất bên trong trống rỗng. Họ thuộc hạng người: “Khác nào quạ mượn lông công. Ngoài hình xinh đẹp trong lòng xấu xa” (Ca dao), nên không sớm thì muộn, họ bị đặt nghi vấn: “Trông anh như thể sao mai, biết rằng trong có như ngoài hay không” (Ca dao).
Đứng trước thực trạng như thế, chúng ta nhiều khi thông cảm với cảm thức của người Việt là thích ứng và tùy nghi. Tuy nhiên, là người Kitô hữu, chúng ta không thể sống kiểu: “Gió chiều nào che chiều đó”. Sống như thế là trái với đạo lý của Tin Mừng, nghịch với Lương Tâm ngay thẳng. Khi sống như thế, ta chẳng khác gì một cây tầm gửi, hay ký sinh trùng ăn nhờ ở đợ người khác, nên khi họ bị thất thế, ngã gục thì cũng chết theo.
Thật vậy, chúng ta có thể “lừa dối vài người mãi mãi, có thể lừa dối mọi người một lúc nào đó, nhưng ta không thể lừa dối mọi người mãi mãi được”. Là người Kitô hữu, chúng ta phải nằm lòng câu nói sau: “Mất tiền là mất ít, mất người là mất nhiều, nhưng mất niềm tin là mất tất cả!”.
- Hiểu và sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về đường ngay nẻo chính để được hạnh phúc, bằng không sẽ phải chết trong sự thất vọng: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình”(Ed 18, 26-27).
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta cần loại bỏ tư tưởng đạo đức giả và cho mình thuộc hàng công chính, rồi sống trong sự tự mãn, kiêu căng. Đừng mang danh là Kitô hữu nhưng thực tế không có “chất Kitô”. Luôn có tinh thần sám hối, quay trở về với Chúa. Không được có thái độ tự ti để rồi tự nhận mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để buông xuôi trong sự thất vọng.
Mong sao tất cả chúng ta, mỗi người luôn ý thức rằng mình đều là những người đang lữ hành, nên chưa phải là hoàn hảo. Vì thế: “Không hề có tình trạng đã thành một Kitô hữu mà chỉ có trong tình trạng đang trở thành một Kitô hữu” (Soren Kierkegaard).
Nếu: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt là do ma quỷ mà ra”. Thực hành lập trường “ngôn hành đồng nhất”, nếu không sẽ dễ dẫn đến tình trạng “mâu thuẫn nội tại”. Và chúng ta bị rơi vào tình trạng nói thì rất hăng nhưng khi làm thì chẳng thấy đâu, họ giống như người: “Nói thì đâm năm chém mười, đến khi tối trời chẳng dám ra sân” (Tục ngữ).
Lạy Chúa, xin cho chúng con được thuộc về sự thật và trở nên chứng nhân cho sự thật, bởi vì chỉ có sự thật mới giải thoát được chúng con mà thôi. Amen. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói tới hai loại người qua hình ảnh hai người con: Người con thứ nhất, bảo đi làm thì nói không đi, nhưng rồi lại làm như ý người cha. Người con thứ hai, gọi dạ bảo vâng, nhưng rồi không chịu đi làm. Rồi chính Chúa đã giải thích cho chúng ta biết: người con thứ nhất ám chỉ những người thu thuế và những người đàng điếm, hai loại người này bị xã hội Do Thái khinh miệt nhất. Những người thu thuế bị khinh miệt vì họ cấu kết với ngoại bang để bóc lột đồng bào mình. Vì thế dân chúng oán ghét họ và liệt họ vào hạng người phản quốc, bỏ đạo và không thể ăn năn hối cải. Còn những ả giang hồ thì thời nào cũng vậy, đều bị xã hội khinh miệt sát đất, coi họ là hạng người xấu xa, làm dơ bẩn xã hội, và cũng không thể được cứu rỗi.
Ngược lại, người con thứ hai, ám chỉ những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu thời ấy, là những người tự xưng mình là đạo đức, công bằng, trong sạch, nhưng là thứ đạo đức, công bằng, trong sạch giả hình, bôi bác. Ngoài miệng thì nói hay lắm, nhưng không thực thi điều mình nói. Đó là những người “ngôn hành bất nhất”: nói mà không làm.
Nhưng tại sao Chúa lại nói với các thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”? Bởi vì những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu khi Chúa giảng dạy, không chịu nghe, coi thường lời Chúa, không ăn năn sám hối. Còn những người thu thuế và gái điếm, khi dược Chúa kêu gọi, họ đã thành tâm sám hối. Chúng ta thấy: những người nói sẽ làm, rồi lại không làm, là loại người đáng trách. Còn những người nói không làm, rồi lại làm, là loại người đáng khen.
Chúng ta biết: từ tư tưởng đến lời nói và tới việc làm là cả một con đường dài xa xăm. Thực vậy, một khuôn vàng thước ngọc, dù có hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng là không hay và vô ích. Cũng thế, có tư tưởng hay mà không đem thực hành thì cũng như một bông hoa không bao giờ kết trái. Chúng ta vẫn nói: “Ăn vóc học hay”: ăn để mà học, học để mà biết, biết để mà làm. Không biết thì không thể làm gì được, chỉ còn biết đứng tựa cột mà nghe. Nhưng biết mà không làm thì giống như người đầy tớ đem chôn nén bạc và bị xét xử. Hơn nữa, biết mà lại cứ làm sai thì càng bị xét xử nặng hơn. Cho nên, đã biết thì làm, cả hai đi song song nhau, hỗtrợ nhau, thì mới hữu dụng, hữu ích. Nhưng thực tế, trong xãhội, chúng ta thấy có những người biết mà không làm, hoặc nói thì rất hay nhưng lại không chịu làm.
Câu nói: “Năng thuyết bất năng hành”: hay nói mà không hay làm, hoặc nói được làm không là như thế. Ở đời này, hơn thua nhau ở chỗ lý thuyết và thực hành: một lý thuyết dù hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng vô ích. Nhưng tại sao chúng ta nói mà không làm? Có thể là vì chúng ta không có khả năng hành động, có thể là vì chúng ta lười biếng, có thể là vì chúng ta chống đối, bất tuân không muốn làm, có thể là vì việc làm đó không đem lại lợi ích gì cho chúng ta. Tuy nhiên, nói mà không làm thì lời nói không có giá trị và về sau người ta không tin lời chúng ta nói nữa. Cũng thế, “đức tin không việc làm là đức tin chết”. Cho nên, có đạo lý đúng và hay chưa đủ mà còn phải sống và thực hành thì mới minh chứng được đạo lý đó đúng hay sai.
Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Chúng ta phê bình người khác, nhưng chúng ta có rờ lên gáy mình không? Hay là chúng ta thấy cái rác trong mắt người mà không thấy cái xà trong mắt mình? Hay là ” chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại cứ quanh quéo, gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao? [Mục Lục]
sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông”
- Ý CHÍNH
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn hai người con, để trình bày về đời sống đạo đức đích thực, được thể hiện qua việc làm chứ không phải chỉ bằng lời nói suông.
- SUY NIỆM
1/ “Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão”:
Tại đền thờ Giêrusalem (Mt 21, 23-27) nhà chức trách Do Thái, tức là các thượng tế và các kỳ lão, đòi hỏi Chúa Giêsu phải đưa ra bằng cớ để chứng minh quyền bính của Chúa Giêsu có nguồn gốc từ Thiên Chúa. Để trả lời Chúa Giêsu liền lái vấn đề sang Gioan Tẩy Giả rằng: Ủy nhiệm của Gioan Tẩy Giả từ đâu mà đến? Nếu từ Thiên Chúa, tại sao nhà chức trách Do Thái không tin theo? Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu đã nói lên dụ ngôn hai người con.
2/ “Các ông nghĩ sao…”
* Đây là kiểu hỏi để gây chú ý cho người nghe, Chúa Giêsu thờng dùng kiểu nói này nhiều lần (Mt 18,12; 22, 42). Riêng ở đây Chúa Giêsu không hỏi các môn đệ, nhưng hỏi các thượng tế và các kỳ lão.
* Người kia: Cách nói trống này có ý ám chỉ Thiên Chúa.
* Có hai người con: Ở đây chỉ nêu lên hai người con mà không xác định thêm chi tiết ai là con cả, con thứ, hoặc con nào tốt, con nào xấu. Như vậy co ý đặt hai người con trước một sự đối xử công bằng, khách quan không thiên vị, của người cha.
Khi áp dụng về hai người con này, người ta thường cho rằng hai người con đó có ý ám chỉ hai thành phần của dân Do Thái:
+ Một bên bị liệt vào số những người tội lỗi nhưng lại biết làm theo giáo huấn của Chúa, đó là các người thu thuế và gái điếm
+ Một bên là những người có vẻ công chính, nhưng lại cứng lòng không chịu tiếp nhận giáo huấn của Chúa. Đó là các thượng tế và các kỳ lão.
Cả hai hạng người này đều là con của Thiên Chúa. Ở đây không chú trọng đến tình trạng đạo đức của mỗi người con đó. Cũng không để ý tới lời nói, nhưng quan tâm đến việc họ không làm hay sẽ làm.
3/ “Hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha”
* Hôm nay, chỉ thời gian hiện tại, có giá trị như một việc cấp bách phải làm ngay, vì nó có liên hệ đến một mệnh lệnh sẽ quyết định vận mệnh của mình: “Nầy, chính bây giờ là thời đại sủng. Này chính bây giờ là ngày cứu độ” (2Cr 6,2).
* Hãy đi làm vườn nho cho Cha: diễn tả một công việc làm theo ý của Thiên Chúa.
4/ “Con không đi…”
Diễn tả một sự từ chối, bất tuân. Đây là thái độ của những kẻ tội lỗi, sống ngược với lề luật Chúa và Giáo Hội.
Nhưng sau nó hối hận và đi làm: Ở đây không nói lý do tại sao nó hối hận, chỉ đơn giản nêu lên sự kiện tốt đẹp là “hối hận” và “đi làm”. Điều này chứng tỏ sự hối hận là động lực thúc đẩy việc đi làm. Vì muốn nhấn mạnh sự “hối hận và đi làm”, nên ở đây đã kể người con này trước. Trong khi đó có một số văn bản khác, có ý dùng dụ ngôn này để ám chỉ cách rõ rệt là hai hạng người là Israel và dân ngoại đã để theo thứ tự ngược lại.
5/ “Thưa cha, vâng con đi…”
Cách thưa diễn tả một thái độ ngoan ngoãn, lễ phép của người con này.
* Nhưng nó lại không đi. Vâng theo lời nói nhưng từ chối theo việc làm: ngôn hành bất nhất, chứng tỏ một nếp sống vụ hình thức. Ở đây có ý ám chỉ đến những người cầm đầu dân Do Thái: là các thượng tế và các kỳ lão, là những người tỏ ra đạo đức, nhưng lại không làm theo lời Chúa dạy.
6/ “Ai trong hai người con đã làm theo ý cha?”
Đặt câu hỏi này, một đàng Chúa muốn cho các thượng tế phải tỏ bày nhận thức của mình về điều hay lẽ phải, đàng khác Chúa cũng muốn cho những người nghe nhận thấy rõ sự mâu thuẫn giữa các thượng tế và kỳ lão là những người giữ luật tỉ mỉ và trung tín bề ngoài, nhưng lại từ chối công việc của Thiên Chúa là tin vào Đức Giêsu Kitô.
7/ “Tôi bảo thật các ông…”
Lẽ tất nhiên Chúa Giêsu không nói dối cũng chẳng nói đùa mà chỉ nói thật thôi. Nhưng sở dĩ Chúa muốn nói lên như vậy là có ý nhấn mạnh một điều Ngài sắp quả quyết.
– “Những người thu thuế và gái đếm”: Đây là hai hạng người đã bị xã hội Do Thái khinh bỉ vì không giữ luật Môisen và sống trong tội lỗi.
– “Vào Nước Thiên Chúa trước các ông”: “Vào Nước Thiên Chúa trước” ở đây không có ý chỉ thời gian trước hay sau, nhưng có ý nghĩa là thay thế. Những người thu thuế và gái điếm là những người biết hối hận và tin theo giáo huấn của Chúa, nên họ sẽ chiến chỗ trong Nước Trời thay thế cho các thượng tế và các kỳ lão.
8/ “Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính”
Gioan Tẩy Giả, qua đời sống đạo đức cá nhân và qua lời giảng, đã chỉ cho dân Do Thái biết những điều cần phải chu toàn để thực hiện ý Thiên Chúa, đó là đường dẫn người ta đến Đấng Cứu Thế và làm cho người ta nên công chính. Những thượng tế và các kỳ lão đã không tin theo đường đó, ngược lại những người thu thuế và gái điếm đã tin theo nhờ lời giảng của Gioan Tẩy Giả.
9/ “Còn các ông…”
Sau khi xem thấy điều đó, những thượng tế và kỳ lão đã thấy lối sống đạo đức của Gioan Tẩy Giả và đã được nghe những lời ông giảng dạy, đồng thời họ cũng đã được chứng kiến những người thu thuế và gái điếm, thế mà họ vẫn không nhúc nhích gì. Họ đã cứng lòng tới mức không lay chuyển được.
Điều này muốn nói tới những người sống đạo đức giả vụ hình thức mà không để tâm trí đến việc hoán cải đời sống và thánh hoá bản thân, mặc dù họ đã từng được nghe giảng dạy, từng chứng kiến những gương lành và những ơn trở lại của người khác.
III. ÁP DỤNG
A/ Áp dụng theo Tin Mừng:
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta có một đời sống đạo đích thực bằng cách biết lắng nghe và tuân giữ lời Chúa trong đời sống hằng ngày.
B/ Áp dụng thực hành:
1/ Nhìn vào Chúa Giêsu
- a) Xem việc Chúa làm:
Chúa Giêsu đã khéo léo trình bày dụ ngôn này nhằm mục đích giúp người nghe tự rút ra kết luận (Họ đáp: người con thứ nhất) người nghe đây lại là các thượng tế và các kỳ lão mà dụ ngôn đang nhắm tới. Phương pháp trình bày dụ ngôn này cũng giống như tiên tri Nathan kể cho Davit để sữa lỗi ông (2Sm 12) hoặc dụ ngôn chủ nợ (Lc 7, 41-43). Chúng ta noi gương Chúa dùng phương pháp này trong vệc dạy dỗ hướng dẫn và cải hoá tha nhân.
- b) Nghe lời Chúa nói:
– “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”: Hằng ngày, nhất là hôm nay, Chúa vẫn gọi chúng ta đi làm vường nho cho Chúa qua các việc bổn phận, các việc bác ái từ thiện:
+ Ta hãy thưa vâng rồi nỗ lực và chăm chỉ thực hiện sự vâng đó.
+ Nếu trót thưa không hoặc thưa có rồi không đi làm: hãy hối hận và đi làm
“Ai trong hai người con đã làm theo ý Cha mình”: Chúa thường đặt câu hỏi tương tự như vậy với mỗi người chúng ta, để đòi hỏi quyết định phải lực chọn cho phù hợp với tiếng lương tâm chân chính của mình.
“Những người gái điếm và thu thuế sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Chúa muốn nhắc chúng ta đừng khinh thường hay thất vọng về những người khô khan, xấu xa, tội lỗi, bởi vì sẽ có lúc họ đón nhận ơn Chúa để hoán cải và hoàn thiện cuộc sống. Bổn phận của chúng ta là phải nâng đỡ những người đó.
“Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính”: Chúa muốn cảnh giác vì chúng ta không chịu nhìn nhận những gương lành của tha nhân, đã không chịu nghe theo những lời giảng dạy của Giáo Hội, của những người trên, để hoán cải và hoàn thiện đời sống của mình.
2/ Nhìn con người biết hối hận:
Việc hối hận đổi mới con người chúng ta. Việc này không phải chỉ thực hiện một lần rồi xong nhưng vì con người chúng ta yếu đuối, chúng ta sẽ phải lập lại vệc đó suốt đời.
3/ Nhìn vào con người thưa vâng rồi không đi:
+ Chúng ta hãy kiểm điểm lại tiếng vâng của chúng ta đối với Chúa, nhất là đối với ba lời khuyên Phúc Âm.
+ Ta muốn người khác giữ lời hứa với ta. Vậy ta cũng đừng thất hứa với Chúa. [Mục Lục]
1.- Ngữ cảnh
Nhìn vào dàn bài tổng quát của phân đoạn gồm các chương 21 và 22, ta nhận ra đặc tính bút chiến của ba dụ ngôn Đức Giêsu kể ra nhằm biện minh cho kế hoạch của Thiên Chúa:
1) Dụ ngôn Hai người con (21,28-32) xác định trong Israel có những người tội lỗi thực sự vì bất phục tùng.
