Chúa nhật III mùa Vọng, năm B: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa


CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG, NĂM B
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Is 61, 1-2a.10-11; 1Tx 5,16-24; Ga 1, 6-8.19-28

MỤC LỤC

  1. Làm chứng như Gioan – Huệ Minh
  2. Ánh sáng Tin Mừng – ViKiNi
  3. Đức tính ngôn sứ hôm nay
  4. Có người được Chúa sai đến: ông đến để làm chứng
  5. Người dọn đường
  6. Làm chứng
  7. Gioan Tiền Hô
  8. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
  9. Có một vị ở giữa các ông
  10. Hãy ăn năn sám hối
  11. Vui mừng và hy vọng
  12. Đức Kitô: Ánh sáng mang ơn cứu độ
  13. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
  14. Sống chứng nhân như Gioan Tiền Hô
  15. “Hãy vui lên” – Barbara E. Reid
  16. Làm chứng về ánh sáng
  17. Hãy vui lên – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
  18. Anh em hãy vui lên
  19. Anh em hãy vui lên – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  20. Làm chứng cho Đức Kitô – Thiên Phúc
  21. Sự sáng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  22. Làm chứng về ánh sáng
  23. Làm chứng về ánh sáng
  24. Đấng Messia – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
  25. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng
  26. Con tim rung nhịp với chân lý
  27. Nhân chứng khiêm nhường – Trầm Thiên Thu
  28. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
  29. Niềm vui đích thực
  30. Làm chứng
  31. Làm chứng cho ánh sáng
  32. Tiếng kêu nơi sa mạc – Lm. Minh Vận, CRM
  33. Có một người ở giữa anh em – An Phong
  34. Tìm gặp Chúa trong vị thế của mình
  35. Chúa nhật hồng – Niềm vui cứu độ
  36. Niềm vui đang đến – Lm Lu-y Nguyễn Quang Vinh
  37. Tin mừng giải phóng – Như Hạ, OP
  38. Đơn giản là như thế – G. Nguyễn Cao Luật
  39. Làm chứng
  40. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta – Guy Morin
  41. Khiêm nhường
  42. Hãy vui lên
  43. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
  44. Chứng nhân trung thực.
  45. Sống niềm vui trong ân tình Chúa
  46. Người làm chứng
  47. Một nhân chứng dấn thân
  48. Tiếng kêu trong hoang địa
  49. Kitô hữu, bạn là ai?
  50. Niềm vui thật
  51. Niềm Vui – ĐGM. Nguyễn Sơn Lâm
  52. Làm chứng cho sự thật
  53. Học sống trung thực với Gioan Tẩy Giả
  54. Trút bỏ hư danh để được rót đầy ân sủng
  55. Suy niệm của Anmai, CSsR
  56. Nghề của tôi
  57. Gioan
  58. Hãy vui lên
  59. Những lời chứng
  60. Ẩn mặt
  61. Sứ giả tin mừng
  62. Chứng nhân
  63. Vui mừng
  64. Vui mừng
  65. Hãy sửa đường… – Lm. Nguyễn Minh Hùng
  66. Lời chứng của ông Gioan – JKN
  67. Gặp Chúa ở đâu?
  68. Tiếng kêu nơi sa mạc
  69. Dấu chỉ Đấng Messia – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
  70. Để con nên hình bóng Ngài

1. Làm chứng như Gioan – Huệ Minh

Tin mừng Ga 1: 6-8.19-28: Hôm nay, chúng ta thấy Gioan đã giới thiệu mình như thế này: “Tôi làm phép rửa trong nước, nhưng giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi nhưng Đấng ấy đã có trước tôi, và tôi không đánh cởi dây giày cho Người.”…

***

Kính thưa Cộng đoàn,

Hôm nay, chúng ta đã đi quá nửa mùa vọng rồi!

Hôm nay, chúng ta thấy Gioan đã giới thiệu mình như thế này: “Tôi làm phép rửa trong nước, nhưng giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi nhưng Đấng ấy đã có trước tôi, và tôi không đánh cởi dây giày cho Người.”.

Thái độ của Gioan rất khẳng khái, về Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng hôm nay, Gioan giới thiệu Chúa Giêsu đã ở giữa anh em rồi. Nhưng mà anh em không biết! Và rồi Gioan đã làm chứng cho sự hiện diện của Chúa Giêsu: không bằng lời nói mà bằng chính cả cuộc đời của mình. Bằng chứng, chúng ta thấy Gioan, vì lẽ phải, vì sự thật, vì sự công chính, đã chấp nhận mất mạng sống mình. Và đây là điều mà chúng ta quan tâm.

Chúng ta quan tâm vì sao? Vì còn chưa đầy hai tuần nữa chúng ta bước vào đại lễ Chúa Giáng Sinh. Chúng ta mừng một biến cố, một kỷ niệm không phải là chỉ để mừng, nhưng chúng ta đặt lại vấn đề, chúng ta nhìn lại cuộc đời của chúng ta.

Chúa Giêsu đã giáng sinh năm nay là năm thứ mấy?

Năm thứ 2020 rồi, nhưng mà liệu rằng mỗi người chúng ta là người Kitô Hữu đó! Nhưng chúng ta có truyền cho mọi người biết sự hiện diện của Chúa, và Chúa đã đến trong trần gian này hay không?

Còn nhớ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi mở cửa Thánh bước vào Thiên niên kỷ thứ ba, ngài nói: “Đây là thiên niên Kỷ của truyền giáo” .

Đặc biệt tại Philippines, tại Đại Hàn, tại Việt Nam. Ở Philippines thì 80% là người Công giáo, rồi Đại Hàn thì có 8% và Việt Nam cũng có 8% mà thôi! Còn các nước khác thì con số và tỷ lệ còn thấp hơn nữa, có khi chỉ là 0,5 hoặc là 1 % thôi.

Và mỗi người Kitô hữu của chúng ta có trách nhiệm làm chứng cho người khác biết rằng: Chúa chính là Đấng phải đến trong trần gian, Chúa mang niềm vui và sự sống cho mọi người.

Và thử hỏi coi, đời của chúng ta, chúng ta đã làm chứng cho Chúa như thế nào?

Ngày hôm nay, phải nói rằng vẫn còn đó lấp lánh những khuôn mặt, những ánh sáng của những bước chân truyền giáo.

Có dịp đi qua thăm nước Lào. Phải nói rằng tổng số linh mục của nước bạn chỉ ở con số 29 thôi. Và một cái mảnh đất còn đó biết bao nhiêu là lúa cần thợ gặt.

Khi đi qua thăm, thấy những anh em trẻ thấy tội nghiệp quá! Có mấy cha bạn nhỏ hơn lớp, thấy mấy anh em hy sinh quá!

Chân ướt, chân ráo đi qua Lào với hai bàn tay trắng. Rồi từ từ gầy dựng lên cái nhà tiền chế, rồi quy tụ các em. Và phải nói rằng: đặc biệt nhất là cái ngôn ngữ và cái thức ăn. Cái ngôn ngữ Lào, cái chữ nó viết rằn ri. Cái thức ăn thật sự, như người dân tộc thiểu số mình. Phải nói rằng rất khó ăn! Và các cha trẻ đặc biệt các thầy trẻ đã hội nhập gần như một cách nhanh chóng, để mà sống ở giữa họ. Chẳng làm gì cả, như làm rẫy làm ruộng như họ và sống đồng thân, đồng phận với họ.

Có một lần, Cha chở đi vào trong các làng. Từ nhà thờ Tòa Giám mục Pakse mà đi tới cái làng đó thì mất khoảng chừng 80 cây số 60 cây số là đường nhựa còn 20 cây số là đường ổ voi. Đi từ nhà thờ chính tòa, đi tới cái ngã ba vào chỉ một tiếng đồng hồ, nhưng mà từ ngã ba đi vào với 20 cây số! Xe chạy hơn một tiếng đồng hồ!

Quá khó khăn và quá vất vả! nhưng các cha trẻ vẫn kiên trì đi vào đó!

Có một là điều lạ là: ở bên Lào không phân biệt được cái ngày nào Chúa Nhật Phục Sinh cả! Bởi vì có những làng không bao giờ có linh mục tới. Nên các cha nói rằng: Tụi em ở bên đây, Chúa Nhật Phục Sinh cũng là Chúa Nhật Phục Sinh! CHÚA nhật 2 Phục Sinh cũng là Chúa nhật Phục Sinh! Chúa nhật 3 Phục sinh cũng là Chúa nhật Phục Sinh! CHÚA nhật 4 Phục sinh cũng là Chúa nhật Phục Sinh!

Rảnh là cứ xách xe đi vào làng này làng kia, nơi mà các vị truyền giáo đã đặc bước chân đến. Và bây giờ những linh mục trẻ cũng bước chân đến.

Và đặc biệt có một ông thầy rất là hay! Thầy đang học ở Đại Chủng Viện ở Lào, nhưng mà rồi thầy lại đi truyền giáo.

Và người Lào đó! Thầy chỉ đi đến dạy học và chăm sóc sức khỏe cho họ thôi! Sống với người Lào và nghe đâu thầy bị bắt, mà một lần chuộc như vậy là tính ra tiền Việt Nam là 130 triệu – 140 triệu. Nhưng mà thầy khẳng định rằng là dù cho bị bắt thầy vẫn lên đường truyền giáo.

Phải nói rằng, đó là gương sáng của sự hy sinh chính mình, để mà giới thiệu Chúa cho người khác. Và như thế, cuộc đời của mỗi người chúng ta, làm sao cuộc đời của chúng ta, chúng ta phải giới thiệu CHÚA như những người truyền giáo đó!

Như Thánh Gioan nói: “Có Đấng ở giữa anh em, mà anh em không nhận biết Ngài. Và chúng ta sẽ cãi rằng: chúng con nhận biết mà! Bởi vì chúng ta là những người có đạo mà.

Nhưng mà xin thưa rằng: cái biết đó nó có hai loại!

Là cái biết của tri thức và cái biết của cảm nghiệm.

Cái biết của tình thương và cái biết của chia sẻ.

Và cái biết của chỉ thấy trên giấy tờ.

Chúng ta biết Chúa đấy chứ! Qua sách vở, qua giáo lý, qua Thánh Kinh, qua các bài giảng. Và được học nhiều nghe nhiều lắm chứ!

Nhưng mà cái cảm nghiệm cái tình yêu thương Chúa trong cuộc đời. Và chúng ta có cái rung động của người nghèo hay không?

Chúng ta vẫn xem tivi thấy lũ này lụt kia! và bao nhiêu người chết đó! Nhưng liệu rằng: Trái tim chúng ta có rung động trước những cái đói khổ, những cái vất vả của những người nghèo khổ ở vùng sâu vùng xa hay không?

Có khi nào chúng tôi cảm thấy: giờ này trời mưa nhưng mình được may mắn, mình được ở trong một cái nhà bốn bức tường, mưa cũng không bao giờ hắt tới, bão cũng không bao giờ đụng tới.

Chúng ta có cảm nghiệm được chúng ta hạnh phúc hơn những người khác!

Khi đó là cái biết của cảm nghiệm và chính từ cái biết cảm đó, chúng ta chia sẻ người với người nghèo.

Cũng đâu đó, có những bạn sinh viên rất tuyệt vời! Tới mùa hè lại cứ khăn gói quả mướp, chạy đi lên vùng Tây Nguyên. Đi vào những cái làng dân tộc, để mà chỉ dạy học, chỉ ở với các em.

Người ta nói rằng: “vô tri thì bất mộ”. Cần để phải học để mà biết Chúa.” Nhưng cái biết đó chỉ là một cái bước đầu thôi!

Chúa Giêsu cần sinh ra trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Và chúng ta muốn giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác, thì chúng ta phải để Chúa Giêsu tái sinh lại trong tâm hồn và cuộc sống của chúng ta.

Nói biết CHÚA thì dễ lắm! Và nói về Chúa thì dễ lắm! Và nói với Chúa thì dễ lắm!

Nhưng vấn đề chính là trong cuộc sống, mình mang Chúa đến cho anh chị em đồng loại của mình như thế nào? Đó mới là chuyện quan trọng.

Để chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Để chúng ta xin Chúa thêm ơn cho chúng ta. Để chúng ta mở lòng ra, chúng ta đón Chúa đến thật sâu: trong lòng, trong trí, và trong cung cách sống của chúng ta. Để chúng ta mang lấy cái thao thức, mang lấy cái tâm thức Thương Xót, mang lấy cái cảm mến với người nghèo, những người tất bạt của Chúa Giêsu.

Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, để Chúa đong đầy chúng ta, bằng cả cuộc đời có Chúa. Và để rồi từ đó, chúng ta mới giới thiệu CHÚA cho người khác như Thánh Gioan Tẩy Giả.

Chắc có lẽ, Chúa không bắt buộc chúng ta, phải bỏ mình, phải tử đạo, chấp nhận chết như Gioan Tẩy Giả đâu!

Nhưng Chúa mời gọi mỗi người chúng ta, qua cung cách sống của mình: Chúng ta mang lấy hình ảnh, mang lấy tâm tư, mang lấy cảm nghĩ, mang lấy cung lòng, mang lấy đôi tay, mang lấy bàn chân của Chúa Giêsu, để chúng ta đến chia sẻ với những người nghèo với những người tất bạt.

Cách đây không lâu có một cô bé quen. Cô hỏi: cha ơi! ở dưới xứ cha, cha có tổ chức thiếu nhi không?

Thì con mới nói thật sự ra trong lòng thì, cũng chẳng nghĩ gì cả, nếu ai cho thì làm thôi! Và rồi cô bé hứa rằng cô bé sẽ chia sẻ một chút gì đó cho các em nghèo. Phải nói rằng với đồng bạc, lương nhân viên bình thường thôi, nhân viên văn phòng nhưng mà phải nói rằng cô đã tiết kiệm một cái phần nhỏ để chia sẻ cho người nghèo.