2) Dụ ngôn Những tá điền sát nhân (21,33-43) vạch trần kế hoạch sát nhân của người Do Thái và loan báo chương trình của Thiên Chúa là sắp chuyển sứ mạng của người Do Thái cho Dân ngoại (c. 45 cho thấy rằng các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ, và như thế là gián tiếp nhìn nhận dự tính sát nhân của họ).
3) Dụ ngôn Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) gom lại các dữ kiện của hai dụ ngôn trước (từ khước vì bất phục tùng, sát hại người con trai, hủy diệt những kẻ sát nhân, kêu gọi những người khác).
Ba bài dụ ngôn này cũng được trình bày tiệm tiến (làm việc, cung cấp hoa trái, đến dự tiệc).
Dụ ngôn Những người thợ làm vườn nho (20,1-16) đã nêu bật rằng Thiên Chúa không hề bị lệ thuộc hành vi con người; Ngài hoàn toàn tự do và tốt lành. Trong dụ ngôn Hai người con, Đức Giêsu cho thấy lần nữa rằng thi hành ý muốn của Thiên Chúa là một bổn phận không thể tránh né.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm ba phần:
1) Dụ ngôn Hai người con (21,28-30);
2) Câu hỏi đặt ra cho thính giả (21,31);
3) Bài học kết thúc (21,32).
3.- Vài điểm chú giải
– Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai (28): Đức Giêsu hỏi ý kiến của các thính giả và cả các đối thủ của Người. “Người kia” tượng trưng Thiên Chúa; còn “hai người con” tượng trưng cho hai thành phần làm nên Dân Thiên Chúa vào thời Đức Giêsu: những người “tội lỗi”, không tuân giữ Lề Luật và các quy định của kinh sư, và những người “công chính” trung thành với tôn giáo chính thức, ở đây là các thủ lãnh của Dân. Cả hai bên đều được gọi là “con” của Thiên Chúa.
– nó hối hận (30): Tác giả Mt không dùng động từ “hoán cải” (metanoeô) mà là động từ metamelomai, chỉ có ở đây và ở Mt 27,3, nhưng được dùng nhiều trong Bản LXX theo nghĩa là “quay trở về với Thiên Chúa” (Ed 14,22; Tv 105,45; Xh 13,17…). Metamelomai có thể có nghĩa đơn giản là “thay đổi tâm trí, nghĩ lại”, nhưng ở đây, cũng như ở c. 32 và 27,3, rất có thể cũng có nghĩa là “hối hận”. Động từ này không có trọng lượng thần học của động từ metanoeô.
– vào Nước Thiên Chúa trước các ông (31): Động từ proagô thường có nghĩa là “đi trước”, nhưng ở đây có nghĩa là “chiếm chỗ”. Đây là một kiểu nói A-ram.
– Nước Thiên Chúa (31): Cụm từ basileia tou theou (Nước Thiên Chúa) không thông dụng trong Mt, nó đến từ truyền thống có trước, nhưng cũng có ý nghĩa như basileia tôn ouranôn (Nước Trời)
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn này được đặt trong khung cảnh một cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các thượng tế và kỳ mục trong dân (x. 21,23). Sau khi Người đã khéo léo từ chối trả lời họ về nguồn gốc của “quyền” của Người, Đức Giêsu kể dụ ngôn Hai người con. Dụ ngôn này mở đầu và kết thúc bằng một câu hỏi mà họ phải trả lời.
* Dụ ngôn Hai người con (28-30)
Cả hai người con đều được cha đề nghị với giọng thân tình là đi làm vườn nho cho ông. Phản ứng của họ hoàn toàn khác nhau. Người thứ nhất trả lời bằng một câu “Con không muốn” khô khan và bất lịch sự, không đưa ra một lý do nào. Nhưng rồi anh nghĩ lại, “hối hận” (metamelêtheis), và đi làm việc trong vườn nho. Người thứ hai đáp lại bằng một câu “Con đây, thưa ngài! (egô kyrie)” lịch thiệp và khả ái: một kiểu xưng hô hợp với một nô lệ hơn là với một người con; anh hứa vâng phục. Tuy nhiên, anh lại không đi đến vườn nho.
* Câu hỏi đặt ra cho thính giả (31)
Câu hỏi của Đức Giêsu (“Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”, c. 31a) quá rõ là chỉ có thể có một câu trả lời mà thôi. Người đã thi hành ý muốn của cha chỉ có thể là người con đã đi làm việc trong vườn nho mà thôi. Do đó, câu trả lời của họ là: “Người thứ nhất”. Nhưng vì đây là một dụ ngôn nhắm đưa tới một quyết định mang tính pháp lý làm mẫu, khi trả lời, họ đã tuyên bố án xử trên chính họ.
Với một câu có từ amen long trọng mở đầu, Đức Giêsu lại quay về trực tiếp với các đối thủ và áp dụng dụ ngôn vào họ. Những người thu thuế và những cô gái điếm là hai nhóm người ở bậc thấp nhất trong hệ thông tôn giáo đương thời và về giá trị luân lý. Họ là những con người bị coi là không có phẩm cách cả về tôn giáo lẫn luân lý, nhưng lại được Đức Giêsu đặc biệt chiếu cố đến (x. Mc 2,13-17; Lc 18,9-14; 7,36-50; Ga 7,53–8,11). Họ sẽ được vào Nước Thiên Chúa trước các nhà lãnh đạo Israel.
Như thế, khi trả lời Đức Giêsu, các nhà lãnh đạo Do Thái đã phải tuyên bố chính bản án về mình. Tuy nhiên, không dễ mà áp dụng dụ ngôn vào họ, vì các khác biệt quá lớn. Đâu là sự đối lập giữa nói và làm mà bài dụ ngôn nêu bật? Có bao giờ họ đã thưa vâng với lời Gioan và Đức Giêsu công bố về Nước Thiên Chúa, mà rồi không chịu áp dụng giáo huấn của các ngài? Phải chăng những người thu thuế và các cô gái điếm đã vâng theo, rồi nay loại bỏ? Lại càng khó áp dụng câu amen (c. 31c) vào cuộc tranh luận cụ thể về quyền bính của Đức Giêsu và về phép rửa của Gioan ở cc. 23-27. Dường như cả dụ ngôn lẫn áp dụng ở c. 31c đều không liên hệ gì đến Gioan Tẩy Giả cả. Do đó, trong c. 32, tác giả Mt tìm cách làm sáng tỏ cách áp dụng và xây dựng mối liên kết với cc. 23-27.
* Bài học kết thúc (32)
Câu kết thúc liên kết dụ ngôn và cách áp dụng vào cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các thượng tế và các kỳ mục ở cc. 23-27. Đức Giêsu thấy xuyên qua những chuyện họ thì thầm với nhau (c. 25). Bây giờ Người mới trả lời cho câu hỏi chính Người đặt ra về Gioan Tẩy Giả, và Người nói thẳng vào mặt các đối thủ: Gioan “đã đến với các ông trong đường công chính”, nhưng các ông đã không tin ông ấy. Có nghĩa là các ông đã không vâng lời ông ấy và nhìn nhận quyền bính thần linh của ông ấy. Do đó, các ông đã không hối hận (oude metemelêthête), và lại còn tệ hơn cả hai người con trong bài dụ ngôn. Cụm từ “trong đường công chính” (en [h]odô dikaiosynês) không phải là một công thức Kinh Thánh theo mặt chữ, nhưng ngôn ngữ Kinh Thánh vẫn nhắc nhớ rằng phải sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Đây là hướng phải theo để hiểu bản văn của chúng ta. Công thức này một đàng nhắc độc giả nhớ đến 3,15, là câu nói về sự công chính mà Gioan thực hiện khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, đàng khác, nhớ đến 11,18, là câu nói đến Gioan “nhà khổ hạnh” (“không ăn không uống”) “đến”. Câu 31c hàm ý là “những người thu thuế và các cô gái điếm”, không giống các nhà lãnh đạo Do Thái, “đã tin” Gioan. Câu này sai niên biểu (anachronism), bởi vì chúng ta chỉ nghe nói đến Đức Giêsu, chứ chưa bao giờ nghe nói đến Gioan như là người có quan tâm đặc biệt đến các người thu thuế và các cô gái điếm. Tuy nhiên, ý tưởng rút ra từ c. 31c là quan trọng: vị trí trước nhan Thiên Chúa của các thượng tế và kỳ mục một bên và các người thu thuế và gái điếm bên kia đã bị đảo ngược. Điểm khác biệt là ngữ cảnh đã làm cho từ “(đi) trước” tương đối của c. 31c trở thành một phân biệt tuyệt đối. Họ tin – nghĩa là vâng phục – trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái thì không. Trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái đã thấy những người bị khinh dể đến với đức tin, kinh nghiệm vẫn không làm cho họ phải ghen tức (x. Rm 11,14), nên họ không giống người con thứ nhất, “sau đó (hysteron), đã hối hận”. Đối với tác giả Mt, “sau đó” đã đi đến hiện tại của ngài. Chính ngài và Hội Thánh ngài biết rằng “sự hối hận” này vẫn chưa xảy ra ngay ngày hôm nay.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy chúng ta đừng phê phán về giá trị tôn giáo của người ta dựa theo một bảng phân loại các hạng người hoặc thể theo những cam kết về lý thuyết hay nguyên tắc. Nói cho cùng, chính cách xử sự cho thấy đáy lòng.
Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn Người con hoang đàng, ta có thể thấy được là các quan hệ giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Israel xấu đi rõ ràng. Người con nói không, rồi hối hận, có lẽ ít đáng bị trách hơn đứa con hoang đàng, nhưng người con nói vâng mà không làm gì cả thì bị phê phán nghiêm khắc hơn người anh cả ghen tị. Trong bài dụ ngôn Luca (ch. 15), thính giả có ấn tượng là người cha gia đình còn hy vọng bao trùm sự ghen tương tồi tệ của đứa con cả bằng tình thương của ông. Nhưng khi nghe dụ ngôn Hai người con, ta đoán ra rằng Đức Giêsu không còn hy vọng hoán cải người Pharisêu được nữa. Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy Giả, họ đã thấy những người thu thuế và các phụ nữ tội lỗi hoán cải, thế mà họ không hề băn khoăn nghĩ ngợi! Sự chai đá của họ thật vô phương cứu chữa!
5.- Gợi ý suy niệm
- Chúng ta học nơi Đức Giêsu bài học là không có nhận định kiểu thành kiến về giá trị tôn giáo của người ta dựa theo cách phân loại các hạng người tùy các dấn thân theo nguyên tắc hay các lý thuyết của họ. Chỉ lối sống thực tế mới cho thấy lòng dạ con người.
- Dù đã nói “không”, hoặc đã sống xấu xa, chẳng một ai lại phải tuyệt vọng. Câu trả lời đầu tiên không phải là lời quyết định, nếu ta không ở lại trong lời ấy, nếu ta biết điều chỉnh nó và vượt thắng nó bằng lối cư xử đúng đắn tiếp sau. Và lối xử sự đúng đắn của những người trước đấy đã sống sai lạc hẳn là phải thúc đẩy những người vẫn tự nhận là tốt lành đi đến hoán cải, nhưng không khiến họ bắt chước hành động trước đây của mình.
- Cần phải đi tìm biết ý Thiên Chúa và mau mắn đón nhận. Cần phải nhận biết các sứ giả Thiên Chúa gửi đến nhằm thông tri cho ta biết ý muốn của Ngài. Từ khước lấy lập trường là một cách lấy lập trường chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Lời nói không thể thay thế hành động hữu hiệu. Đã nói là vâng theo ý Thiên Chúa thì phải nghiêm túc thực hiện thánh ý Ngài trong đời sống mình.
- Dù chúng ta hay người anh em có thế nào, tất cả đều là con của cùng một Cha, được Ngài thương trọn vẹn, tín nhiệm trọn vẹn, và giao công việc đồng đều: chăm sóc chính vườn nho của Ngài. Chúng ta có biết nhận ra vinh dự đó mà sống cho nghiêm túc đời sống và sứ mạng của mình, đồng thời giúp anh chị em cũng sống được như thế chăng? [Mục Lục]
DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Các ông nghĩ sao? Một người có: hai con… “. Như ở 18, 12 và 22,42, Chúa Giêsu xin ý kiến không phải của môn đồ Người, mà là của các đối thoại viên hay địch thủ. Người này tượng trưng cho Thiên Chúa, như ta có thể diễn dịch dựa trên lời áp dụng Chúa Giêsu sẽ nói sau; hai đứa con của ông tượng trưng hai hạng làm nên dân Do thái thời đó: những “người tội lỗi” hay dửng dưng, không mấy giữ Lề luật và các qui định của giáo sĩ, và những “người công chính” hằng trung thành với tôn giáo chính thức, tức ở đây là các thủ lãnh của Israel. Hãy lưu ý là: hai hạng đều là con Thiên Chúa. Đối với cả hai, bản văn hẳn nhấn mạnh về tính chất (đạo đức, có chân lý tốt hay không), cũng như lời ăn tiếng nói của họ, mà về điều họ sắp làm hay không làm. Trên điểm này, Chúa Giêsu và đối phương người đều nhất trí với nhau (c.31b; xem thêm 23,3: các Biệt phái ngự tòa Môisen và dạy người ta làm, y như Chúa Giêsu). Ở đây cũng như mọi chỗ khác trong một, động từ làm (poiein) là căn bản.
“Hôm nay”: Chữ này quan trọng chứ chẳng phải chơi; ông cha trong dụ ngôn không muốn mất giờ giả định về tâm tính, dữ kiện khác biệt của hai con mình; ông đặt cả hai đứa trước cùng các lệnh sẽ quyết định vận mệnh của chúng.
“Về sau”: Không nên xem thành ngữ này là một ám chỉ đến lương dân, những kẻ vào Nước Trời sau người Do thái như một số nhà chú giải đã nghĩ. Lối giải thích gượng ép đó không ăn khớp với các hoàn cảnh mô tả trong dụ ngôn. Quả thế, người con thứ nhất trước tiên đã từ chối vâng lời, đó không phải là trường hợp của lương dân: sở dĩ họ vào muộn hơn trong Nước Trời, chỉ vì Nước Trời đã chưa được trình bày cho họ. Đàng khác, câu giải thích rõ ràng Chúa Giêsu thêm vào đã loại bỏ lối chú giải trên.
“Nó hối hận”: Nơi đây Matthêu không dùng động từ “thống hối” (melanoiein) nhưng dùng một động từ khác (metamelesthai); động từ này chỉ xuất hiện thêm trong Mt 27, 3, nhưng lại được dùng nhiều trong bản ‘Bảy Mươi’ theo nghĩa hoán cải, trở về với Thiên Chúa (Ed 14, 22; Tv 105, 45; Xh 13,17…). Người ta không giải thích tại sao người con ấy lúc đầu bướng bỉnh, sau cùng lại hối hận, mà chỉ khẳng định sự kiện thôi. Nhưng gương của nó đáng ra phải làm đứa thứ hai suy nghĩ: chắc hẳn đấy là lý do tại sao nó được đưa vào sân khấu đầu tiên (dù có một số thủ sao đã đảo ngược vai trò, có lẽ để gợi lên sự đối chiếu Israel dân ngoại).
“Vâng, thưa Ngài”: Tiếng “Ngài” đây, lạ lùng trên môi đứa con, có thể giải thích được dễ dàng nếu cho người cha là Thiên Chúa. Đây là một tiếng vụt qua bóng bẩy nhằm chuẩn bị cho lời áp dụng sắp tới.
“Qua trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa”: Động từ được dùng chỗ này là proagein; ở đây, chữ pro (trước) không có một nghĩa thời gian nhưng có một nghĩa khai trừ. Các người tội lỗi chẳng đi trước Biệt phái song sẽ chiếm chính chỗ của họ trong Nước Trời. Đây là một ngữ điệu Aram, như có một bản văn giáo sĩ đặt vào miệng Thiên Chúa những lời này: “Ai đã đi trước Ta trong việc sáng tạo?”, nghĩa là: “Ta đã sáng tạo thế gian, chứ chẳng phải một ai nào khác” (Targ. Hi 41, 3).
“Theo đàng công chính”: Thành ngữ (Cn 8, 20; 12, 28, Pr 2, 21) diễn tả việc chấp nhận không những hạnh kiểm luân lý của Gioan Tẩy giả, mà còn toàn thể sứ vụ của vị Tiền hô. Thực vậy khi công bố nước Thiên Chúa đang tới gần, Gioan Tẩy giả đã cho thấy dấu hiệu về sự công chính đích thực sắp đến, sự công chính mà Chúa Giêsu mang lại một cách sung mãn tràn đầy. Gioan và Chúa Giêsu đã không giảng dạy hai đường khác nhau, nhưng đã chỉ cùng một con đường duy nhất, con đường thống hối và quay về với Thiên Chúa: trong 3,2 và 4, 17, Matthêu đã cố công làm nổi bật sự tương đồng sứ điệp này khi đặt vào miệng hai Đấng những lời nói như nhau. Thành thử kẻ không tin Gioan (nghĩa là chẳng xem ông như người đại diện hữu quyền của Thiên Chúa) cũng sẽ không tin Chúa Giêsu, Đấng mà Gioan loan báo vậy.
KẾT LUẬN
Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn đứa con phung phá, ta thấy được mối liên hệ giữa Chúa Giêsu với hàng thủ lãnh Israel đã đổi thay sắc thái đến độ nào. Đứa con nói không và về sau hối hận chắc hắn ít bị khiển trách hơn anh chàng phung phá, song đứa nói vâng rồi chẳng làm một tí mảy may thì bị lên án nghiêm khắc hơn người anh cả ghen tương. Trong trường hợp sau này, thính giả dụ ngôn có cảm tưởng người cha vẫn còn trông mong lấy tình yêu bao phủ lòng ghen tương đê tiện của đứa con cả. Nhưng khi nghe dụ ngôn hai người con, người ta đoán chắc Chúa Giêsu chẳng còn hy vọng hoán cải các người Biệt phái. Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy giả, lòng thống hối của những người thu thuế và tội lỗi mà rồi chẳng chút động tâm. Xem ra lòng chai đá của họ không thể biến cải được nữa.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Chúa Kitô dạy ta đừng dự đoán giá trị đạo đức của người ta theo các phạm trù chính thức cũng như theo các cam kết lý thuyết hay trên nguyên tắc. Vì cuối cùng, chính cách sống sẽ biểu lộ nhân tâm con người.
- Tiếng Chúa Cha mời gọi ta đi làm vườn nho hãy còn được tiếp tục gởi đến cho ta. Nó sẽ gợi lên tiếng ta câu trả lời nào? Phải chăng ta sẽ là những kẻ khéo nói cố tránh đưa vào hành động những câu trả lời đẹp đẽ dựng lên? phải chăng ta sẽ coi những ước vọng cao quí, những quyết định hay ho là những hành vi đã thực hiện.
- Sự thống hối cần có để vào Nước Trời chẳng bao giờ chỉ làm một lần là đủ. Phải luôn luôn làm lại, hôm nay cũng như ngày mai. Nếu không, những người thu thuế và đàng điếm (mà ngày nay vẫn còn) sẽ chiếm mất chỗ của ta trong Nước Trời, vì đức tin của họ chân thật hơn đức tin của ta, và cuối cùng sẽ mang nhiều hoa trái.
- Nơi người con thứ nhất, rõ ràng là cái ý thức về việc nó từ chối đã gây nên lòng hối hận và thúc đẩy nó vâng lời. Thành thử thật là lạ lùng, chính một lời từ chối thẳng thừng với Thiên Chúa, một tội lỗi quá hiển nhiên đã giúp người con kiểm điểm lại thái độ của mình đối với Ngài và đã sửa đổi. Cũng vậy những người thu thuế, đàng điếm, bị dân chúng liệt vào hạng tội lỗi, đã không thể bị ảo tưởng về tình trạng của họ trước mặt Chúa, nên vì thế dễ thấy, dễ ao ước và dễ thực hiện sự công chính mà Chúa đề nghị với họ hơn. Ở đây họ trở nên chân dung của tất cả chúng ta, theo một cấp độ rõ ràng nhiều hay ít. Được Chúa yêu cầu mãi, ta khám phá ra mình đã nhiều lần thản nhiên từ chối thánh ý Ngài, ta đo lường được khoảng cách giữa cái ta đang là với cái đúng ra ta phải trở nên, và đó là một điều kiện đầu tiên để vào Nước Chúa. Không phải là cần phạm tội thêm để làm như một con đường đến cùng Chúa: từ bản chất; tội chỉ làm ta xa Ngài. Nhưng một khi đã phạm, chính tội cũng có thể được sử dụng để trở về với Thiên Chúa. So sánh với một nhân đức giả hình, tội ít ra vẫn có cái “lợi” (nếu có thể nói được như thế) là tạo nên một ảnh trạng rõ rệt: người ta bị dồn vào chỗ phải thống hối hay tiếp tục ngoan cố trong điều dữ, trong lúc nhân đức giả tạo bên ngoài của người Biệt phái, vì bịt mắt không cho ông thấy mình xa Thiên Chúa, đã ngăn chận ông thực lòng hoán cải ăn năn.
- Thành thử cái quan trọng chẳng phải là khởi điểm, là những lần từ chối đã qua, là các tội dồn đống từng làm nên bao tiếng không với Chúa. Cái quan trọng là nhìn lại những tiếng không của mình để đổi thành tiếng dâng. Điều đó luôn có thể làm được với ân sủng của Thiên Chúa. [Mục Lục]
PHỤC VỤ THIÊN CHÚA KHIẾN CON NGƯỜI TỰ DO
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Ai trong hai…
Trước sự phẫn nộ của các đối thủ, Đức Giêsu, được một đám đông cuồng nhiệt chào đón bằng những tiếng: “Hosana”, đã long trọng tiến vào Giêrusalem. Trong Đền Thờ, nơi Ngài giảng dạy, Ngài thường xuyên chịu đựng sự quấy nhiễu của “các thượng tế, và kỳ lão trong dân”. Hiển nhiên họ đến chất vấn Ngài về uy quyền nào cho phép Ngài nói và làm như vậy: “Do quyền nào ông đã làm điều đó, và ai đã ban cho ông uy quyền đó” (21,33). Nhưng Đức Giêsu từ chối trả lời bao lâu họ còn né tránh câu hỏi Ngài đặt ra: “Phép rửa của Gioan từ đâu đến, từ trời hay từ con người (21,44). Chính trong bối cảnh tranh cãi này, trong đó có 3 dụ ngôn về ngày phán xét, Đức Giêsu đã cho họ 1 lời cảnh báo mạnh mẽ sau cùng: Dụ ngôn 2 đứa con trai được sai đi làm vườn nho (Pâ CN 26). Dụ ngôn thợ làm vườn nho sát nhân (Pâ CN tới). Dụ ngôn khách được mời dự tiệc cưới (Pâ CN 28). Dụ ngôn đầu là của riêng Matthêu, dụ ngôn 2 đứa con trai được sai đi làm vườn nho có một vẻ đạm bạc đặc biệt, bỏ đi tất cả những chi tiết phụ thuộc để làm nổi bật sự tương phải giữa hai chàng trai. Tương phản trong thái độ ban đầu.
Đối lập thái độ vụng về của đứa con thứ nhất, nó phản đối thẳng thừng: “Tôi không muốn đi!”. Với thái độ kính cẩn thái quá của đứa con thứ hai: “Vâng, thưa cha”. Nhất là tương phản trong thái độ sau cùng.
Trong khi đứa thứ nhất, sau khi đã chối từ, nghĩ lại và ra vườn làm việc.
Đứa thứ hai, sau khi đã kính cẩn vâng phục và chấp nhận, lại chẳng làm gì hết.
- … đã thi hành ý Cha?
Lúc đó Đức Giêsu quay lại phía các người chất vấn và hỏi họ: hai trong hai đứa con đã thi hành ý của cha?”. Họ chỉ có thể đồng loạt trả lời: “đứa thứ nhất”. Đâu còn gì rõ ràng hơn, con người xứng danh được phán xét theo hành động họ làm, không theo ý hướng hay thay đổi của họ. Sự ngỡ ngàng ập đến khi Đức Giêsu chuyển sang phần áp dụng dụ ngôn, đã làm họ thấy rằng họ vừa tự phán xử và tự kết án chính mình: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ngươi. Vì Gioan Tẩy giả đã đến với các ngươi sống công chính và các ngươi không tin vào lời Ngài, trong khi những người thu thuế và đĩ điếm đã tin. Còn các ngươi, cả sau khi đã chứng kiến điều ấy, các người vẫn không hối chi, không tin lời Ngài. “Các thượng tế và các kỳ lão trong dân” tuyên xưng để trả lời “vâng” với Thiên Chúa bứng cách lo âu gắn bó với lề luật và mọi ghi chú từ lề luật. Thực ra, họ ẩn núp sau Lề Luật để từ chối tin sứ mệnh của Đức Giêsu, cũng như họ đã từ chối tin vào sứ mệnh của Gioan Tẩy giả. Họ né tránh ý Chúa: đón tiếp lời và con người Đức Giêsu; trở về với Chúa để tiến vào Nước Trời. Ngược lại, những người mà Do Thái giáo chính thức coi là đáng khinh bỉ và vô phương cứu chữa, những người “thu thuế” và “đĩ điếm”, những người tội lỗi công khai xem ra rất xa đường công chính”, lại đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu cũng như họ đã đón nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy giả: họ đã “hối cải và tin vào lời Ngài”. Cl. Tassin bình luận: “Vì trước hết đức tin không phải là một vài tư tưởng công chính, nhưng là một hành động công chính, những người tội lỗi tồi tệ đã hiểu điều này nên đã bằng mọi giá cố gắng “thi hành ý Cha”. Còn các ngươi, Đức Giêsu nói, các thượng tế, chứng nhân của các cuộc hoán cải này mà các ngươi chẳng nhúc nhích các ngươi đã lỡ cơ hội đầu tiên, thậm chí các ngươi còn để vuột mất tất cả mọi cơ hội: dụ ngôn kế tiếp sẽ minh chứng điều đó.
Khi thuật lại dụ ngôn này cho cộng đoàn, thánh sử muốn biện hộ cho một Giáo Hội mở rộng vòng tay đón tiếp những người thu thuế, gái điếm đã hoán cải ngài cảnh giác các Kitô hữu, xưa cũng như nay, chống lại một thứ tôn giáo bề mặt chỉ biết biết lãi nhãi: “Lạy Chúa, lạy Chúa” nhưng không bao giờ thi hành ý Cha”.
BÀI ĐỌC THÊM:
- Một ví dụ khích đối với những người đối thoại với Đức Giêsu (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB).
Đức Giêsu đã nói: Không phải những kẻ kêu rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa! mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha. Hôm nay Ngài còn đi xa hơn: Ngài nói con người có khả năng thay đổi ý kiến, thái độ, từ vâng lời có thể trở thành bất tuân, ngược lại từ chống đối có thể hoán cải. Ví dụ Ngài đưa ra quả là khiêu khích những người đối thoại: Thật, Ta bảo các ngươi, những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước các ngươi. Ngài chỉ cho thấy chìa khoá mở cửa Nước Trời: đó không phải là vị trí người ta chiếm giữ, cũng không phải địa vị đắc thủ, càng không phải là một lần đồng ý với Lời Thiên Chúa. Đó là tình trạng của các thầy thượng tế, các kỳ lão, các luật sĩ và các tiến sĩ luật. Họ có một nhiệm vụ chính thức trong dân; đó cũng là sự tự hào của bọn biệt phái, họ khoe khoang sự trung tín không hề lơi lỏng đối với Lề Luật và truyền thống. Khốn nỗi lối vào Nước Trời đâu mở ra cho giá trị, công phúc, trọn lành. Đó là món quà Thiên Chúa tặng không cho những ai tiếp nhận lời Ngài và hoán cải. Chìa khoá lối vào Nước Trời là sự hoán cải: hãy hoán cải, vì Nước Trời đã gần” (3,2) Gioan Tẩy Giả đã la lên như thế. Hoán cải là nhận biết những giới hạn của bản thân, là phó mình cho Thiên Chúa và ý định của Ngài. Đức Giêsu phân biệt những người khẳng định sự trung tín nhưng không hề nhúc nhích, với những người không sống “theo luật tắc”, nhưng nhận biết Người và thay đổi theo tiếng gọi của Thiên Chúa: Hoán cải là đi đến nơi. Để giải thích rõ, Đức Giêsu đưa ra một ví dụ cực kỳ, gây phẫn nộ nhất: những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ngươi. Chứng cớ mà Ngài trưng dẫn là sự rao giảng của Gioan Tẩy Giả: “Thật vậy, Gioan đã đến vớt các ngươi trong đường công chính và các ngươi đã không tin, trái lại những người thu thuế và đĩ điếm đã tin ông. Sau đó, đã nhìn thấy như vậy, các ngươi vẫn không hoán cải mà tin ông”. Đâu có những người tin, đón nhận lời của Gioan và dấn thân thay đổi đời sống. Đức Giêsu nhận thấy đó là những người không tự hào, chẳng có đặc quyền đặc lợi gì, nhưng bị khinh miệt, coi thường. Họ chẳng có gì để bảo vệ, họ không sợ bị mất mặt hay bị nghi ngờ. Ai có “danh dự ” cần bảo vệ, ai tự tin mình công chính, người ấy khó mà nhận mình tội lỗi, khó mà ăn năn hối cải, khó mà nhận mình cần thay đổi, khó chấp nhận rằng mình sẽ vào nước Trời không do công phúc của mình… Ta không ngừng cầu xin Chúa ban cho ta một trái tim nghèo, xin Ngài tẩy sạch thói tự mãn, cho ta ý thức sự yếu hèn, tội lỗi của mình. Khi giảng dạy, Đức Giêsu đã ban một chìa khoá “chung” để vào Nước Trời: đó là sự hoán cải, thống hối, ai cũng làm được cho dù họ có những phẩm chất nào, khuyết điểm nào, thuộc dòng chủng tộc nào, dân tộc nào đi nữa. Ơn cứu độ ban cho tất cả những ai chấp nhận mở lòng ra và tin tưởng.
- Chúng tôi chấp nhận bị Phúc Âm làm phiền (M. Hubaut, Prier les paraboles, DDB).
Lạy Chúa
Mỗi buổi sáng, Chúa nhắc lại lời mời:
“Hãy đi làm vườn nho cho Ta!”
Nhưng lời Chúa
Con đã nghe hằng trăm lần
Giờ thì còn là một âm thanh quen thuộc
Mỗi Chúa nhật ru ngủ cộng đoàn
Tuy vậy chúng con vẫn máy móc trả lời
“Vâng, vâng lạy Chúa
Rồi chúng con lặng lẽ trở lại
với những công việc thường lệ.
Chúng con đã thuần hoá sự mãnh liệt của Phúc Âm Chúa để chỉ còn nghe những lời lẽ dịu êm những công thức rất tế nhị. Chúng con đã làm giảm cường độ ánh sáng Phúc Âm qua lăng kính của quan niệm về trật tự, của Giáo Hội và xã hội. Và Phúc Âm của Chúa sẽ chẳng còn phiền nhiễu chúng con nữa. [Mục Lục]
Đức Giêsu nói với các thượng tế vằ kỳ mục: ”Các ông nghĩ sao?..”
Dụ ngôn bắt đầu như thế và thực ra gởi đến các từng lớp lãnh đạo của thời đại Người, “các thượng tế và kỳ mục”. Văn cảnh có tính chất bút chiến: Đức Giêsu vừa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mt 21, 12-17), rồi một cách tượng trưng Người đã làm cây vả chết khô vì nó không có trái (Mt 21,18-22). Những “kẻ cầm quyền” ở Giêrusalem tức giận hỏi Người có quyền gì để làm những hành động khiêu khích ấy. Chính lúc đó, theo bản văn của Matthêu, Đức Giêsu đáp lại bằng ba dụ ngôn: Hai người con, những tá điền sát nhân, những khách mời dự tiệc cưới (Mt 21,28 – 22,14). Cuộc khổ nạn đến rất gần. Đức Giêsu thật sự bị ám ảnh bởi ý tưởng Người sẽ bị loại trừ bởi chính những người lẽ ra phải tiếp đón Người.
Nhưng chúng ta không thể ở mãi trong cách giải thích lịch sử” về cuộc khổ nạn.
Nếu chỉ áp dụng những dụ ngôn của Tin Mừng ‘chúng cho người khác’ thì quả là gian dối. Ngày nay, các dụ ngôn được nói với mỗi người chúng ta.
Lời kêu gọi tối hậu của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta: “Bạn, X, Y,…., bạn nghĩ gì về điều đó?”
Một người kia có hai con trai. ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”. Nó đáp: “Con không muốn đâu!”. Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi
Bạn nghĩ gì về điều này?.