Phải chăng đó là những con người đã cảm nhận được một Chúa Giêsu trong đời mình, và mang Chúa Giêsu cho người khác, giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác.

Chắc có lẽ, mỗi người chúng ta đối diện trước mặt Chúa. Chúng ta nói: con nghèo lắm, Chúa ơi! Con không có gì cả. Nhưng xin thưa rằng: con có tấm lòng.

Việc quan trọng rằng, chúng ta có can đảm chia sẻ cho người khác hay không mà thôi!

Khi chúng ta khép lòng lại, thì Chúa Giêsu lại chết trong cuộc đời của chúng ta.

Khi chúng ta mở lòng ra, thì Chúa Giêsu một lần nữa lại tái sinh trong cuộc đời của ta.

Và khi ta sống như thế! Mọi người nhìn vào ta, thấy có một Chúa Giêsu hiện diện và sống trong cuộc đời của chúng ta.

Ước gì ngày hôm nay, ngày chuẩn bị bước vào những ngày cuối để đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh. Xin cho chúng ta thật sự mở lòng ra. Đặc biệt chúng ta làm chứng, một cách sâu lắng hơn như Gioan Tẩy giả. Amen. [Mục Lục]

2. Ánh sáng Tin Mừng – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Cách nay hơn 25 thế kỷ, hiền triết Platon, nước Hy lạp, thấy một thứ ánh sáng lạ lóe chiếu vào hầm tối. Mọi người trong hầm bừng tỉnh, niềm vui chan chứa. Họ đã thấy những tia sáng hy vọng tuyệt vời từ nơi cao thăm thẳm tới với họ. Họ tin chắc ánh sáng đó có ngày sẽ giải thoát họ khỏi hầm tối, cho họ tới nơi rực rỡ huy hoàng.

Gần đồng thời với Platon, sứ ngôn Isaia, nước Do thái, thấy một thứ ánh sáng kỳ diệu hơn nhiều: Ánh sáng thần trí Chúa phóng thích những tù nhân, ân xá cho kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân của Chúa. Họ vui mừng hớn hở được hưởng thời đại đầy ánh sáng cứu độ. Họ như được mặc áo choàng công chính trang điểm lộng lẫy như cô dâu chú rể. Họ được sống trong vườn hoa tươi mát đang đâm chồi nẩy lộc vinh quang, được sống trong thời đại tình thương Thiên Chúa toàn năng, chí thánh, chí tôn. Linh hồn họ hớn hở reo mừng ngợi khen Thiên Chúa đến muôn đời (Is. 61, 1-2. 10-11 và Đáp ca).

Gần sáu thế kỷ, Gioan đã dâng trót cuộc đời làm chứng về ánh sáng đó để mọi người tin.

Nhưng bóng tối của đế quốc Rôma, bóng tối của những đảng phái Do thái đang đe dọa Gioan. Gioan, một con người cô thân, cô thế, đang dấn thân vào bóng tối, để loan báo ánh sáng Tin mừng cho toàn dân chuẩn bị đón mừng ánh sáng. Trước con người kỳ lạ đang hoạt động trong hoang địa, đang làm nghi lễ ngoại lệ, đang loan báo một Đấng cứu tinh đến sau ông, quyền phép lạ lùng, chính ông không đáng cởi quai dép cho Người, bao nhiêu dân chúng đang tuốn đến nghe ông, họ đang lội xuống sông xin ông thanh tẩy, đến với Đấng họ hằng mong đợi. Cấp lãnh đạo Do thái đang hưởng một cuộc đời quyền quý, họ muốn yên thân, nhưng thấy Gioan hô hào dân chúng, họ lo cho địa vị của mình. Họ sai các tư tế và các Lêvi đến điều tra xem xét Gioan là ai. Họ sợ ông là Êlia sống lại, người đã thiêu sống hơn năm trăm tư tế của hoàng hậu Giêzabel thời vua Acab (A.Kap). Họ sợ ông là một ngôn sứ, như bao nhiêu ngôn sứ của Thiên Chúa, đến đe dọa họ, đưa những tin làm đảo lộn thời thế, làm mất địa vị quyền lợi của họ. Họ phải đề phòng, kiểm soát, canh chừng mọi bất trắc xảy ra. Họ đã biết có nhiều người được dân coi là Đấng Cứu Thế, nổi lên chống ngoại bang, làm cho bao nhiêu người phải chết lây, nhất là tầng lớp lãnh đạo tôn giáo lại càng sợ đế quốc tiêu diệt. Lịch sử thời đó cho biết: Sau cái chết của Hêrôđê đại đế, ở Pêrê có ông Simon nổi dậy đốt lâu đài của vua ở Giêricô, tự xưng làm vua. Rồi ở Giuđa, một mục tử là Ath-Ron đứng dậy lập chính phủ. Sau đó, ở Galilê, một người tên là Giuđa khởi nghĩa, chiếm kho vũ khí ở Sêp-pho-ri (Vie de Jesus Christ – Ricciotti p. 35-45). Họ cũng sợ Gioan nổi lên như thế. Họ muốn tìm cách dẹp ông đi, khỏi bị vạ lây. Họ là bóng tối, tham quyền cố vị. Họ không thể thấy ánh sáng. Tác giả Tin mừng thứ bốn đã báo trước: “Ánh sáng đến trong tối tăm, mà tối tăm không tiếp nhận ánh sáng. Họ muốn triệt hạ ánh sáng, nhưng ánh sáng vẫn thấu triệt tối tăm” (Ga. 1, 5).

Ánh sáng, mà Gioan làm chứng, đã lan tỏa trên giáo đoàn Thessalonica. Tuy mới được giải phóng khỏi tối tăm lầm lạc, giáo đoàn đã bắt đầu đâm chồi nẩy lộc, một giáo đoàn trẻ đang nở rộ hoa công chính. Họ đã được sống hiệp thông với Đức Giêsu Kitô là nguồn ánh sáng. Thần khí ánh sáng đang bừng lên trong họ. Không thử thách gay go nào dập tắt được. Họ vui mừng luôn mãi, họ cầu nguyện không ngừng. Họ tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh vui buồn, sướng khổ. Thiên Chúa là nguồn bình an, thánh hóa toàn diện con người họ để thần khí, tâm hồn và thân xác họ được giữ gìn toàn vẹn (1Thes. 5,16-24).

Xin cho ánh sáng muôn thuở này chiếu tỏa trên khắp chúng ta. Chúng ta hãy vui mừng tiếp nhận ánh sáng, hãy thanh tẩy tâm hồn sạch mọi ham hố bất chính, sạch mọi bóng tối gian tà. “Hãy cân nhắc mọi sự. Điều gì tốt thì giữ lấy, còn tất cả những gì xấu thì tránh xa”. “Hãy không ngừng cầu nguyện. Hãy tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh để chúng ta được hiệp thông với Đức Giêsu Kitô” trong ánh sáng cứu độ. Linh hồn, thần trí và thân xác chúng ta sẽ được hớn hở reo mừng trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là ánh sáng muôn dân, xin làm cho chúng con trở nên ánh sáng thế gian, soi sáng cho mọi hầm tối, làm cho hầm tối chan chứa niềm vui của thời đại hồng ân Thiên Chúa. Amen.[Mục Lục]

3. Đức tính ngôn sứ hôm nay

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Thánh Kinh cho biết ông Gio-an Tẩy Giả là vị ngôn sứ sau cùng của thời Cựu Ước tiên báo Đấng Cứu Thế đến. Ông cũng là người mở đầu cho một thời đại ngôn sứ mới trong Tân Ước, thời đại của những người biết Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người và được mời gọi làm chứng cho Chúa Giê-su qua những lời họ loan báo và nhất là chính cuộc sống của họ. Vì vậy, hôm nay Lời Chúa nêu hai đức tính của ngôn sứ Gio-an Tẩy giả đồng thời mời gọi chúng ta những ngôn sứ đương thời hãy luôn có hai nhân đức này: khiêm nhường và can đảm nói và sống cho sự thật.

Thứ nhất nhân đức khiêm nhường, Gioan Tẩy Giả không bao giờ tìm cách đề cao mình, rao giảng về mình nhưng mọi hành vi, mọi cử chỉ và mọi lời nói của ngài đều qui về Đức Giêsu. Cụ thể, Tin Mừng kể Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng Thánh nhân xác quyết: “Tôi đây làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Thánh Gioan tẩy giả được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài nhưng Ngài có lòng khiêm nhường tột độ, để cho mình nhỏ đi và để Chúa lớn lên.

Thứ hai nhân đức can đảm, Thánh Gioan tẩy giả đã can đảm nói và sống cho sự thật dù phải thiệt thân. Thánh Mác-cô kể rằng Vua Hêrôđê lấy vợ của anh mình, thần dân thiên hạ ai cũng biết điều đó sai, luật không cho phép nhưng không ông thần này hay dân thường nào dám nói với vua không được lấy, nhưng Gioan tẩy giả đã nói. Thế là Bà Hêrôđia vợ của anh vua nay đã lấy vua làm chồng căm tức muốn giết ông Gioan tẩy giả nhưng bà không có quyền. Vua Hêrôđê biết Gioan là người công chính thánh thiện nên sợ ông và che chở cho ông. Nhưng vì điệu nhảy của con gái bà Hêrôđia, nhà vua trót thề sẽ ban cho cô tất cả cái gì cô xin. Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tẩy giả tới (Mc 6,17-28).

Giáo lý Hội Thánh dạy rằng nhờ bí tích Rửa tội, mọi người được tham dự vào chức tư tế (linh mục cộng đồng), sứ vụ ngôn sứ và vương đế của Chúa Giêsu. Như vậy, Thiên Chúa kêu gọi tất cả mọi người làm ngôn sứ không phân biệt phái tính, tầng lớp, đẳng cấp xã hội, giàu hay nghèo, lành mạnh hay khuyết tật. Điều đáng chú ý rằng ngôn sứ phải là người cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa và được chiếm hữu bởi Thần Khí và Lời Chúa qua nhiều cách thế khác nhau. Vâng, chính Thánh Phaolô nói: “Chính Thiên Chúa đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Ki-tô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4,11-13).

Cho nên, ngôn sứ là người được Thiên Chúa thánh hóa và sai đi nhiều hoàn cảnh, địa lý, xã hội, lịch sử, thời gian và thính giả khác nhau. Vì thế, khi đề cập đến hai đức tính này của Gio-an Tẩy Giả trong Mùa Vọng, Hội Thánh nhắc nhở rằng chúng ta là những ngôn sứ của thời đại mới, những người tiếp tục loan báo Chúa Giê-su đến với người chưa biết Chúa, thì chính cuộc sống, lời nói và hành động của chúng ta phải làm chứng cho Chúa Giê-su trong thế giới hôm nay. Vì vậy, chúng ta phải khiêm nhường trước hết. Bởi vì tình thương của Kitô giáo được xây dựng trên nền tảng sự khiêm nhường. Thánh Tôma Aquinô nói: “Kiêu ngạo là thích được đề cao hơn người khác, và kiêu ngạo là khoe khoang, là cay đắng, là tàn nhẫn, là chỉ nghĩ đến bản thân, cho nên kiêu ngạo khiến ta đố kỵ nhau. Bởi vậy, muốn yêu thương phải bắt đầu để cho tâm hồn mình thấm nhuần sự khiêm nhường và hiền lành”. Vì vậy, có khiêm nhường, chúng ta mới nhận được tình yêu của Chúa Kitô, tình yêu ấy thúc bách chúng ta phục vụ yêu thương, tha thứ cho nhau, đồng thời hăng hái nói về Chúa cho mọi người. Cụ thể, Thánh Nữ Têrêxa Calcutta, nhìn bề ngoài của Mẹ Têrêsa với hình dạng nhỏ bé, da mặt nhăn nheo, lưng hơi gù với vẻ già nua và có đôi bàn tay xương xẩu gầy guộc, thế nhưng khi mọi người khi gặp mặt tiếp xúc đều thấy con người Mẹ có đời sống bình dị, dễ thương với đôi mắt sáng ngời và nụ cười trên môi rạng rỡ niềm vui, lời nói đầy thuyết phục, kèm theo một sự khiêm tốn, hiền lành chân thật. Chính Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton sau khi tìm hiểu về cuộc đời Mẹ đã phải thốt lên: “Tôi không đáng xách dép cho nữ tu Têrêsa”. Bởi vậy chính đời sống Thánh nữ đã thu hút biết bao nhiều người biết Chúa và trở về với Chúa.

Cuối cùng, can đảm là đức tính luân lý giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm sống ngay chính thật thà giữa những bao điều dối trá trong đời. Nhờ can đảm, ta thắng được sợ hãi, đương đầu với thử thách và bách hại, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chính nghĩa cho “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi” (Tv 118,14). Vì vậy, trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nhắc bảo chúng ta rằng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su. Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1Tx 5,16-22). Vì vậy, trong tông thư gửi tất cả Các người Tận hiến nhân dịp Năm Đời sống thánh hiến, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng ngôn sứ được Chúa ban khả năng hiểu biết Thiên Chúa và hiểu biết những người anh chị em của mình. Cho nên, những ngôn sứ chứng tá cho Đức Giêsu sống ở thế giới này phải can đảm phân định và tố giác tội ác và những bất công trong xã hội đồng thời luôn đứng về phía những người nghèo và những người cô thân cô thế, bởi vì người ngôn sứ biết rằng chính Thiên Chúa đứng về phía họ (x.Số 4 phần II).

Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết noi gương Thánh Gioan tẩy giả là phải trở nên những người đi trước, dọn đường Chúa đến trong cuộc đời mình, cũng như người khác nhờ sống khiêm và can đảm. Amen.[Mục Lục]

4. Có người được Chúa sai đến: ông đến để làm chứng

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

Vào cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, tức quãng năm 1959, ai cũng công nhận câu gán ghép của Đức Athenagoras, Thượng Phụ chính thống giáo Constantinople là chí lý, là rất đạt, là cực kỳ hay, khi vị thượng phụ này gán một câu Phúc Âm thời xưa để ghép cho một người thời nay, là vị giáo hoàng của Giáo Hội Công giáo Roma: “Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan”: Đây là câu Phúc âm chúng ta vừa nghe, được Đức Thượng Phụ Athenagoras Đông Phương ghép cho Đức Gioan 23, một Giáo Hoàng Roma Tây Phương.