Phản ứng đầu tiên của chúng ta là thấy đứa con quả là vô lễ khi nói với cha nó cách thiếu tôn trọng. Và rồi chúng ta thấy nó dễ thương, nó thay đổi ý kiến một cách thật thà và đi hoàn thành ý muốn của cha nó.
Đức Giêsu, khi đưa ra câu chuyện đơn sơ này đã không cho một lời giải thích nào về mặt tâm lý. Người chỉ cho chúng ta một con người ‘thay đổi’, “hoán cải “. Và đó là một mạc khải củng cố chúng ta. Thế giới hiện đại với những dòng tư tưởng hiện nay, các phương tiện truyền thông cố làm cho chúng ta tưởng rằng con người bị điều kiện hóa và như bị giam hãm luôn trong chủ nghĩa tất định, lấy đi của chúng ta mọi trách nhiệm và mọi tự do. Đặt những sự thất bại, khiếm khuyết của chúng ta lên trách nhiệm của xã hội của tính khí người khác quả là có lợi! Trái lại, Đức Giêsu đưa chúng ta về trách nhiệm của mình khi nhắc lại rằng các ván bài không bao giờ được chọn trước. Dù quá khứ của chúng ta là gì, dù trước đó chúng ta từ chối điều gì một sự thay đổi là luôn luôn có thể. Đức Giêsu là Đấng không bao giờ giam hãm một người nào trong quá khứ, Đức Giêsu là Đấng cho mỗi người cơ hội của mình, dù đó là người tội lỗi nhất.
Như thế chúng ta được mạc khải rằng Thiên Chúa không nhìn chúng ta “đông cứng” nhưng “đang trở thành”.
Trong những khó khăn hiện nay của chúng ta, Người nhìn thấy con người mới có lẽ sắp được sinh ra từ đó. Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì Chúa đặt vào lòng chúng con niềm hy vọng ấy. Lạy Chúa, xin giúp chúng con không làm đông cứng người khác, đừng dán lên người khác một nhãn hiệu không thể thay đổi, nhưng cho họ có cơ may đổi mới. Tuy nhiên, chúng ta đã đoán ra rằng Đức Giêsu có một ý tưởng khác trong trí óc Người. Tại sao Người đã mô tả đứa con thứ nhất ‘nói’ tiếng không, nhưng dầu sao nó đã vâng lời.
Ông đến gặp người thứ hai và cũng bảo như vậy nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?
Rõ ràng người con thứ hai được nhấn mạnh. Sự tương phản nổi bật như ý muốn. Và trong văn cảnh bút chiến tranh cãi giữa Đức Giêsu và các quyền bính tôn giáo tại Giêrusalem, Đức Giêsu nhắm đến họ, những thượng tế và kỳ mục. Nhưng, NGÀY NAY vấn đề cũng đặt ra cho chính chúng ta. Bạn nghĩ gì về vấn đề đó? Người nào trong hai người con đã làm theo ý muốn của người cha?
Họ trả lời: “Người thứ nhất”
Thật vậy chúng ta không thể có câu trả lời khác. Những lời nói đẹp mà thôi không đủ. Chính những hành động của chúng ta mới đáng kể chớ không phải ý định của chúng ta. Dưới góc độ này, Đức Giêsu rất hợp với thời đại: Thế giới ngày nay thán phục tính hiệu quả. Người ta nghi ngờ những người nói hay -những kẻ đại ngôn- chỉ làm cho chúng ta say sưa bởi những lời tuyên bố trống rỗng. Nhưng ý thức hệ lý thuyết đều mất hết tốc độ. Người ta phán đoán những lời hứa dựa vào những kết quả có thực.
Nhưng chúng ta chớ phán xét những người khác. Người con thứ hai này thường rất giống chúng ta. Chúng ta cũng tiền hậu bất nhất. Ví dụ như chúng ta cho rằng mình là những ‘tín hữu’ nhưng ‘không hành đạo’. Chúng ta nói theo Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không theo bằng hành động.
Hoặc giả, chúng ta sang sảng hát kinh Tin Kính ở nhà thờ, những suốt tuần lễ thì làm ngược lại. Biết bao lần chúng ta đã nói với Thiên Chúa: “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện…” mà thái độ của chúng ta có tương ứng với những lời tuyên bố cao đẹp ấy không? Nhưng chúng ta đã được cảnh báo: “nói” không quan trọng bằng “làm”. Người ta không đánh lừa được Thiên Chúa. Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời” (Mt 7,21). Và thánh Gioan diễn tả: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Gioan 3,18).
Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.
Đức Giêsu dẫn vào kết luận bằng một công thức long trọng. “Tôi bảo thật các ông!”. Khi Đức Giêsu sử dụng công thức này, luôn luôn Người muốn loan báo một điều gì rất quan trọng. Vả lại ở đây, quan điểm của Người làm ta kinh ngạc và gần như gây vấp ngã.
Bằng cách nào? Bằng cách cho chúng ta một ví dụ về ‘những người tội lỗi chuyên nghiệp’, những người tội lỗi bởi tình trạng đời sống, những người tội lỗi công khai chăng? những người thu thuế là những người thỏa hiệp với tiền bạc? Những cô gái điếm là những người thỏa hiệp về xác thịt?
Tuy nhiên, thật tệ hại khi tưởng tượng rằng Đức Giêsu biện minh cho ‘lợi lộc’ mà ‘tình dục sai lệch’ đem lại. Câu tuyên bố nghịch nhĩ này cũng như dụ ngôn nói trên của Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự hoán cải.
Tội lỗi tệ hại nhất chính là lòng tự mãn: không cần đến Thiên Chúa! bất chấp đến Người. Và chúng ta biết rằng vào thời của Đức Giêsu những người tin rằng mình ‘công chính’ quả thật đã không cần ơn cứu độ mà Đức Giêsu đem lại cho họ. Nhưng những người tội lỗi, đàn ông có, đàn bà có, đã chạy đến cùng Chúa Giêsu như đến Cứu Chúa của họ.
Nhà văn Péguy đã diễn tả một cách tài tình khía cạnh ấy của tội lỗi, vốn là một điều xấu tự bản chất trở thành một điểm hút thấm đối với ân sủng. “Người ta đã thấy ân sủng xâm nhập vào một linh hồn bại hoại, và người ta thấy ân sủng cứu sống ‘những gì đã bị hư mất’. Nhưng người ta không thấy nó xuyên qua cái gì không “thấm nước”. Những con người tử tế lương thiện hoặc sau cùng những con người mang danh như thế mà tấm áo giáp của họ không có chỗ khiếm khuyết. Bởi vì họ không thiếu sót gì, người ta không mang lại cho họ điều gì”.
Phải chăng như những người tội lỗi mà Đức Giêsu đề cập tôi biết chuyển những tội lỗi của tôi thành cơ hội mầu nhiệm để mong ước ân sủng cứu thoát tôi khỏi những giới hạn của mình?
Phải chăng tôi hay xét đoán bề ngoài những con người sa đọa nhất, thay vì cho họ cơ hội chưa từng có, theo đường lối của Tin Mừng. “Những kẻ tội lỗi công khai sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Đức Giêsu nói về hạng người nào? Người nói với ai bằng “các ông”? Những hạng người tin rằng mình công chính và bị gạt khỏi Nước Thiên Chúa là ai? Đôi khi tôi có thuộc vào hạng người đó không?
Lạy Chúa, xin hãy thương xót chúng con!
Vì ông Gioan Tẩy Giả đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin.
Trong lúc dụ ngôn “hai người con” nhấn mạnh đến sự tương phản giữa “nói” và ‘làm’ ‘giữa nói “có” trên môi miệng và nói “không” trong hành động’; kết luận này nhấn mạnh sự tương phản giữa ‘tin’ và ‘không tin’. Câu này có trong Tin Mừng Thánh Luca trong một văn cảnh khác (Lc 7, 29-30). Đã hẳn Matthêu đã thay đổi chút ít để đặt câu ấy ở đây để đáp lại câu hỏi mà Đức Giêsu đã đặt ra ở trước bài Tin Mừng này: “Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do trời hay do người ta?” (Mt 21,25).
Một lần nữa, qua những người đồng thời của Đức Giêsu, chính chúng ta được tra hỏi. Dù qua lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả hay lời rao giảng của Đức Giêsu, thì lúc nào cũng chính là Thiên Chúa yêu cầu chúng ta nói tiếng ‘vâng’ bằng một đức tin ‘sống động’. Và tiếng ‘vâng’ ấy của đức tin thường là một ‘sự hoán cải, một sự đổi mới cuộc đời’.
Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.
Đức tin trong Tin Mừng trước tiên không phải là sự liên kết với các chân lý phải tin bằng trí tuệ. Đúng ra đó là sự liên kết ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa kêu gọi chúng ta: “Hôm nay con hãy vào làm việc trong vườn nho của Thầy!”. Hoặc là người ta đáp ứng với lời kêu gọi ấy của Thiên Chúa, hoặc là qua những sự kiện cụ thể, người ta không đáp ứng lại. Có một từ nhỏ mà quan trọng trong đức tin Kitô giáo chúng ta, một từ không được dịch ra bất cứ ngôn ngữ phụng vụ nào và chung cho mọi tín hữu, đó là từ Amen có ý nghĩa chính xác là “xin vâng bằng các hành động” mà chúng ta phải nói với Thiên Chúa: “Amen, vâng, đúng vậy, tôi tin, chắc chắn là như thế, tôi trở về, tôi chấp nhận điều đó cho cuộc sống mỗi ngày của tôi”. Mỗi Chúa nhật, miệng chúng ta đọc bao nhiêu tiếng Amen? Và chúng ta đưa vào thực hành trong tuần lễ tiếp theo bao nhiêu lần?
Vì Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã không vừa là có vừa là không, Người chỉ toàn là có. Vì thế cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên Amen để tôn vinh Thiên Chúa (lCr 1,19). [Mục Lục]
Thưa quí vị. Xin ý tứ kẻo chúng ta mắc bẫy chống người Do thái trong Tin mừng hôm nay và hai Chúa nhật nữa, những tá điền độc ác và đám cưới nhà vua bị khước từ (Mt 22, 14). Trong đó Chúa Giêsu tuyên bố: “Kẻ được gọi thì nhiều kẻ được chọn thì ít”. Ám chỉ các đầu mục Do thái từ chối ơn cứu độ của Chúa Giêsu. Phụng vụ cho chúng ta hay Chúa phải đối đầu với cấp lãnh đạo Do thái về sứ mệnh, giáo lý của Ngài. Giọng điệu bài đọc rất gay gắt, kể truyện hai người con trai, một người không vâng lời nhưng lại làm theo ý cha truyền, người khác mau mắn thuận theo nhưng lại từ chối công việc. Thánh Mattheo mở đầu bài đọc: “Đức Giêsu nói với thượng tế và kỳ mục trong dân…”Rồi ngài mượn lời Chúa Giêsu kết luận: “Phần các ông khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” Các tuần tiếp theo cũng tương tự. Nó là chứng cớ xung đột giữa Chúa Giêsu và quyền bính Do thái. Xung đột này phần nào vẫn tồn tại nơi cộng đoàn thánh Mattheo, nên thánh nhân ghi lại để giáo dục.
Ngày nay, hoàn cảnh có khác đi, nhưng não trạng thì vẫn vậy. Nói cho cùng không phải những lãnh đạo giết Chúa Giêsu, nhưng giáo lý của họ, cho nên có tác giả đã gọi giáo lý ấy là thủ phạm chủ yếu giết con Đức Chúa Trời (murderous theology = giáo lý giết người). Não trạng này vẫn tồn tại trong các tôn giáo suốt dòng lịch sử nhân loại. Cho nên chúng ta phải tránh những bất công, biến các lãnh đạo Do thái thành đao phủ, dùng họ như những thí dụ xấu cho một đức tin bảo thủ, từ chối thông điệp và con người Chúa Giêsu. Tốt hơn, chúng ta nên phân biệt rõ tội lỗi và tội nhân trong sứ điệp của bài đọc hôm nay, và tìm ra chân lý liên hệ với thời hiện tại. Người ta thường nói bản tính con người không thay đổi từ khi sa ngã, nếu có thay đổi thì cũng chẳng đáng kể. Tuy nhiên tuyên bố không áp dụng cho văn minh vật chất. Những người làm tôn giáo luôn có khuynh hướng biến việc tuân thủ lề luật và vâng lời thành hình thức biểu diễn như đóng kịch mà không có thực chất nâng đỡ. Hay dùng lời Chúa Giêsu: Họ nói mà không làm. Tức giảng dạy mà không thi hành. Ca tụng nghèo khó mà không thấy dấu chỉ nào trong cuộc sống của mình, dù tập thể hay cá nhân. Lúc này chúng ta nhìn vào bối cảnh của câu truyện: Quyền bính đền thờ thách thức Chúa Giêsu và Ngài phản ứng lại, hỏi xem phép rửa của Gioan Tẩy giả bởi đâu mà ra, bởi Thiên Chúa hay bởi nhân loại? (21, 25). Các lãnh đạo Do thái ương ngạnh không trả lời. Họ chỉ nói gọn nhẹ: Chúng tôi không biết. Bởi nếu công nhận nguồn gốc phép rửa ấy là Thần linh, họ cũng phải chấp nhận tính “bởi trời” của các việc Ngài làm. Vì thánh Gioan đã nói về Chúa Giêsu cho dân chúng nghe bên sông Giodanô: Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và lửa (3, 11).
Tiếp tục Ngài kể cho họ dụ ngôn hai người con được cha sai đi làm vườn nho. Ngài giữ họ trong câu truyện để tỏ rõ tính cứng đầu, cứng cổ của họ đối với giáo lý của Ngài. “Các ông nghĩ sao?” là câu hỏi Chúa đặt ra cho họ, rồi Ngài kết luận: “Ai trong hai người con đó làm theo ý cha mình?” Nói cách khác, ai trong hai hạng người của nhân loại thực hiện ý Đức Chúa Trời? Đĩ điếm hay thế lực đền thờ? Thật khó trả lời, bởi lẽ lương tâm là quan toà không dễ lừa dối. Giả dụ quyền bính đền thờ diễn lại câu truyện, hẳn họ phải từ bỏ lối sống hiện thời mà tin nhận Chúa Giêsu. Việc mà trong hoàn cảnh lúc ấy và cho đến muôn đời họ không làm được. Ngày nay cũng vậy thôi, nếu chúng ta không chịu đổi thay con tim và khối óc theo sự chỉ dẫn của Chúa Thánh Thần, sự thật và lẽ phải. Rõ ràng thay đổi một cái nhìn khó biết bao! Chúa Giêsu mong đợi quyền bính đền thờ đổi thay não trạng từ nói “không” sang “có” với thông điệp cứu rỗi của Đức Chúa Trời, như người con cả trong dụ ngôn. Ước mong của Ngài chẳng bao giờ thành hiện thực. Liệu chúng ta là thính giả ngày nay có làm Chúa vui lòng không? Chúng ta có giám từ bỏ giáo lý giết người, để ôm ấp quan điểm của Chúa Giêsu nhân ái và tốt bụng không? Người Do thái đã làm lỡ mất cơ hội, liệu chúng ta có khôn hơn họ mà mở lòng ra cho Lời Chúa thâm nhập? Chúng ta thường công khai tuyên xưng đức tin, nhưng ít khi thực hành đức tin ấy cho thiên hạ xem thấy, tương tự như thắp đèn rồi lấy thùng đậy lại. Trong bản tiếng Anh và nhiều thứ ngôn ngữ khác, dịch câu trả lời của người con dễ đưa đến hiểu lầm: “yes, sir” thưa ông vâng. Chính xác phải dịch là “Thưa Chúa, vâng” (kyrie). Tiếng Việt Nam khá hơn: “Thưa ngài, con đây”. Bởi lẽ câu này vang vọng lời Chúa trong một dịp khác: “Qủa thật, quả thật ta nói cho anh em hay, không phải bất cứ ai thưa với Thày “Lạy Chúa, lạy Chúa” là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thày, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (7, 21). Hai bản văn ăn khớp với nhau để nhấn mạnh tuyên bố của Chúa Giêsu và thánh ý của Đức Chúa Trời.
Nghĩa là Chúa mong đợi những ai theo Ngài, tuyên xưng đức tin vào Ngài, gọi Ngài là “Chúa”, thì phải thi hành những điều Ngài chỉ bảo. Dịp khác Chúa nói rõ hơn: Yêu mến Thày là tuân giữ các giới răn của thày. Cho nên vấn đề không phải của lãnh đạo Do thái mà thôi, mà mọi nơi, mọi thời. Tiên tri Ezechiel sau khi đã trưng ra sự trừng phạt Gierusalem và thời đi đầy, đã nói đến trách nhiệm cá nhân trong bài đọc một: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình, và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó làm mà nó phải chết”. Trách nhiệm chúng ta là phải làm theo ý Đức Chúa trời. Chúng ta phải phản ánh Lời Chúa trong cuộc sống mình. Khi cử hành Phụng vụ, cầu nguyện, làm việc thiện, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu bằng danh hiệu “Chúa”, thì phải thực hành những nội dung của lời kêu xin. Nhưng thường khi quyên lãng, vì vậy trước Thánh lễ hôm nay, chúng ta kêu xin Chúa: Lord have mercy, Christ have mercy, Lord have mercy: Xin Chúa thương xót, xin Chúa Kitô thương xót, xin Chúa thương xot. Nhưng tôi cam đoan chẳng ai dám nói rõ những ai là kẻ có lỗi, ai không? Cho nên dụ ngôn chỉ ra các trường hợp ăn năn thống hối để chúng ta noi gương. Người đời thường nói: Bộ diện va lời nói có thể lừa dối. Nếu thiếu phán đoán, khi thoạt nghe người con thứ nhất trả lời bố: con không đi. Chúng ta lập tức cho hắn là hư hỏng, không vâng lời cha. Cũng vậy, với người con thứ hai ngọt ngào: con sẽ đi, chúng ta liền cho hắn là đứa ngoan. Chúng ta vỗ lưng hắn khen, tốt quá, đứa con dễ bảo, và còn thêm: chắc chắn ba mày hãnh diện về mày. Nhưng thực tế có đúng như vậy đâu. Đứa con thứ hai mới là đứa con hư, không vâng lời bố. Bé cái lầm. Biết bao lần thiên hạ đã mắc bẫy như vậy, vì hồ đồ, tưởng tượng. Cầu xin Thánh Linh giúp chúng ta tránh được hoàn cảnh này càng nhiều càng tốt, tuy không tránh khỏi hoàn toàn vì yếu đuối con người.
Tôi cảm thấy rằng trong dụ ngôn, hai người con có rất nhiều thời gian và không gian. Sau lời đề nghị của bố, họ có cơ hội suy nghĩ, không vội vàng phản ứng. Người con thứ hai có thể chu toàn câu trả lời “có” của mình, không ai thúc giục và người con thứ nhất cũng có thể thay đổi ý kiến. Phải chăng thánh Mattheo đã cho chúng ta cơ hội để thi hành thánh ý Đức Chúa Trời? Nếu chúng ta nhận ra lẽ phải và lợi dụng thời gian. Các lãnh đạo Do thái cũng có cơ may như vậy. Họ có đủ thời giờ để vâng theo tiếng Chúa Giêsu kêu gọi. Nhưng họ cố tình bịt tai, bởi Chúa Giêsu không có địa vị nào khiến họ chú ý lắng nghe. Ngài chẳng qua là một thanh niên vô danh tiểu tốt, làm nghề thợ mộc, đi lang thang rao giảng những điều khác với truyền thống. Cho nên họ đã chất vấn Ngài: “Ông lấy quyền nào mà làm những điều ấy”. Thực ra sự thật tự nó đã là một thứ quyền bính mà người ta không thể cưỡng lại được. Đến đây chúng ta lại thấy thành ngữ giáo lý giết người (murderous theology) là có lý. Bởi nó bịt mắt con người không cho phép trông thấy sự thật. Vì lẽ đó, Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ, vì lầm không biết. Tin mừng là cuốn sách kể truyện đời xưa, nhưng cũng là cuốn sách của thời bây giờ. Vậy trước Thánh thể nó khởi động lại câu truyện của hai người con cho chúng ta suy nghĩ. Chúng ta cũng có nhiều thời giờ để lựa chọn: Thái độ của người con thứ nhất hay hành xử của người con thứ hai? chúng ta cùng nhau cầu nguyện để biết trả lời thế nào cho yêu cầu của “Chúa
” làm vườn nho cho Ngài trong cuộc sống hằng ngày, như là mỗi cá nhân? Phải trả lời thế nào cho Chúa mà chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa và là Chúa chúng tôi trong thời đại đầy nhiễu nhương này? Thời đại đòi hỏi nhiều hy sinh chứng tá? Phải chăng vườn nho Giáo Hội đòi hỏi nhiều tay thợ “lành nghề” hơn là thợ chỉ biết khoa trương môi miệng? Liệu chúng ta có trung thực công bố danh thánh Đức Chúa trong cuộc sống mình? Nếu trung thực thì lời phán xét của Chúa trong ngày sau hết mà thánh Mattheo ghi lại không làm cho chúng ta sợ hãi. Trái lại vui mừng, vì danh Chúa đã được biểu dương, thờ phượng: “Xưa ta đói các ngươi đã cho ta ăn, ta khát các ngươi đã cho uống, ta mình trần các ngươi đã cho mặc, ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước, ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm.” (25, 31). Nếu không dụ ngôn còn cho ta cơ hội để cải tổ, nó khuyến khích chúng ta thay đổi suy nghĩ và khởi sự những chi con cái Thiên Chúa phải thực hiện để được vào Nước trời.
Một dòng chữ của dụ ngôn gây cho tôi ấn tượng nhất, an ủi và thách thức tôi nhất, là khi nói về người con thứ nhất. Dòng chữ đó là:” Hắn thay đổi ý nghĩ”. Thánh Mattheo viết như sau: “Nó đáp, con không muốn, nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi”. Chi tiết nhỏ nhưng tính vĩ đại của nó nằm trong việc thi hành ý muốn của cha mình. Nhiều lần tôi trầm ngâm trước câu văn này: Nó bảo đảm với linh hồn tôi và mọi người rằng, cho đến lúc qua đời, chấm dứt mọi hành động thì chẳng có chi kết liễu, chẳng có chi cố định, chẳng có chi khoá chặt lại. Người ta còn cơ hội đổi thay. Không nhất thiết tôi vẫn tiếp tục nếp sống xưa cũ. Tôi còn khả năng thay đổi, còn khả năng trở nên hoàn thiện, bắt đầu một cuộc sống mới. Giây phút này là tội nhân, giây phút sau có thể là thánh nếu tôi tích cực nghe theo ơn Chúa Thánh Thần thúc giục. Vì vậy, thánh Phaolô trong bài đọc hai viết cho tín hữu thành Philipphê: “Thưa anh em nếu quả thật, sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta niềm an ủi, nếu tình bác ai khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn ven.” Thánh nhân kêu gọi sự thánh thiện nơi các tín hữu, trở về với cảm tính thiêng liêng. Ngài khuyên nhủ họ trong Đức Kitô để cùng nhau dự yến tiệc hiệp thông trong Thần khí: Bắt chước Đức Kitô tận thâm tâm, từ đó nẩy sinh vui mừng và an ủi. Thánh nhân đã dùng đến công thức ba ngôi trong lời kêu gọi: liên kết với Đức Kitô, khích lệ của Chúa Cha (bác ái) và hiệp thông trong Thần khí. Lời kêu gọi như vậy rất mạnh mẽ. Các tín hữu Philipphê phải nên thánh, trở về cùng Đức Chúa Trời, thi hành thánh ý Ngài như người con cả trong dụ ngôn hôm nay. Sau đó ngài cao hứng chép toàn bộ lời kinh Phụng vụ của cộng đoàn tín hữu tiên khởi, ca tụng nhân đức của Chúa Giêsu. Bài ca này, Phụng vụ cho chúng ta đọc thường xuyên trong kinh chiều, ngõ hầu nhớ lại gương sáng của Chúa Giêsu trong đời sống tín hữu.
Như vậy trước thánh thể hôm nay, chúng ta được Chúa kêu gọi thay đổi cuộc sống. Thánh thể là của ăn thức uống nuôi dưỡng ước vọng ấy. Tôi nghe như người con cả trong thâm tâm khích lệ mình quay trở về với lời mời gọi của Thiên Chúa, thay đổi não trạng và nếp sống. “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Là lời cảnh cáo nghiêm khắc, nếu tôi không thay đổi con người mình. Chúa không đưa ra lời doạ dẫm trống rỗng, nhưng là một lời khuyên chân thật. Liệu tôi có đủ thiện chí lắng nghe? Cuộc đời tôi đã rập khuân theo những thói quen khó bỏ, gần giống như bản tính thứ hai. tôi có nhiều nguy cơ chống lại lời mời gọi nên hoàn thiện của Chúa Thánh Thần. Giống như người con thứ hai, mau mắn vâng lời cha, nhưng kỳ thực vẫn ù lỳ trong các thòi xấu của mình: ươn lười, hưởng thụ, tiện nghi, dễ dãi, khoái lạc. Lạy Chúa Giêsu, đấng kể dụ ngôn cho nhân loại, xin thức tỉnh lương tâm chúng con. Amen. Fr. Jude Siciliano, op. [Mục Lục]
Thật là xót xa khi ai đó hứa giúp đỡ chúng ta trong cơn hoạn nạn. Nhưng rồi lại không thực hiện. Việc đó làm chúng ta bối rối và thất vọng. Thà không có những lời lừa gạt đó thì hơn. Tôi biết, ngay sau khi người cha của hai đứa trẻ vừa qua đời. Chị vợ lo lắng không biết phải làm thế nào nuôi con. Họ hàng đến thăm hỏi rất đông. Họ động viên và nói: “Đừng lo, đã có chúng tôi đây”. Người vợ tạm an lòng. Nhưng rồi người giữ lời, người không. Nỗi lo âu của chị ta tăng lên, khi các người tới thăm thưa dần. Chị nhớ lại: “Những người không hứa gì cả thì thường là những người bền bỉ giúp đỡ các cháu, những người hăng hái nhất lại bỏ rơi gia đình sớm nhất.” Đời là như vậy, chúng ta không nên trách cứ họ, bởi họ còn phải nghĩ đến những công việc khác, như vất vả lao động nuôi sống bản thân và gia đình riêng của mình. Nhưng phần đông là vô tâm, kể cả trong gia tộc, họ hàng, bạn bè, và thân thuộc.
Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu cũng bắt đầu bằng hiện tượng quen thuộc đó, nhưng Ngài nâng cao lên bình diện quan trọng hơn: bình diện tôn giáo. Những người biệt phái, các cấp lãnh đạo tinh thần trong dân đáng lý ra phải nhận biết tiếng Thiên Chúa kêu gọi và trả lời “có” trước sứ vụ của Chúa Giêsu. Nhưng họ đã từ chối, thậm chí còn đặt vấn đề cho những lời Ngài nói, những việc Ngài làm (Mt 21, 23-27). Ngài đã chỉ ra những bất toàn trong việc thờ phượng của họ tại đền thờ, trong dân gian, nhưng thay vì suy nghĩ lại, họ đã nổi giận. Dân chúng muốn sử dụng danh hiệu thiên sai “Con vua Đavit” để tôn vinh Ngài. Thế lực đền thờ hung hăng cấm đoán. Họ chất vấn quyền bính của Ngài và thánh Matthêo đã lợi dụng cơ hội để xác định vấn đề trong suốt Phúc Âm (vd. 7,20; 9, 6-8). Ngay cả đến cuối Tin Mừng, thánh nhân còn hạ bút: “Mọi quyền năng trên trời, dưới đất đã được ban cho Thầy, vậy anh em hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (21,18). Điều nghịch lý ở đây là cứ như quyền hạn và chức vụ chính thức thì những người đầu mục Do Thái phải nhận ra sứ vụ của Chúa Giêsu trước hết và hoạt động tích cực cho công trình giải phóng dân tộc khỏi áp bức tội lỗi. Nhưng thực tế đám dân mù chữ, dốt nát lại làm việc này.
Dụ ngôn hôm nay là một trong ba dụ ngôn Chúa Giêsu đặc biệt hướng về những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Hai dụ ngôn khác là những tá điền sát nhân và đám cưới con trai nhà vua. Trong đó có thành ngữ “Kẻ được gọi thì nhiều, người được chọn thì ít” (Mt 22, 14). Họ nhất quyết đối đầu với Chúa Giêsu, gài bẫy và bắt bẻ Ngài. Nhưng Chúa Giêsu quay ngược tình thế. Cuộc đối thoại giữa người cha và hai con kết thúc bằng câu hỏi: “Ai trong hai đứa con thi hành ý muốn của cha?” Câu trả lời tự nhiên là người con thứ nhất. Như vậy là họ tự lên án mình.
Dụ ngôn có hai ám chỉ rõ ràng: Người Pharisêu và những kẻ ngoài vòng đạo đức truyền thống. Những công nhân vườn nho đến muộn: gái điếm, thu thuế, xì ke.… Những người này do hoàn cảnh sống của mình thoạt đầu nói “không” cho những giá trị đạo đức. Nhưng khi Chúa Giêsu mời gọi, họ đã thật lòng ăn năn và nói “Có” cho những đòi hỏi của Ngài.
Văn thể trong truyện này khá độc đáo: thay vì trực tiếp lật tẩy tính đạo đức giả của các đối thủ, Chúa Giêsu đặt câu hỏi ai đã thi hành thánh ý Đức Chúa Trời, để họ tự kết án mình bằng chính miệng lưỡi mình. Tuy nhiên, câu hỏi chẳng dừmg lại ở những lãnh đạo Do Thái, nó cũng liên hệ thẳng thắn đến mỗi người chúng ta. Chúng ta được mời gọi dưới ánh sáng của Chúa Giêsu, kiểm tra lại lương tâm, chúng ta trung thành thế nào đối với lời mời gọi của Chúa Giêsu?
Dĩ nhiên chúng ta đã chịu phép thánh tẩy, dĩ nhiên trong quá khứ chúng ta đã phục vụ Chúa trong gia đình, ngoài xã hội. Nhưng thử hỏi chúng ta còn nhạy cảm với tinh thần của Ngài nữa không? Chúng ta còn sẵn sàng dấn thân như Ngài không? Mỗi ngày các cơ hội xảy đến, chúng ta còn nói “Có” như lúc ban đầu mới trở lại? Xin nhớ luôn rằng Chúa Giêsu đã nói với đám đông: “Không phải bất cứ ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước Trời cả đâu, mà chỉ những người làm theo thánh ý Đức Chúa Trời” (Mt 7, 21).
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải luôn can đảm nói “Có” trong rất nhiều tình huống, phải lương thiện và trung tín với những lời thề hứa cùng Thiên Chúa, ví dụ trong hôn nhân, bạn bè, con cái, phải bảo toàn tính nguyên vẹn đạo đức trong nhân cách, nơi sở làm, hội hè, đình đám… giống như một sinh viên, chúng ta theo đuổi không những kỹ năng nghề nghiệp mà còn phải lọc lựa những cái chi tốt, cái chi thật trên đời. Những cuộc năng rà soát lại lương tâm mới cho chúng ta thấy rõ những lần tích cực và tiêu cực trong sự dấn thân của mình. Thánh Matthêo khởi sự bài giảng trên núi bằng Tám Mối Phúc. Ngài tiếp tục cho thấy người ta chỉ được “Phúc thật” khi trung thành theo chân Chúa Cứu Thế, sống như Ngài, hy sinh như Ngài. Con đường của Ngài là con đường hòa bình, hòa giải, khiêm nhu, hiền hòa và làm chứng nhân cho sự thật, lẽ phải. Chúng ta không thi hành lý tưởng đó một mình, cần có ơn Chúa giúp đỡ. Đó là điều phải cầu xin ở thánh lễ này!
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gợi lại cho dân chúng ký ức về Thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài là vị ngôn sứ rao giảng không mệt mỏi về triều đại Thiên Chúa đang đến gần. Phải thay đổi não trạng và cách sống, mới được nhìn thấy triều đại ấy. Phải nói “Có” với những đòi hỏi của Thượng Đế bằng cách mang nhiều hoa trái tốt. “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối” (Mt 3, 8). Thánh nhân nhấn mạnh với các Biệt phái và nhóm Saduceo rằng, bất chấp tội lỗi quá khứ, bất chấp lối sống băng giá trong lề luật, không ai sống ngoài phạm vi ơn thánh của Đức Chúa Trời. Điều này đúng ngay cả với những linh hồn trụy lạc như gái điếm, người thu thuế mướn. Họ vẫn có thể và cần thay đổi nếp sống, cách suy nghĩ mới nên trọn hảo được.