Câu ghép này rất ý vị vì Đức Roncalli khi lên ngôi Giáo hoàng, lấy hiệu là Gioan (chứ nếu lấy Piô, Phaolô, Benedicto, thì sao gán ghép được); và câu ghép này thật chí lý vì quả Đức Gioan 23, nay đã được phong thánh, là người “được Chúa sai đến” thật, một vị đến làm đảo lộn, canh tân lại bộ mặt của Hội thánh, để Hội Thánh không tì ố, không vết nhăn, mặc dầu đức Gioan lúc đó đã ngót nghét 80 tuổi, khuôn mặt đã nhiều nếp gấp, khoé mắt nhiều dấu chân chim, nhưng đúng là người được Chúa sai đến, đến để làm chứng cho con người thế kỷ 20 và 21 này.

Hôm nay ta chỉ mở đề với thánh Gioan 23 để vào đề với thánh Gioan Tẩy giả. Đề tài bài suy niệm Tin Mừng hôm nay là: Gioan, Kẻ Làm Chứng. “Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng.”

Vậy làm chứng là gì và làm chứng cái gì? Đó là 2 điểm ta sẽ trả lời.

  1. Làm chứng là gì?

– Từ Điển tiếng Việt cho ta biết: Làm chứng là đứng ra xác nhận những gì mình đã thấy, đã nghe… Td: Làm chứng một tai nạn giao thông ; hai người làm chứng trong Hôn phối nghe và thấy rằng đôi bạn đã bày tỏ sự ưng thuận.

Người làm chứng thì không phải là đương sự. Như hai người làm chứng trong Hôn phối phải khác hai người ưng thuận lấy nhau. Ra toà, người làm chứng không thể là bị cáo hay nguyên đơn. Cũng vậy, Gioan được Chúa sai đến để làm chứng, thì cũng là để làm chứng về một điều gì, về một ai đó chứ không phải để làm chứng chính mình. Nếu có phải nói về mình là cũng chỉ nhằm làm chứng về người kia, như Gioan nói thẳng: tôi không phải là Êlia, không phải Kitô, không phải Ngôn sứ người ta trông đợi… “Tôi chỉ là tiếng kêu…” Gioan nói vậy để làm chứng cho những người đến dò hỏi Gioan, là hãy đi tìm Đấng Kitô nơi người khác đi.

– Nghĩa thứ hai của làm chứng mới đáng giá. Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng. Phải mở chính nguyên bản Sách Thánh Hilạp xem tác giả Tin Mừng dùng chữ gì để khi nói đến làm chứng? Thưa: từ Marturios, cũng “từ” này còn có nghĩa tử đạo. Làm chứng tương đương với tử vì đạo, chết vì nghĩa. Kinh các thánh tử đạo: Lạy các thánh tử đạo là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô. Tiếng Anh, người tử vì Đạo là Martyr. Do đó, làm chứng không chỉ có nghĩa trả lời “có,” “không.” Tôi thấy cái này, tôi nghe cái kia, đưa ra bằng chứng, thế là xong, mà còn là bảo đảm cho điều mình làm chứng đi đến kết cuộc, dẫu có phải chết. Từ ngữ Việt phần nào nói được điều đó: LÀM chứng (chứ không phải “nói chứng,” “giơ chứng”: có một tích cực chứ không thụ động. Từ Hi lạp thì nói rõ: làm chứng là chết vì nghĩa. Quả Gioan đã chết vì làm chứng.

  1. Làm chứng cho cái gì?

Bài Tin Mừng trả lời rõ ràng cho chúng ta: “Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng. Và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” Chỉ một câu ngắn mà đã có ba chữ “ánh sáng.”

Ánh sáng rất cần để thấy. Mắt không mù, nhưng không có ánh sáng thì cũng không thấy gì. Như trong đêm tối, đêm ba mươi, không có một tí ánh sáng gì, ta mở mắt mà đâu có thấy, phải vận dụng đôi tay sờ soạng dò đường.

Gioan đến là để làm chứng cho Ánh Sáng. Người Do Thái mở mắt mà nhìn không ra. “Ở giữa các ông có một vị mà các ông không biết”… “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dép cho Người.” Sau này chính Chúa Giêsu đã gọi Gioan Tẩy Gỉả là chiếc đèn (Ga 5,33-36). Đêm mà không có lửa thì không có ánh sáng, Ánh sáng dùng đèn như một phương thế để chiếu soi. ĐGH Gioan 23 khi trả lời cho câu hỏi của một phóng viên rằng ĐGH chờ đợi gì ở Công đồng Vatican này (ta nên nhớ ĐGH Gioan 23 là vị có sáng kiến triệu tập CĐ Vaticano 2). Bằng một hành động tượng trưng, đức Gioan đi về phía cửa sổ vừa mở ra vừa nói: “Chờ đợi gì ư? Một chút gió.” Mở cửa thì gió thổi vào được: Gió là Thần Khí. Mở cửa thì ánh sáng mới vào được. Ánh sáng là Đức Kitô.

Khi tiếp vị đại sứ, ĐGH Gioan (người được Chúa sai đến) nói: Phải rũ hết bụi đế quốc đã chồng chất lên toà thánh Phêrô kể từ thời vua Constantin! Bụi phủ nhiều làm sao ánh sáng lọt vào. Phải phủi bụi đi thì mới thấy rõ ràng được. ĐGH Gioan cũng nói về Giáo Hội, sau bao thế kỷ bị phủ lên mình một lớp bụi dày: bụi cơ cấu, bụi tuyệt thông, bụi tiên báo sự dữ và tai họa… Hãy phủi đi thì anh em ly khai sẽ về, thế giới người đời sẽ tới với Giáo Hội. Hãy phủi, hãy cất những màn che để Ánh sáng Chúa Kitô lọt vào.

Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan, ông tới để làm chứng và làm chứng cho ánh sáng.

Người có tên là Gioan: chính là Gioan Tẩy giả; và người có tên là Gioan là thánh Gioan 23 giáo hoàng. Cả hai đều muốn làm chứng cho ánh sáng.

Người có tên là Gioan còn là mỗi chúng ta. Khi lãnh nhận 2 bí tích Thánh tẩy và Thêm sức là chúng ta được Chúa sai đến. Trong bí tích Thánh tẩy, ta cầm nến trong tay. Trong bí tích Thêm sức, nến cũng ở trong tay ta. Điều đó muốn nói chúng ta hãy là ánh sáng, và chúng ta hãy để Ánh Sáng là Chúa Kitô đậu vào chiếu soi. Phải làm sao đích thực ta là bạn hữu của Kitô, bởi ta là Kitô hữu.