Chúng ta đã nghe tỏ lời mời gọi chưa? Đã dự tính đổi thay nếp sống? Bao nhiêu lần thành công? Bao nhiêu lần thất bại? Nhưng dù sao bằng dụ ngôn này, hôm nay Lời của Thiên Chúa lại đến với chúng ta. Tinh thần của Chúa Giêsu lại thúc bách chúng ta phải thay đổi những chi cần đổi thay. Hy vọng, nhiều hoặc ít, lần này chúng ta thật sự làm một cuộc cách mạng đổi đời, bởi đã nghe rõ lời kêu mời của Thiên Chúa và kinh nghiệm Chúa Kitô sống động trong những lời đó. Bài đọc hai, thánh Phaolô mô tả Đức Kitô như tiếng “Có” muôn đời cho thánh ý Đức Chúa Cha. Ngài thực sự đáp trả Thiên Chúa bằng lời nói và việc làm. Tiếng xin vâng của Ngài không bao giờ rút lại, ngay cả khi đối mặt với sự chết! Phần chúng ta, trước mặt Ngài chỉ là những môn đệ chao đảo, lúc thế này, khi thế khác, kể cả phản bội. Thế thì phải làm chi trước Thánh lễ hôm nay? Xin hãy sốt sắng rước Ngài vào linh hồn mình. Tinh thần của Ngài sẽ làm chúng ta vững chắc trong các quyết định của mình. Ngài sẽ giúp đỡ chúng ta luôn nói “Có” với Thiên Chúa như Ngài đã thực hiện.
Ai trong chúng ta còn cảm thấy lẻ loi, sống như người ngoài cuộc? Bao nhiêu linh hồn cô đơn lạnh giá? Bao nhiêu thợ làm vườn muộn màng? Thiên Chúa có sẵn một bản thời gian kỳ lạ! Đến trước không chắc gì đã là chỗ nhất! Đồng hồ của Ngài là đồng hồ ơn thánh. Sau có thể thành trước, trước có lẽ thành sau! Lúc nào nhân loại cũng được mời gọi ăn năn thống hối, lúc nào Ngài cũng chờ đợi chúng ta nói “Có” với ơn Ngài ban.
Xin hãy mạnh dạn đồng ý với Ngài một lần nữa và chờ đợi điều chi sẽ xảy ra trong linh hồn mình! Là những nhà mô phạm và dạy dỗ, chúng ta có trách nhiệm ghê gớm về lời nói và việc làm. Xin hãy coi xem hành động có am hợp với lời mình phát biểu.
Trong dụ ngôn này các bậc làm cha mẹ, cô dì, chú bác, các chính trị gia, thần học gia tức là tất cả những ai có bổn phận giáo dục, phải coi lại hành vi của mình, có thực danh chính ngôn thuận? Hay dùng kiểu nói của các tù nhân: Bước đi trong lời nói của mình (walk the talk). Chỉ lúc ấy chúng ta mới nhận ra rằng sự đáp trả của mình là trung thực. Amen
Bài đọc thêm: Ai đắc đạo?
Tôi có người bạn thân, trí thức. Anh học giáo lý rất chăm chỉ nhiều năm. Tuy nhiên mỗi lần đề nghị anh trở lại đạo, chịu bí tích thanh tẩy (rửa tội) anh từ chối ngay. Gạn hỏi, anh kể cho tôi câu chuyện như sau:
Ở Tích Lan, có một nhà sư nổi tiếng. Thiện nam tín nữ đến nghe ông thuyết pháp rất đông. Chuyện đến tai nhà vua, vua cho vời sư ông tới giảng giải giáo lý nhà Phật cho bá quan văn võ. Chính vua cũng không vắng mặt buổi nào. Sau đó vì ban ngày bận việc triều đình nên nhà vua thường lẻn khỏi hoàng cung ban đêm để tìm nghe nhà sư thuyết giảng. Hai người đưa nhau lên mỏm núi cao ngồi.
Một hôm, khi đang nghe Phật pháp bỗng trông thấy hoàng cung bốc cháy. Nhà vua vẫn bình tĩnh ngồi nghe không tỏ vẻ quan tâm chút nào. Khi chấm dứt bài giáo lý, sư ông hỏi: “Lúc nãy hoàng cung cháy bệ hạ không lưu ý sao?” Nhà vua trả lời: “Cháy đền này, ta xây cái khác. Còn chuyện đạo pháp không như thế được”.
Đêm hôm sau, hai người lại trông thấy ngôi chùa, nơi nhà sư tạm trú, bốc cháy. Nhà sư bồn chồn lo lắng đứng ngồi không yên. Đức vua hỏi duyên cớ làm sao? Sư ông trả lời: “Hạ thần còn để quên cái khố ở trong chùa.” Nhà vua đắc đạo, sư ông thì không. Đây là lý do tại sao tôi không dám vào đạo. Sợ rằng sau đó cũng như nhà sư thôi.
Nói xong anh bạn nhắm mắt, rùng mình. Tôi hiểu nỗi lo lắng của anh. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để trình bầy giáo lý của Ngài trong chúa nhật hôm nay vẫn là vườn nho.Tư tưởng của Chúa Giêsu trong trích đoạn Tin Mừng Mt 21,28-32 tiếp nối hình ảnh vườn nho,nghĩa là nước trời,Chúa Giêsu muốn giới thiệu cho nhân loại.Câu chuyện thánh Matthêô tường thuật có tính cách dí dỏm,thú vị, giúp mọi người hiểu được ý Chúa muốn nói. Người Cha trong trích đoạn Mt 21,28-32 là Thiên Chúa nhân từ, giầu lòng thương xót, luôn chạnh lòng xót thương đối với con người, nhất là những con người tội lỗi,yếu đuối.Người cha một hôm nói với đức con cả: “Con ơi, nay ra làm vườn nho giúp cha nhé “. Đây không phải là một lệnh truyền,một lời bắt buộc, nhưng chỉ là một lời mời gọi.
Câu chuyện ngắn gọn,nhưng nói lên tất cả ý nghĩa của sứ điệp Tin Mừng muốn đề cập tới. Thái độ của hai người con quả thực trái ngược nhau. Cái nghịch lý ở đây là người con cả nói “không”, nhưng sau đó nghĩ lại và đi làm vườn nho theo lợi ích chung của gia đình.Người con cả đã biết hy sinh lợi ích riêng để sống quảng đại, cởi mở và đặt ích lợi chung của gia đình lên trên. Còn người con thứ nhanh nhảu đáp lại lời mời của cha “vâng, con sẽ đi “. Lời đáp trả hết sức mạnh mẽ và quả quyết ấy chỉ là một lời lừa dối cha. Người con thứ thưa “vâng” để nhằm mập mờ đánh lận con đen.Vâng, nhưng không làm, sẽ đi, nhưng không đi. Thái độ của người con thứ thật ích kỷ, anh ta không hề thương yêu cha chứ đừng nói đến yêu thương anh em trong gia đình và người ở ngoài xã hội. Người con cả xác định lập trường của mình, nói lên sự tự do của con người mình, nhưng cuối cùng người con cả đã biết vượt lên tất cả để chọn lựa điều có ích nhất. Hành động của người con cả là cả một sự chọn lựa giằng co, đòi hỏi sự quả cảm và tình thương. Chính vì có lòng tốt,con tim nhậy cảm, ánh mắt biết nói, nên người con cả đã làm theo ý cha của mình. Còn người con thứ chỉ sống trên đầu môi chóp lưỡi, giả bộ nói vâng,nhưng trong tận đáy lòng của anh đã hàm chứa lời từ khước rất quyết liệt: không. Người con cả đã biểu lộ thái độ của mình ra bằng hành động. Người con thứ nói nhưng không làm. Điều này rất phù hợp với lời Chúa Giêsu: “Không phải tất cả những ai kêu lạy Chúa!, lạy Chúa! mà được vào nước trời, nhưng chỉ những ai làm theo thánh ý Chúa”. Thánh ý Chúa phải được thể hiện qua thái độ vâng phục, tuân theo đường lối Chúa. Nói cách khác là chấp nhận Chúa Giêsu là cùng đích, là gia nghiệp của mình.
Chúa Giêsu không phân biệt bất cứ người nào dù họ là Do Thái, Hy Lạp, La Mã, dù họ là ở trong hay ngoại giáo. Chúa Giêsu khẳng định: “Những người đĩ điếm và thu thuế sẽ vào nước trời trước các ngươi “.Chúa Giêsu đã nói:” Không phải những người lành mạnh cần thầy thuốc,nhưng là những kẻ ốm đau “.Thiên Chúa của Đức Kitô là một Thiên Chúa nhân hậu hay thương xót, thứ tha, cảm thông, chia sẻ khác với quan niệm của những người biệt phái, luật sĩ,kỳ mục, thượng tế đã quan niệm Thiên Chúa như một vị quan tòa ác nghiệt, thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán. Thái độ của bọn biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật là thái độ ích kỷ, giả hình, làm bộ. Họ thích khoe khoang,tự mãn về một thứ đạo bề ngoài mà họ nghĩ ra. Cái đạo được họ áp đặt bởi trăm ngàn lề luật, nhưng lề luật do họ nặn ra, bầy đặt để bắt buộc người khác làm,thực hiện chứ họ thì hoàn toàn không làm gì hết như Chúa Giêsu đã từng nói:…một ngón tay họ cũng không muốn lay thử. Thái độ của họ là thái độ tự kiêu, tự mãn, phô trương: ra đường ưa thích người khác tung hô, chào hỏi. Ao thênh thang, tua áo dài, thẻ kinh rổn rẻn vv#Đạo như thế là đạo bề ngoài, đạo nông cạn, hời hợt. Chúa Giêsu đã không dựa trên công đức của con người, dựa trên địa vị, chức vụ của con người để thưởng phạt, tất cả đều do tình thương nhưng không của Chúa. Chìa khóa dẫn vào nước trời là sự vâng phục Thiên Chúa và hoán cải, thống hối, ăn năn:”Hãy hối cải vì nước trời đã gần”(Mt 3,2).
Thái độ của con người sẽ làm chứng cho việc vào nước trời của họ vì ơn cứu độ của Chúa dành cho tất cả những ai biết mở lòng đón nhận và tin tưởng vào cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá.”Khi nào Ta được nâng cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta “.
Theo Chúa là chấp nhận con đường hẹp.Thánh Phaolô đã có lần nói:”Anh em có thì nói có, không thì nói không “. Theo Chúa,con người luôn phải sống trong những trái ý của mình. Theo Chúa là chấp nhận vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa.Theo Chúa là chấp nhận không thỏa hiệp,cương quyết sống sứ mạng của các ngôn sứ. Trong cuộc đời có nhiều trái ý,có nhiều điều chướng tai gai mắt,thỏa hiệp là đi ngược với Tin Mừng. Theo Chúa,con người không được sống giả hình,bề ngoài,nhưng phải sống với con người thật của mình. Điều gì tốt ta làm,điều gì xấu dứt khoát ta phải tránh xa. [Mục Lục]
(Suy Niệm của Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb)
Giã từ Galilê, Chúa Giêsu cùng các môn đệ tiến về Giêrusalem – nơi Người giảng dạy, chịu khổ nạn và chịu chết như Người đã loan báo. Chính tại đây, không ít lần Chúa Giêsu đụng chạm với nhóm thượng tế và kỳ mục dân Dothái. Chúng ta thấy dường như nhóm người này được cất nhắc lên không phải làm lãnh đạo, làm thầy dạy cho dân mà để rình mò, gài bẫy, lên án và chất vấn Chúa Giêsu về mọi lãnh vực. Chính vì thế mâu thuẫn nảy sinh giữa Chúa Giêsu và họ mỗi ngày càng thêm nghiêm trọng. Trong khi giảng dạy, thấy cảnh chướng tai gai mắt xảy ra nơi Đền thờ, Chúa Giêsu đã đánh đuổi bọn buôn bán ra khỏi nơi thờ phượng. Nhóm thượng tế và kỳ mục lấy làm khó chịu bởi lẽ Chúa Giêsu đang đụng đến “nồi cơm” của họ. Bởi thế họ lên tiếng chất vấn Người đã dùng quyền bính nào để làm những điều ấy. Trong bối cảnh đó, dụ ngôn “hai người con” ra đời không chỉ là câu trả lời mà còn là lời lên án của Chúa Giêsu nhắm trực tiếp vào nhóm người này.
Câu chuyện xem ra đơn giản và dễ hiểu về nội dung nhưng lại sâu sắc về mặt đạo lý. Các thượng tế và kỳ mục – dĩ nhiên, trả lời rất chính xác câu hỏi của Chúa Giêsu đặt ra cho họ. Với câu trả lời này, vô hình trung, chính họ đã tự buộc mình, tự kết án chính mình. Bởi Chúa Giêsu đã không ngần ngại sánh ví họ như đứa con thứ hai vâng vâng dạ dạ lời dạy của cha nhưng rồi chẳng thực thi lời cha truyền. “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Ở đây Chúa Giêsu không có ý nói rằng những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước, còn mấy ông thượng tế và kỳ mục vào sau. Trong ngôn ngữ Sêmít, “trước” ở đây không phải hiểu theo nghĩa “trước – sau” mà được hiểu theo nghĩa “được- mất”. Theo đó, những người thu thuế và những cô gái điếm vào được nước Thiên Chúa, còn các ông thượng tế và kỳ mục thì không được vào.
Lý do mà các vị thược tế và kỳ mục Dothái không được vào nước Thiên Chúa là bởi vì họ không tin theo đường công chính mà Gioan Tẩy Giả rao giảng cũng như không chấp nhận sự hiện diện của Chúa Kytô ở trần gian này. Họ vâng vâng dạ dạ với Thiên Chúa nhưng kỳ thực là để cố thủ, gắn bó với lề luật một cách giả tạo. Họ tự tạo ra trăm ngàn khoảng luật và tự cho mình là đã gắn bó và vâng lời Thiên Chúa. Thực ra, những con người này chỉ nấp đàng sau lề luật, mượn danh lề luật để từ chối sứ mạng của Gioan Tẩy Giả cũng như tìm mọi cách khước từ lời rao giảng của Chúa Giêsu – người mà họ biết là có uy quyền và sức quyến rũ lạ thường. Họ cố thủ trong thành trì lề luật của họ để không ngừng chỉ trích, lên án lời rao giảng và việc làm của Chúa Giêsu. Họ không chấp nhận cách giáo huấn cũng như con người Chúa Giêsu. Không đón tiếp Chúa Giêsu cũng đồng nghĩa với việc họ từ chối con đường dẫn vào nước Thiên Chúa.
Ngược lại, những người thu thuế và những cô gái điếm là những người được xem là công khai hoá đường tội lỗi của mình, bị người Dothái và đặc biệt là mấy ông thượng tế và kỳ mục liệt vào hạng “hết thuộc chữa”, là loại thối tha, đáng nguyền rủa,… lại được Chúa Giêsu sánh ví và khen ngợi như người con thứ nhất trong dụ ngôn. Sánh ví và khen ngợi những con người này, Chúa Giêsu không hề cổ xuý cho những hành động tội lỗi công khai của họ. Hơn ai hết, Chúa Giêsu là người lên án mạnh mẽ sự ác và tội lỗi cũng như không bao giờ Người thoả hiệp theo đường tội lỗi. Chúa Giêsu trân quý họ bởi vì những con người này từ chỗ coi thường sự công chính, không chấp nhận sự ràng buộc của lề luật, chôn vùi cuộc đời trong vũng lầy tội lỗi,… đến chỗ họ ý thức về đường tội lỗi của mình để rồi hối cải ăn năn và tìm về với lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả cũng như tin vào giáo huấn của Chúa Giêsu.
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21). Mấy ông thượng tế và kỳ mục Dothái thường hay khoe khoang lòng đạo đức của mình, vênh vang với người khác về việc mình thực thi nghiêm chỉnh giới luật của tiền nhân, tự đắc vì mình luôn trung thành với truyền thống giao ước của Giavê. Họ tự cho rằng mình đã “đắc đạo”, đã giác ngộ và không cần phải phản tỉnh, không cần phải duyệt xét lối sống nhầy nhụa sự ô uế vốn được sánh ví như mồ mả tô vôi. Thế nên, mãi mãi họ cũng chỉ là những con người chỉ biết dùng đầu môi chót lưỡi để xưng tụng danh thánh Chúa nhưng lòng dạ thì ngập tràn kiêu căng và tự mãn, mãi mãi họ sẽ không được vào nước Thiên Chúa. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm, những người không sống theo nguyên tắc, theo luật lệ, luôn luôn chống đối, nhưng lại biết phản tỉnh, biết thay đổi thái độ, biết nhận ra những giới hạn của bản thân, biết hoán cải để đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa. Chính vì thế, cửa trời rộng mở đón tiếp họ bởi họ đã biết tiếp nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả, của Chúa Giêsu và đã thành tâm hoán cải, trở về nẻo chính đường ngay.