Ánh nến có 2 công dụng: sưởi ấm nhờ sức nóng và chiếu soi nhờ ánh sáng. Hãy an ủi sưởi ấm người cùng cực, đói khổ, rét mướt… Và hãy toả sáng đức tin bằng cách sống Đạo của mình trong niềm vui không ngơi (CN III Gaudete, hãy vui lên, màu hồng). ĐGH Phanxicô với tông huấn Niềm Vui Tin Mừng nhắc mãi điểm này. ĐGM giáo phận thì có sẵn mấy cái gương trong phòng, để soi gương và nở nụ cười với mình để đem vui cho người. Có lần đang mỉm cười trong gương, thì có cha muốn gặp. Mở cửa ra, linh mục đó nói ngay: hôm nay con xin điều này chắc thế nào cũng được, vì thấy đức cha đang mỉm cười.

Ánh nến có 2 công dụng: sưởi ấm nhờ sức nóng và chiếu soi nhờ ánh sáng. Cả 2 việc đó đều nhắm làm chứng cho Ánh Sáng. Chúng ta xin Đấng là Ánh sáng giúp chúng ta. Và chúng ta tuyên xưng Đấng là “Ánh sáng bởi Ánh sáng” trong kinh Tin Kính đây.[Mục Lục]

5. Người dọn đường

Đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy được khuôn mặt của Gioan Tiền Hô.

Thực vậy, công việc của ông đã thu hút được sự chú ý của đông đảo người Do Thái, nhất là hàng lãnh đạo trong dân về mặt tôn giáo. Chính vì thế, họ đã thắc mắc, muốn biết rõ lý lích của ông cũng như vai trò của ông trong lịch sử cứu độ. Họ đã sai người đến đặt câu hỏi: Ông là ai? Là Đức Kitô? Là Elia? Hay là một tiên tri? Đó là những nhân vật mà họ tin rằng sẽ trở lại nơi trần gian, để rao giảng sự thống hối vào những ngày cuối cùng.

Lời giảng và việc làm của Gioan đã lay động xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, ông đã xác quyết rằng mình chỉ là một nhân chứng, một người giới thiệu cho một Đấng đang ở giữa họ mà họ không biết. Đấng ấy là người đến sau ông, nhưng lại lớn hơn ông. Hiểu theo nghĩa là nắm giữ vai trò chủ chốt. Và như thế, Gioan đã đặt chúng ta trước ngưỡng cửa một thời đại mới. Thời đại cứu chuộc, thời đại Emmanuel, Con Thiên Chúa xuống thế làm người và ở giữa chúng ta. Trong thời đại ấy, những người nghèo khổ được đón nhận Tin Mừng, những tâm hồn đau thương được băng bó, những kẻ lưu đày được ân xá, Và đó chính là thời đại hồng ân của Thiên Chúa.

Còn chúng ta thì sao? Ngày hôm nay chúng ta cũng đang sống trong thời đại hồng ân của Thiên Chúa. Thế nhưng, cuộc sống của chúng ta có phản ảnh được cái tinh thần của thời đại mới ấy hay không? Bởi vì cuộc sống chung quanh chúng ta vẫn còn quá nhiều những nghèo khổ, túng thiếu, bất công, bóc lột và thù hận. Chúng ta đã làm được gì cho những người chung quanh, để họ nhận cũng nhận biết tình thương và ơn sủng của Thiên Chúa.

Ước chi việc làm và đời sống của mỗi người chúng ta cũng sẽ trở nên một thứ tiếng kêu, thức tỉnh những người chung quanh biết hướng nhìn về Chúa và nhất là biết đón nhận Chúa trong mùa Giáng Sinh này.[Mục Lục]

6. Làm chứng

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã đưa ra những câu hỏi để truy tìm tông tích, lý lịch, dung mạo và vai trò của Gioan tiền hô, nhưng thực ra là truy tìm chính Đức Kitô, Đấng Cứu Thế.

Bấy giờ, mọi người ở Giêrusalem đã bị khuấy động bởi những chuyện khác thường. Thế nhưng, những câu hỏi nêu lên lại không đi ra ngoài những khuôn mẫu sẵn có: là Elia, là tiên tri? Và Gioan đã chỉ có thể trả lời không. Bao lâu người ta còn loanh quanh trong những cái có sẵn, người ta không thể nhận ra Ngài. Sự hiện diện của Ngài đã là một sự độc đáo. Gioan đã phải vất vả để dứt cái nhìn của đám đông ra khỏi con người của ông để hướng về chính Đấng họ đang tìm kiếm. Và Đấng ấy đang ở giữa họ, nhưng họ chưa nhận ra. Gioan quả đã là người chứng đích thực vì ông đã không ngăn cản ánh sáng chiếu tới họ.

Muôn ngàn những bận rộn trong ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh của chúng ta cũng có thể được coi là những câu hỏi về dung mạo của Đấng chúng ta đang chờ đợi và tìm kiếm. Những cuộc vui chơi với bè bạn. Những chiếc hang đá xinh xinh và gợi cảm. Những món quà đắt giá, những chiếc bánh truyền thống, những bài hát thơ mộng, những ánh đèn muôn màu và rồi những buổi lễ long trọng. Lễ Giáng sinh có thể được làm nên bởi những thứ đó, nhưng tất cả những thứ đó được lặp lại hàng năm, có phải là giáng sinh? Có phải đó là lễ giáng sinh của ngày hôm nay? Chúng ta chỉ có thể trả lời: Không phải và không thể.

Bởi lẽ giáng sinh là một con người, con người ở giữa chúng ta trước khi là một ngày lễ. Con người ấy được nhận diện không phải bằng những lời giới thiệu, những bài giảng hay bằng các nghi lễ, mà trước tiên bằng chính việc làm. Không phải những việc làm thuộc loại gây chấn động trong thiên hạ, gây kin ngạc và thán phục, những việc làm ngoạn mục xuất chúng.

Bài đọc hai đã kê khai những việc làm của Đấng được xức dầu, tức là Đức Kitô: Loan báo Tin Mừng cho kẻ khó nghèo, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên bố việc ân xá cho những bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Và Đức Kitô đã khẳng định: Chính Ngài là người đã thực hiện những việc làm này, và chính Ngài cũng đã từng trả lời với những ai đang thắc mắc về Ngài: Hãy nhìn những việc làm để nhận ra Ngài là ai. Ngài quả là Đức Kitô, vì Ngài đã làm những việc của người đã được Thiên Chúa xức dầu. Đức Kitô đã chết và đã được tôn vinh, nhưng Ngài vẫn hiện diện giữa con người. Theo ánh sáng của lòng tin, chúng ta biết được Ngài hiện diện ở đâu có những nỗ lực và hành động giải phóng, đưa con người bị vùi dập bạc đãi, bị kỳ thị, bị tước mất quyền làm người. Mỗi người chúng ta có bổn phận phải làm chứng. Làm chứng không phải chỉ bằng lời nói mà chủ yếu bằng việc làm. Những việc làm của chính Đức Kitô, Đấng được xức dầu.