Ý thức thân phận yếu hèn, tội lỗi và không ngừng thống hối ăn năn được xem là điều kiện tiên quyết, là chìa khoá để được vào nước Thiên Chúa. Thiên Chúa không nhìn theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không ưa thích những câu chúc tụng trống rỗng chỉ nhằm loè thiên hạ. Ơn cứu độ chỉ thực sự ban cho những ai biết mở lòng mình ra đón nhận Lời Chúa Kytô, biết phản tỉnh và thực thi thánh ý của Thiên Chúa. Lời Chúa hôm nay, một lần nữa nhắc nhở chúng ta: Những người thu thuế và những cô gái điếm vui vẻ hân hoan đến rơi lệ bước vào nước Thiên Chúa, còn chúng ta thì sao?… [Mục Lục]
CON NGƯỜI ĐƯỢC TỰ DO VÌ PHỤC VỤ THIÊN CHÚA
Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem trong tiếng la to, cổ võ của một đám đông dân chúng. Họ hô vang:” Hosanna”, con vua Đavít. Tuy nhiên, các người Biệt phái, Luật sĩ, Thượng tế, kỳ lão và những người Do Thái, ghen tức, căm phẫn Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không chịu dừng bước, Ngài nhất định vào Giêrusalem. Trong bối cảnh ấy, Chúa Giêsu luôn gặp sự quấy rầy của các thượng tế và kỳ lão, họ đến chất vấn Ngài về uy quyền nào đã cho phép Ngài nói và hành động như vậy:” Do quyền nào ông đã làm điều đó, và ai đã ban cho ông uy quyền đó”(Mt 21, 33). Tuy nhiên, Chúa Giêsu từ chối trả lời của họ bao lâu họ còn né tránh câu hỏi của Ngài:” Phép rửa của Gioan từ đâu đến, từ trời hay từ con người”(Mt 21, 44). Trong sự tranh cãi gay gắt giữa những vị lãnh đạo tôn giáo lúc đó và Chúa Giêsu, Chúa Giêsu đã cho họ một lời cảnh báo mạnh mẽ sau cùng: ” Dụ ngôn hai đứa con trai được sai đi làm vườn nho “
Đọc dụ ngôn này, chúng ta cảm thấy sâu xa ngụ ý của Tin mừng matthêu 21, 28-32. Đoạn Tin mừng này hàm ẩn một vẻ đạm bạc đặc biệt, ở đây, chúng ta bỏ qua mọi chi tiết phụ để chỉ làm nổi bật sự tương phản hầu như hoàn toàn đối nghịch của hai người con. Tương phản trong thái độ ban đầu của hai người con. Người con thứ nhất xem ra đã cư xử một cách bộc trực, vụng về khi người con này phản đối thẳng thừng lời đề nghị đi làm của người cha. Người con thứ nhất đã phản ứng dứt khoát, nhưng rất hời hợt và có vẻ như không hề suy nghĩ khi trả lời:” Tôi không muốn đi “. Trái lại với người con thứ nhất, đứa con thứ hai đã tỏ vẻ kính cẩn, nhuộm mùi khúm núm khi cha nó đề nghị nó đi làm trong vườn nho. Nó thưa:” Vâng, thưa cha”. Với thái độ kính cẩn này, chúng ta có cảm tưởng như người con thứ hai sẽ chấp hành nghiêm túc lời đề nghị của người cha. Tuy nhiên, hai thái độ hai thái cực, hai lời ứng đáp rất khác nhau nhưng cũng tỏ rõ lập trường của mỗi người con. Người con thứ nhất trả lời thẳng thừng với cha không đi, nhưng rồi nó hối hận, sự thống hối thúc đẩy nó vâng lời, nó đã vui vẻ trở lại và đi làm trong vườn nho. Người con thứ hai tỏ vẻ khúm núm và tỏ ra kính cẩn vâng phục nhưng cuối cùng nó chẳng làm gì hết.
Khi hiểu rõ thái độ, cung cách ứng xử của hai người con. Chúa Giêsu quay lại phía người chất vấn Ngài và hỏi họ:” Ai trong hai đứa con đã thi hành ý của cha?”. Tất cả chỉ có thể đồng loạt trả lời:” người con thứ nhất “. Rõ ràng, người con thứ nhất được phán xét theo việc làm, hành động của nó, chứ người ta không dựa trên lời nói ngoài môi miệng mà thôi. Đọc đoạn Tin mừng này, nhân loại và mỗi người chúng ta không khỏi ngỡ ngàng khi Chúa Giêsu chuyển qua việc áp dụng dụ ngôn. Chúa Giêsu đã đặt họ trước hai sự việc: vừa tự phán xử, vừa tự kết án mình:” Thật, Ta bảo thật các ngươi: những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ngươi. Vì Gioan tẩy giả đã đến với các ngươi, sống công chính và các ngươi không tin vào lời Ngài, trong khi những người thu thuế và đĩ điếm đã tin. Còn các ngươi, cả sau khi đã chứng kiến điều ấy, các người vẫn không hối cải, không tin lời Ngài”. Các thượng tế và kỳ lão trong dân xem ra rất gắn bó với lề luật và giữ tỉ mỉ lề luật, nhưng chỉ hình thức mà thôi. Họ ẩn núp, lấy chiêu bài lề luật để từ chối sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng như họ đã từ chối tin vào sứ mạng của Gioan tẩy giả. Họ né tránh ý Chúa. Những người sống ở ngoài, những người không đạo, bị người Do Thái và xã hội khinh bỉ lại là những người đã đón nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu, cũng như lời rao giảng của Gioan tẩy giả. Họ đã hoán cải và tin vào Tin mừng, tin vào lời của Đức Giêsu.
Đoạn Tin mừng Mt 21, 28-32 và ý hướng của Chúa nhật này là Hội Thánh luôn mở rộng đón nhận mọi người miễn là những người tội lỗi biết ăn năn, hối cải và quay trở về với Chúa. Điều cốt lõi là tấm lòng chứ không phải là những người chỉ kêu “Lạy Chúa, lạy Chúa ngoài môi miệng”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mau mắn và sẵn sàng vâng theo lời Chúa. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm Trần Thanh Sơn)
Đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe, nằm trong phần cuối sứ vụ tại thế của Đức Giêsu. Hiện tại, Ngài đã khải hoàn vào thành Giêrusalem (x. Mt 21, 1-11). Khi thấy dân chúng buôn bán nơi đền thờ, Ngài đã đánh đuổi họ (x. Mt 21, 12-17). Thấy thế, các Thượng Tế và niên trưởng trong dân đã đến chất vấn Đức Giêsu: Ngài đã nhân danh quyền năng nào mà làm những việc đó. Để trả lời, Đức Giêsu đã chất vấn lại họ về thái độ của họ đối với lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (x. Mt 21, 23-27). Tiếp đó, Ngài nói tiếp ba dụ ngôn để nhắc nhở về thái độ cứng tin của họ trước sứ điệp của Thiên Chúa.
Dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe hôm nay là dụ ngôn đầu tiên trong ba dụ ngôn đó. Với dụ ngôn về hai người con này, Đức Giêsu muốn cảnh cáo thái độ cố chấp của những người Luật sĩ và Biệt phái. Họ đã nghe lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả, đã nghe lời rao giảng và chứng kiến những phép lạ Đức Giêsu đã làm. Thế mà họ vẫn không tin, thậm chí còn nhân danh niềm tin để âm mưu hãm hại Đức Giêsu. Điều đó, cho thấy giữa lời tuyên xưng đức tin và hành động để chứng minh niềm tin của con người có một khoảng cách đôi khi thật gần, nhưng lắm lúc cũng thật là xa.
Dụ ngôn hôm nay kể lại, người kia có hai người con. Ông đến nói với người con thứ nhất đi làm vườn nho cho Cha. Người này nói “Không”, nhưng sau đó hối hận, anh ta lại đi. Còn người con thứ hai thì ngược lại, anh ta mau mắn đáp lại: “Thưa Cha, vâng, con đi”, nhưng cuối cùng anh ta lại không đi.
Trước hết, chúng ta cùng quan sát người con thứ hai. Anh ta khi nghe cha bảo đi làm vườn nho, anh ta đã thưa “Vâng” thật mau mắn, nhưng cuối cùng anh ta chẳng làm gì. Khi đọc đến đây, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta chê trách anh vì đã nói mà không làm. Tới đây, tôi nhớ một câu chuyện vui như sau:
Tại một giáo xứ nọ, cứ mỗi năm có một chủ đề sống. Chủ đề năm ấy là “Mau mắn quảng đại chia sẻ cho người nghèo”. Vào cuối dịp tĩnh tâm đầu năm, Cha xứ muốn mỗi người nói lên quyết tâm của mình trong ngày đầu năm, Ngài hỏi:
– Ông Hai! Ông có sẵn sàng sống bác ái chia sẻ theo chủ đề của Giáo xứ không?
– Vâng! Con nhất trí ạ!
– Vậy, nếu ông có hai con bò, ông sẽ góp quỹ tặng cho người nghèo một con chứ?
Ông Hai hiên ngang trả lời trước Cha xứ và cộng đoàn:
– Đương nhiên rồi thưa Cha!
– Nếu ông có hai căn nhà, ông hứa dâng một căn nhé!
– Bảo đảm trăm phần trăm với Cha.
– Nếu ông có hai con gà, ông sẽ nhường lại cho người nghèo một con gà, phải không?
– Ồ, không được, thưa Cha.
Cha xứ ngạc nhiên hỏi:
– Sao vậy? Tôi không hiểu. Sao nãy giờ, ông luôn nói đồng ý mà bây giờ, ông lại nói không?
Ông Hai thành thực thú nhận:
– Những thứ trước, Cha hỏi, nhà con không có, còn gà, nhà con có nhiều ạ!
Thế đó, ông Hai đã sẵn sàng nói sống bác ái, nhưng với những gì không đụng chạm đến cuộc sống của ông. Còn nếu việc bác ái đó cần đến một sự hy sinh nào đó của chính bản thân, cho dù đó chỉ là một con gà, thì ông không dám. Hình ảnh người con thứ hai và ông Hai trong câu chuyện trên đây, có lẽ một cách nào đó, đây cũng là hình ảnh của tôi và quý ông bà anh chị em. Chúng ta vẫn lớn tiếng tuyên xưng rằng mình mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình trong Nhà Thờ này, nhưng khi trở về trong cuộc sống, có lẽ tôi và quý ông bà anh chị em chưa thực sự sống bác ái như Chúa muốn. Chúng ta còn quá nhiều ganh tị, hờn ghét, lười biếng, đam mê và ích kỷ. Chúng ta còn để cho lòng tự ái và những điều thấy trước mắt lôi cuốn mình. Chúng ta chưa sống đúng với lời miệng chúng ta thưa với Chúa. Hay tắt một lời chúng ta nói nhiều mà chưa sống được bao nhiêu.
Còn người con thứ nhất mặc dù đã trả lời “Không”, nhưng sau đó, anh ta đã hối hận và đã ra đi. Trong thân phận con người, với kinh nghiệm của bản thân, chắc hẳn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng, con người của chúng ta thật là yếu đuối, bất toàn. Biết bao điều lầm lỡ, yếu đuối chúng ta không muốn mà chúng ta vẫn làm (x. Rm 7, 15. 19. 24). Nhưng dù vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc chúng ta. Ngài vẫn chờ chúng ta trở về để cứu sống chúng ta, như lời Ngài nói qua miệng ngôn sứ Êdêkien mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết.”. Người con thứ nhất đã nói “Không” trước lời mời gọi của Cha, nhưng sau đó anh ta đã hối hận và ra đi làm vườn nho. Anh ta hối hận vì anh nhận ra lời từ chối của mình đã làm cho Cha buồn, đã phụ lại với lòng mong mỏi, yêu thương của Cha mình.
Như thế, bước đầu của việc trở lại đó là lòng thống hối, hay đúng hơn để có thể trở lại, chúng ta phải thật lòng khiêm tốn, nhận rằng mình là kẻ có tội, nhận rằng mình đang còn bất toàn, và thiếu thốn.
Có lẽ tới đây, lời Chúa hỏi những người đối thoại với Chúa cũng là đang hỏi tôi và quý vị: “Các ông nghĩ sao? Ai trong hai người con đã làm theo ý Cha mình?”. Và câu trả lời của chúng ta chắc hẳn là: người con thứ nhất. Vâng, đúng như vậy, ý của cha là đi làm vườn nho và anh ta đã làm đúng điều đó. Còn những điều khác không quan trọng.
Tuy nhiên, thái độ đẹp lòng Cha hơn cả có lẽ đó là thái độ của người con thứ ba. Người con mà bài Tin mừng hôm nay không nói đến, nhưng được thánh Phaolô mô tả tỉ mỉ trong thư gởi tín hữu Philipphê mà chúng ta vừa nghe. Người con đó chính là Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô nói: “Người tuy là thân phận Thiên Chúa,… Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá.”. Đó mới đúng là người con đẹp lòng Cha nhất. Người con này đã thưa: “Này con xin đến,… để thi hành ý muốn Người, lạy Thiên Chúa” (Dt 10, 7) và đã thực hiện mọi sự đúng theo ý muốn của Cha cho dù đó là chén thập giá: “Lạy Cha! Nếu Cha muốn, xin cất chén này đi khỏi con! Song đừng cho ý của con, mà là ý của Cha được thành sự!” (Lc 22, 42). Chính Chúa Cha cũng đã nhiều lần xác nhận: “Này là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ” (Mt 3, 17; x. Mt 12, 18; 17, 5).
Giờ đây, nhờ sự trợ lực của Thánh Thể, ước gì mỗi người chúng ta luôn sống theo gương mẫu của Đức Kitô như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô”. Nghĩa là chúng ta hãy can đảm thưa “Vâng” trước lời mời gọi của Chúa và sống đúng với lời thưa vâng đó. Như thế, Thánh Lễ không kết thúc ở Nhà Thờ này, nhưng sẽ được tiếp tục trong suốt cuộc đời của chúng ta, trong đời sống vâng phục, chia sẻ, bác ái hàng ngày của chúng ta. Amen. [Mục Lục]
Ngay bài đọc I trích sách Egiêkiel 18,25-28, vị tiên tri đã vạch ra hai lối sống trái ngược nhau: Trước công chính, sau lại bỏ thì người đó sẽ chết, còn người gian ác bỏ đường tội lỗi mà sống công chính thì thì họ sẽ được sống. Tư tưởng này phù hợp với bài Tin mừng, một người ban đầu không vâng phục, nhưng sau lại sống tốt, còn người kia thì ngược lại(x.Mt.21,28-32). Sau cùng Thánh Phaolô khuyên tín hữu hãy noi gương Đức Giêsu Kitô, Đấng hằng vâng phục Thiên Chúa Cha nên Người được tôn vinh.
Như thế Lời Chúa của Chúa Nhật 26 năm A này mời gọi mỗi người chúng ta, đang sống công chính hay trong tội lỗi hãy hướng về điều tốt mà thực hành, vì đây là con đường dẫn tới tương lai tốt đẹp, và Thiên Chúa chỉ đánh giá trong giây phút hiện tại mà thôi. Thậy vậy, giá trị của con người không đặt ở quá khứ tội lỗi hay đạo đức, mà hệ tại ở giây phút hiện tại người đó đã sống ra sao, công chính hay gian ác. Nó cũng không hệ tại ở những lời nói hay nói tốt, mà hệ tại ở việc làm.
Dụ ngôn hai người con cho chúng ta thấy, cả hai người đều ngôn hành bất nhất, thế nhưng phút cuối thì người con cả là người con mà chúng ta cảm thấy hài lòng. Đây là một dụ ngôn nhưng Chúa Giêsu muốn lái dụ ngôn này trở thành ngụ ngôn, để dạy cho người đương thời bài học: người con thứ nhất là những người thu thuế, gái điếm, tội lỗi, còn người con thứ hai là những người Biệt Phái. Những người thu thuế, gái điếm đã nghe lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả, quay lại đường công chính, còn những người Biệt Phái và Luật Sĩ đã tự cho mình là người công chính nên không đếm xỉa gì đến lời mời gọi của ông ” Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” và họ cũng chẳng nghe theo lới Chúa Giêsu khẩn thiết ” Hãy sám hối và tin vào Tin mừng”. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã qủa quyết ” những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ngươi”.