Thế nhưng nhiều khi chúng ta chuẩn bị mừng lễ giáng sinh bằng sự phô trương chính mình thay vì là một chứng tá sống động về sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng mà mọi người đang mong đợi và tìm kiếm.[Mục Lục]

7. Gioan Tiền Hô

Sống dưới ách thống trị của đế quốc La-mã dân Do Thái luôn trông chờ một Đấng cứu thế do Thiên Chúa sai đến. Họ đã mượn nỗi khắc khoải của cha ông thuở trước để cầu xin: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời. Chính vì thế, khi Gioan xuất hiện bên bờ sông Giođan, họ đã phấn khởi vui mừng. Và rồi họ đã cử một phái đoàn đến để tìm hiểu cho cặn kẽ và thấu đáo. Những người này đã hỏi Gioan: Ông là ai, ông có phải là Đức Kitô hay không. Gioan đã xác quyết với họ: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi chỉ là người tiền hô, đi trước để dọn đường cho Ngài. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến. Hãy sám hối ăn năn vì Nước Trời đã gần. Ông không để cho người ta chú ý tới ông mà trái lại, ông hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Kitô: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.

Qua sứ điệp của Gioan Tiền Hô, chúng ta rút ra hai điểm thực hành. Điểm thứ nhất đó là hãy sám hối, cải thiện đời sống. Thực vậy, Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm giáng sinh, mà hơn thế nữa Ngài còn đến với chúng ta vào ngày tận cùng của vũ trụ, cũng như vào ngày sau hết của cuộc đời chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn đến với chúng ta mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể. Như thế cuộc đời chúng ta phải là một mùa vọng nối dài. Và trong mùa vọng cuộc đời này chúng ta phải thực hiện ngay sứ điệp của Gioan Tiền Hô, đó là hãy sám hối, dọn đường Chúa đến. Sám hối ở đây không phải chỉ là hối tiếc về những tội đã phạm mà hơn thế nữa còn phải cố gắng uốn nắn sửa đổi để nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.

Điểm thứ hai, đó là hãy trở nên những tiền hô cho Chúa. Thực vậy, là người Kitô hữu, chúng ta không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà hơn thế nữa, còn phải đem Chúa đến cho người khác. Dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn của mình mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải dọn đường để Chúa cũng đến được trong tâm hồn người khác. Muốn được như thế, chúng ta cần phải có một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó mà dần dần chúng ta có thể cảm hoá được những người chung quanh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa.

Dọn đường Chúa đến trong tâm hồn mình và giúp người khác dọn đường Chúa đến trong tâm hồn họ đó là việc chúng ta cần phải làm ngay trong mùa vọng này.[Mục Lục]

8. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ đề: Vui mừng vì Chúa sắp đến

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp những niềm vui: vui khi thấy những nụ hoa hé nở trong vườn, vui khi nhìn những cặp vợ chồng trẻ hân hoan trong ngày cưới, vui với những tù nhân mãn hạn trở về. Ngày xưa, một ngôn sứ cũng đã dùng những hình ảnh tương tự để loan báo niềm vui khi Chúa đến. Thật vậy, khi Chúa đến, Ngài sẽ làm cho cuộc sống ta tràn ngập niềm vui. Vậy chúng ta hãy chuẩn bị đón tiếp Ngài.

  1. Gợi ý sám hối

a- Chúng ta không nghĩ rằng sống đạo là một niềm vui, trái lại nhiều khi còn coi đó là gánh nặng khó chịu.

b- Chúng ta ít nghĩ đến việc làm cho những người chung quanh được vui tươi hạnh phúc.

c- Chúng ta không sẵn sàng để cho Chúa giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi và những đam mê bất chính.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I: Is 61, 1-2. 10-11

Ðoạn này thuộc phần thứ ba sách Isaia (các chương 56-66) do một (hoặc một số) tác giả không được biết tên nên người ta tạm gọi là Ðệ Tam Isaia.

Có hai giả thuyết về thời gian soạn tác phần này: a/ Ðó là thời sau lưu đày từ lúc xây xong Ðền thờ mới cho đến năm 445 trước công nguyên (Nhóm dịch CGKPV); b/ Một vài năm trước khi kết thúc cuộc lưu đày. Nội dung đoạn được trích hôm nay xem ra phù hợp với giả thuyết thứ hai hơn.

Tác giả nghĩ đến lúc được giải thoát khỏi ách lưu đày.

– Trong phần đầu (cc 1-2), tác giả tự đồng hóa mình với một nhân vật được Thiên Chúa chọn làm sứ giả đặc biệt để loan tin vui ấy. “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”.

– Trong phần sau (cc 10-11), tác giả lại tự đồng hóa mình với dân được giải thoát: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, vì Ngài đã mặc cho tôi áo phần rỗi và choàng áo công chính cho tôi…”

Sau này, trong bài ca Magnificat, Ðức Maria đã lấy lại một số tâm tình của tác giả; và Ðức Giêsu, tại hội đường Nadarét, cũng đã áp dụng những lời này cho chính bản thân Ngài.

  1. Ðáp ca: Trích bài Magnificat, Lc 1, 46-48. 49-50. 53-54.

Bài ca diễn tả tâm tình của Ðức Maria. Ðó cũng là tâm tình của Ðệ Tam Isaia ngày trước, mà cũng là tâm tình của Giáo Hội ngày nay: vui mừng vì được Chúa đến thăm và dùng mình làm sứ giả loan báo Tin Mừng của Chúa.

  1. Tin Mừng: Ga 1, 6-8. 19-28

Sứ giả loan Tin Mừng mà Ðệ Tam Isaia đã tiên báo chính là Gioan Tiền hô, và Tin Mừng mà Gioan công bố chính là Ðức Giêsu.

Ðoạn Tin Mừng Chúa nhật tuần trước đã cho biết Gioan là người dọn đường và ông đã dọn đường như thế nào. Ðoạn Tin Mừng hôm nay (của thánh Gioan Tông đồ) cho biết nhiều hơn:

– Ðấng Messia mà Gioan dọn đường chính là Ánh sáng. Ngài đến thế gian như ánh sáng chiếu soi trong đêm tối.

– Phần Gioan tiền hô, ông rất khiêm tốn: nói rõ mình không phải là Messia và tuyên bố Ðấng Messia là Ðức Giêsu cao trọng hơn ông.

  1. Bài đọc II: 1 Tx 5, 16-24

Thêxalônica là một giáo đoàn mà thánh Phaolô rất quan tâm, bởi vì ngài mới thành lập giáo đoàn này không bao lâu thì phải bị buộc rời họ đi xa. Nhưng dù non trẻ, giáo đoàn này đã sống đạo khá tốt. Bởi thế khi biên thư cho họ, Phaolô bảo họ một mặt hãy luôn vui mừng trong Chúa và mặt khác hãy cầu nguyện không ngừng và cảm tạ Chúa trong mọi việc.

  1. Gợi ý giảng
  2. Vui mừng theo mệnh lệnh?

Lời kêu gọi rất rõ của Giáo Hội trong Thánh lễ hôm nay là “Anh em hãy vui lên”.