Nếu những người Biệt phái không sửa lại đường lối của mình thì sẽ bị khai trừ và người tội lỗi biết hóan cải thì họ sẽ chẳng những vào chỗ trong Nước Trời trước mà còn chiếm chỗ của họ nữa, vì cũng như người con thứ nhất đã từ chối thì lại ưng thuận đi làm vườn nho của cha mình, trong khi ấy người con thứ hai lại không làm như vậy mặc dù bên ngòai vâng lời. Thì cũng thế những người thu thuế, phường đĩ điếm sau khi đã không vâng lời Thiên Chúa lại tuân theo lời mời gọi củ Thánh Gioan Tẩy Giả để hóan cải, còn những nhà lãnh đạo của Do Thái thì công khai tuyên xưng vâng lời Thiên Chúa thì lại từ chối lời mời gọi mà Thiên Chúa gửi tới qua Đức Giêsu để hóan cải. Người có quá khứ tội lỗi biết sửa đổi thì vẫn tốt hơn người có quá khứ lành thánh nhưng đang theo con đường tội lỗi.
Chúng ta nên nhớ rằng con người không là một món đồ, trước thế nào thì nay vẫn vậy, trái lại con người là một tác phẩm đang đi đến hòan bị có thể đẹp hơn, nhưng cũng có thể không ra gì và người họa sĩ muốn bỏ. Thiên chúa cho chúng ta nhiều cơ hội để sửa đổi tại sao chúng ta không làm? Thiên Chúa đang chờ đợi hãy hãy làm nay khi trời còn sáng! Thánh Agustine là một mẫu gương trở lại cho chúng ta noi theo, đừng nản lòng cũng đừng chần chừ nữa.Dụ ngôn hai người con hôm nay là bài học cho chúng ta: Nếu trước đây chúng ta đã lỡ nói không với Chúa thì bây giờ chúng ta có thể nói lại ” xin vâng”, còn nếu chúng ta giống người con thưa ” vâng” thì đừng thay đổi như người con thứ hai.
Lạy Chúa xin cho chúng con mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa để hóan cải. Nhờ đó chúng con sẽ được đi vào hàng ngũ đón rước Chiên con trong ngày Chúa đến. [Mục Lục]
Xin phép bạn cho tôi được paraphrase bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay một chút.
Các bạn nghĩ sao? Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” Nó đáp: “Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai là người con ngoan của ông chủ vườn nho?
Tôi đoán thế nào bạn cũng trả lời giống như những anh biệt phái: “Dĩ nhiên đó là người con thứ nhất!”
Nếu vậy thì bạn… lầm to! Trong hai anh con trai, chẳng có anh nào ngoan cả, cả hai đều cứng đầu, bướng bỉnh và phạm tội không vâng lời cha mình.
Bạn có biết tại sao cả hai người con lại không muốn đi làm vườn nho hay không? Tôi nghĩ chắc chắn là tại vì hai anh chàng này sợ “phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt. 20:12) cho nên mới ngần ngại không muốn đi làm vườn nho như ý cha của hai anh muốn.
Bạn thân mến, khi lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, bạn và tôi, chúng mình đã trở thành con cái của Thiên Chúa, chúng mình đều được sai đi làm vườn nho cho Ngài.
Thế nhưng, bạn và tôi cũng giống như hai người con trong dụ ngôn vậy! Chúng mình đều là những đứa con cứng đầu, bướng bỉnh và hay bất tuân lệnh của Cha. Chúng mình sợ phải làm việc nặng nhọc, và sợ bị nắng nôi thiêu đốt.
Giống như hai người con trai trong dụ ngôn, bạn và tôi thường có hai thái độ trước giáo huấn của Giáo Hội:
Một là tỏ ra khó chịu, bất mãn và phản kháng, chống lại một cách công khai.
Hai là chỉ ậm ừ cho qua chuyện, ngoài mặt thì vui vẻ tỏ vẻ vâng lời nhưng trong thực tế lại dửng dưng, làm lơ, không thực hành.
- Tôi làm lơ và thậm chí bất tuân những lời dạy dỗ của Giáo Hội về những vấn đề liên quan đến luân lý và đạo đức. Ví dụ như không được chung sống với nhau trước khi làm lễ cưới, không được phép ly dị, không được xem phim có dính dáng tới…Trư Bát Giới, không được dùng những phương pháp ngừa thai nhân tạo, không được phá thai, không được thí nghiệm trên phôi thai người…
- Tôi bực bội và làm lơ đến lời mời gọi của Chúa trong những thánh lễ ngày Chúa Nhật và lễ buộc. Tôi lý luận rằng ở nhà tôi cũng tôn thờ Chúa, cũng yêu Chúa được vậy? Làm việc cả tuần lễ tôi cần phải có thời gian để relax, enjoy, nghỉ ngơi, đi shopping, đi câu cá, đi casino…
- Tôi bất mãn, phản đối và có khi nổi loạn vì Giáo Hội khẳng định rằng phụ nữ sẽ không được làm linh mục; khẳng định rằng noi gương Chúa Kitô, linh mục phải sống đời sống độc thân để có thể chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng: một là lập gia đình hai là sống độc thân chứ không có cái kiểu bắt cá hai tay, vừa muốn có vợ, lại vừa muốn thiên chức linh mục.
Bạn thân mến, bạn và tôi, chúng mình đều là những người con bướng bỉnh đã và đang bất tuân những lời dạy bảo, khuyên nhủ của Thiên Chúa qua những giáo huấn của Giáo Hội. Chúng mình hãy bắt chước anh con trai lớn: HÃY HỐI HẬN ĂN NĂN.
- Chúng mình hãy ăn năn sám hối vì những lần chúng mình bất tuân những giáo huấn của Giáo Hội bởi vì khi tôi phản đối quyền giáo huấn của Giáo Hội là khi đó tôi bất tuân Thiên Chúa “Phê-rô, con là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”(Mt. 16:18-19).
- Chúng mình hãy xin lỗi Chúa bằng cách đi xưng tội thường xuyên hơn, một tháng một lần, đừng để 6 tháng hay 1 năm mới đến hòa giải với Chúa. Mỗi lần đến xưng tội là mỗi lần bạn và tôi lãnh nhận được rất nhiều ơn thánh. Thiên Chúa vui mừng và cả triều thần trên trời cũng vui mừng vì một người tội lỗi như tôi cũng như bạn ăn năn hối lỗi, quay trở về với Ngài (Lc 15:7). [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Đối với Thiên Chúa sự trung tín, lòng chân thành và sự công chính thánh thiện không chỉ được nằm trên đầu môi chóp lưỡi mà phải được thể hiện bằng việc làm cụ thể. Tin Mừng hôm nay và hai bài đọc cho chúng ta thấy rõ ai là người thực hiện ý của cha mình và ai là người chỉ có hứa suông hứa cuội. Tin Mừng Mt 21,28 – 32 cho biết người làm vừa lòng cha là người vâng lời và thực hiện lời của cha, chứ không phải chỉ hứa làm mà không làm theo ý của cha.
Ngôn sứ Ê-dê-kiên trong đoạn 18, 25-28 viết: tư tưởng và đường lối của con người không phải là tư tưởng và đường lối của Chúa. Đường của Chúa và việc Ngài hành động hoàn toàn công minh chính trực. Ngôn sứ Ê-dê-kiên nói rằng “người con vâng lời là người con làm theo ý của cha”. Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài. Do đó, Ngài gọi con người, mời gọi chúng ta đi theo con đường của Ngài. Thiên Chúa còn mời gọi kẻ gian ác quay trở về, bỏ đường gian ác mà đi theo đường công minh chính trực thì Ngài sẽ cứu họ ban cho họ sự sống, họ không phải chết. Vị ngôn sứ còn nhấn mạnh đến trách nhiệm của mỗi người và đề cao sự hoán cải của con người. Và để làm rõ tư tưởng của ngôn sứ Ê-dê-kiên, thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philip 2, 1-11 đã kêu gọi cộng đoàn Philip hãy hợp nhất với nhau bởi vì Chúa Kitô, là Con Thiên Chúa đã hiến thân vì phần rỗi con người. Đó là tấm gương mà mỗi người Kitô hữu chúng ta phải bắt chước quên mình để phục vụ tha nhân, phục vụ anh em. Thánh Phaolô đã viết:” Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 5-8). Chính vì thế, người con vâng lời phải có thái độ khiêm tốn, quên mình, chỉ biết triệt để phục vụ và vâng lời thực thi ý của cha cho đến hy sinh chính mạng sống của mình. Bài Tin Mừng của thánh Matthêu làm nổi bật ý nghĩa bài đọc I và bài đọc II. Thánh Matthêu trình bầy dụ ngôn hai người con, Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến việc vâng phục ý của cha và thực thi ý của cha. Thánh sử cho đây là điều kiện thiết yếu để đạt được Nước Trời, có Chúa làm gia nghiệp.
Trình thuật cho hay cả hai người con đều được cha mời gọi làm việc cho cha trong vườn nho. Người cha cũng hoàn toàn bầy tỏ cho hai người con biết họ đều là con của cha. Điểm khác biệt ở đây là người con có làm hay không làm việc theo ý của người cha. Thiên Chúa luôn yêu thương mọi người, không loại trừ bất cứ ai dù họ là người Do Thái hay người ngoại. Ngài muốn cứu độ mọi người nhưng con người có được cứu hay không là do mỗi người có làm theo ý của cha hay không làm theo ý của cha. Dụ ngôn này được áp dụng cho hai hạng người Do Thái. Một hạng người cho mình là công chính, thánh thiện, đạo đức vì họ giữ tỉ mỉ mọi lề luật như may dài tua áo, tay đeo thẻ kinh, đi đâu cũng muốn cho người khác gọi mình là thầy, là bậc thông thái vv… Đó là người Pharisiêu, Kinh sư, các thầy thông luật, biệt phái. Hạng người khác bị loại vào hạng thu thuế, tội lỗi, nghèo hèn. Dụ ngôn này người con thứ nhất được coi như hạng thu thuế, tội lỗi, gái điếm. Họ bị đẩy ra khỏi lề xã hội, bị khinh miệt. Tuy nhiên, họ đã thành tâm thống hối, quay trở về với Thiên Chúa. Chính vì vậy, Chúa đã nói một câu làm những người Pharisiêu, biệt phái, thông luật cảm thấy trơ trẽn, kinh ngạc: “Tôi bảo thật các ông; những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). Chúa Giêsu ám chỉ người con thứ hai là các thượng tế và kỳ mục. Họ tự cao, tự đại cho mình là công chính nên họ đã không được vào Nước Trời. Tệ hơn nữa, họ không tin Đức Kitô là Con của Thiên Chúa được sai đến trần gian để cứu độ trần gian. Như thế, Nước Thiên Chúa thuộc về những người có lòng tin. Tin vào Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã được Thiên Chúa cha sai tới trần gian để cứu độ gian trần.
Chúa Giêsu đã làm gương cho con người, cho loài người, cho mỗi người. Người không bao giờ rao giảng điều gì mà Người đã không thực hiện trước. Lời của Người là lời hằng sống. Lời nói và việc làm của Người luôn đi đôi với nhau. Giữa cuộc sống của Chúa và lời nói của Người không bao giờ có khoảng cách. Còn các kinh sư, biệt phái, thượng tế, họ nói nhiều mà không làm. Ngôn hành bất nhất. Do đó, Chúa nói với các môn đệ và chúng ta: “Ngôn hành phải đi đôi với nhau”. Nói mà không làm giống như đứa con thứ hai trong dụ ngôn sẽ bị Chúa loại trừ. Trong đời sống thường ngày, chúng ta hãy bắt chước Chúa: “… Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5, 17) hoặc nói như thánh Giacôbê: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 26). Chúa Giêsu luôn thi hành thánh ý Cha: “Lạy Cha nếu được thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con mà theo ý của Cha mà thôi”. Chúa luôn nói: “Không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời đâu, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Thầy” (Mt 7, 21).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn hiểu rằng lắng nghe lời của Chúa không chưa đủ, mà còn phải làm theo ý của Chúa. Amen. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Người đời thường đàm tiếu với nhau: “Lời nói phải đi đôi với việc làm”, mới là người tốt, còn ngôn hành bất nhất, người đó không đáng tin tưởng. Tin Mừng Mt 21, 29-32 nói đến hình ảnh hai người con, hai cách nói và hai hành động hoàn toàn khác nhau. Chúa là Đàng, là Sự thật và là Sự sống. Ngài luôn luôn nói và hành động. Do đó, chúng ta là con của Ngài, chúng ta cũng phải nói và làm như Ngài…
Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn “Người cha sai con đi làm vườn nho”. Người con thứ hai nghe lời cha, nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Người con thứ nhất, từ chối, nhưng sau suy nghĩ, hối hận, rồi đi làm. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh và ám chỉ người con thứ hai là những Biệt phái, Kinh sư, thượng tế, Kỳ mục là những hạng người miệng thì thơn thớt nói cười, miệng thì ngon ngọt truyền lệnh và cho rằng mình đạo đức,thánh thiện, giữ luật tỉ mỉ, nhưng kỳ thực họ chỉ hô hào to miệng, họ chỉ nói trên môi miệng, nhưng kỳ thực họ không hề giữ một luật lệ nào, trái lại họ chất trên vai người khác các gánh nặng, còn họ thì không hề đụng tay lay thử xem gánh có nặng hay nhẹ. Điều đáng kinh tởm là họ tự kiêu, tự đại, tự mãn không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến, Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai, là Đấng cứu thế.
Còn người thứ nhất là những người tội lỗi, yếu hèn, những kẻ thấp cổ bé họng, những cô gái điếm, những người thu thuế. Những người này bị nhóm Pharisêu, Kinh sư, Thượng tế, Kỳ mục và xã hội lúc đó ghép vào hạng tội lỗi công khai và bị họ loại trừ ra khỏi các hội đường, và xếp bên lề xã hội. Tuy nhiên, những người này đã biết thành tâm sám hối, đã biết cải tà quy chánh, đã biết hối cải, đổi mới, đã tin vào Chúa Giêsu là Vị cứu tinh, là Đấng cứu độ, là khiên mộc, thuẫn đỡ cho họ. Nên, họ đã được Chúa yêu thương, tha thứ và hứa ban Nước trời cho họ (Mt 21, 31).
Cuộc đời là một cuộc hành trình đức tin. Sở dĩ, Nước trời được hứa ban cho các người bé mọn, những người có lòng tin bởi vì họ tin vào Chúa Giêsu, tin Ngài là Đấng Thiên sai, là Đấng cứu thế. Đức tin của những người tin vào Chúa được thể hiện qua đức bác ái, qua những việc làm tỏa sáng, qua việc lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong cuộc đời mình. Những người này đã sống các Mối Phúc, đã leo lên, vượt qua từng nấc thang của các Mối Phúc. Họ không chỉ nói ngoài miệng, nhưng lời nói của họ đi đôi với việc làm. Thánh Giacôbê quả thực có lý khi viết:” Đức tin không có việc làm là đức tin chết ” (Gc 2, 26). Chân Phước Gioan Phaolô đã nói: ” Ngày nay người ta tin những chứng nhân hơn những người chỉ nói “. Gương đời sống đức tin sống động có giá trị hơn nhiều bài thuyết giảng trơn tru nhưng chỉ là lý thuyết suông. Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy bao giờ Ngài cũng hành động đi đôi với lời nói. Ngài giảng dạy, chữa lành mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền, Ngài thực tế, nuôi sống dân chúng theo Ngài nghe Ngài giảng dạy và họ đang khát, đang đói. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ và mỗi người chúng ta hãy tránh xa những người Pharisêu, Biệt phái giả hình. Họ nói mà không làm. Họ hô mà không thực hiện.
Cuộc đời của người môn đệ Chúa là chết đi cho tội và sống lại trong đời sống mới. Qua phép rửa, người Kitô hữu đã thật sự chết đi cho tội và đã thật sự sống lại với Chúa. Qua Bí tích Thánh Thể, người Kitô hữu tuyên xưng: ” Chúa Kitô đã chết, đã sống lại và sẽ tới với nhân loại một lần nữa vào ngày chung thẩm “. Nhờ làm con Chúa qua Bí tích rửa tội và được nuôi sống bằng chính Mình Máu của Chúa, người Kitô hữu luôn có sức mạnh để vượt thắng tội lỗi và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, vững bước trên cuộc hành trình đức tin tiến về Quê trời.
Chúa đã luôn cảnh tỉnh mọi người rằng: ” Mẹ và anh em của Ngài là những người biết lắng nghe và tuân giữ Lời của Ngài” và Ngài cũng cảnh cáo: ” Không mọi kẻ nói với Ta; Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Ta ” (Mt 7, 21).
Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả. Xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban mà chúng con đang hết lòng theo đuổi “. Amen. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa nhật 26 thường niên, năm A). [Mục Lục]