Nhưng có thể vui mừng theo mệnh lệnh như thế chăng? Vả lại, trong cuộc sống cũng có nhiều nỗi buồn. Ðâu phải bất cứ lúc nào hễ Giáo Hội kêu chúng ta vui lên thì chúng ta vui lên ngay được?

Thiết tưởng ta nên phân biệt cho rõ. Cuộc đời gồm nhiều phương diện lắm khi không hoàn toàn phối hợp hài hòa với nhau. Bởi thế người ta vẫn có thể vui về phương diện này đang khi gặp điều không vừa ý thuộc phương diện khác. Chẳng hạn nghèo mà vui, bị sỉ nhục vẫn vui v. v. Phương diện lúc nào cũng có thể vui chính là phương diện siêu nhiên: vui vì Chúa, vui trong Chúa. Thứ niềm vui này ở tận trong lòng nên bất cứ thứ xáo trộn bên ngoài nào cũng không ảnh hưởng tới nó được.

Tác giả Sách Huấn ca đã viết: mọi việc đều có thời của nó. Có thời để khóc và có thời để cười, có thời để buồn và có thời để vui… Giáo Hội chỉ cho chúng ta biết rằng thời để vui chính là thời bây giờ đây, thời chuẩn bị đón Chúa Giáng sinh. Chúng ta vui vì Chúa đã “công bố năm hồng ân” (bài đọc I), vì “Chúa đã đoái nhìn phận hèn tôi tớ” của chúng ta (Bài đáp ca) và vì ý Thiên Chúa muốn rằng chúng ta luôn được hân hoan hạnh phúc (Bài Thánh Thư).

  1. Vui và sướng

Trong bài đọc II, Thánh Phaolô bảo: “Anh em hãy vui luôn”. Flor McCarthy có những suy nghĩ sau đây về vui và sướng (joy and pleasure).

Vui và sướng rất khác nhau:

-Ta có thể vạch kế hoạch để mình được sướng, nhưng không thể làm thế để được vui.

-Sung sướng đến ngay, còn niềm vui thường đến sau; và niềm vui ngọt ngào hơn cả là thứ niềm vui đến sau đau khổ.

-Sung sướng đến do mình trả lời “có” với mình; niềm vui đến do mình trả lời “không” với chính mình.

-Sung sướng giống như một ánh lửa loé lên trong đêm tối, chiếu sáng mọi sự trong giây lát rồi tắt lịm, sau đó ta cảm thấy tối tăm và trống rỗng hơn bao giờ hết; Niềm vui giống như một ngọn lửa trong tim, sau đó dù lửa đã tàn nhưng vẫn còn để lại hơi ấm trong ta.

  1. Vui luôn

Thánh Phaolô kêu gọi “Anh em hãy vui mừng luôn mãi”.

-“Luôn mãi” là cả khi bị người ta đối xử xấu với mình nữa chăng?

-“Luôn mãi” là cả khi làm việc thất bại nữa chăng?

-“Luôn mãi” là cả khi người thân bị chết hay bị bệnh nặng nữa chăng?

-“Luôn mãi” ngay cả khi đã phạm tội chăng? v. v.

Chắc chắn là thánh Phaolô đã nghĩ đến những tình huống đó, dù vậy Ngài vẫn kêu gọi “Hãy vui mừng luôn mãi”. Tại sao?

Liền sau lời kêu gọi ấy, thánh Phaolô viết tiếp “Hãy cầu nguyện không ngừng”. Ðúng rồi, nếu gặp phải những tình huống ấy mà biết cầu nguyện thì mọi buồn sầu lo lắng sẽ sớm tan biến và trở thành niềm vui.

  1. Có Ðấng mà các ngươi không biết, Ngài sẽ đến sau tôi

Ðấng mà người ta không biết chính là Thiên Chúa. Thật vậy, rất nhiều người không biết Thiên Chúa, thậm chí còn không tin là có Thiên Chúa. Ðiều này cũng tự nhiên thôi, vì chính Thánh Kinh cũng nói rằng khả năng con người không thể biết được Thiên Chúa: Thánh Gioan tông đồ đã viết “Chưa ai trông thấy Thiên Chúa bao giờ” (Ga 1, 18); Thánh Phaolô cũng viết rằng Thiên Chúa là Ðấng “ngự trong ánh sáng siêu phàm, Ðấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy” (1 Tm 6, 16).

Thế nhưng, vì yêu thương loài người, Thiên Chúa đã khấng cho loài người biết Ngài, qua Ðức Giêsu con yêu dấu của Ngài nhập thế sống giữa loài người chúng ta. Gioan Tiền hô đã báo cho người ta biết tin vui đó: “Ngài đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết”.

Chúng ta là những người được biết, vậy chúng ta hãy vui mừng; và cũng như Gioan, chúng ta hãy chỉ Ngài cho nhiều người khác được biết.

  1. Ðiều kiện của người làm chứng

Ðiều kiện tiên quyết của người làm chứng là sống đúng như chứng từ của mình.

Gioan Tẩy giả là người làm chứng như thế. Ðoạn Tin Mừng hôm nay viết: “Ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Trung thực với chứng từ này, một mặt ông cố gắng chỉ cho người ta thấy Ánh Sáng là ai, mặt khác khi có người tưởng ông là Ánh sáng ấy thì ông thẳng thắn phủ nhận. Rồi khi Ánh sáng xuất hiện, ông âm thầm rút lui: “Ngài phải sáng lên, còn tôi phải mờ đi”.

Câu chuyện sau đây được thuật lại trong quyển The Tablet (Tháng 5 năm 1998):

Một cặp vợ chồng trẻ kia đều là bác sĩ. Họ đã học chung với nhau ở Ðại học Y khoa, quen nhau, rồi cưới nhau. Người vợ là công giáo, người chồng thì không. Ðã nhiều lần người vợ cố gắng thuyết phục chồng Rửa Tội, nhưng anh không hề quan tâm, có lẽ vì chưa thấy đạo công giáo có cái gì hay.

Thế rồi trong một đợt thanh lý công nhân viên, người chồng bị bắt đi cải tạo cùng với một số nhà trí thức khác. Người vợ không vào tù nhưng bị làm áp lực bỏ đạo và ly dị chồng. Nhiều nữ bác sĩ khác cùng cảnh ngộ đã đành chìu theo những áp lực ấy. Nhưng bà này vẫn cương quyết sống theo niềm tin và tình yêu của mình, mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn.

Nhưng một ngày kia, người chồng được trả tự do cùng với nhiều bác sĩ khác. Xảy ra rất nhiều tình huống trớ trêu dở khóc dở cười: nhiều bà vợ vui mừng vì chồng trở về nhưng không dám đón chồng vì đã trót ly dị. Riêng cặp vợ chồng này thì niềm vui rất trọn vẹn.

Sau đó người chồng xin gia nhập đạo công giáo. Anh đã thấy được giá trị của đức tin và tình yêu hiện thân nơi vợ mình. Ðó là một chứng từ, không phải bằng lời nói suông mà bằng cả cuộc sống.

  1. Làm chứng cho Ðức Kitô

Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:

Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian dài bên bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì có một bà cụ xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, quần áo bẩn thỉu rách rưới. Bà vừa lẩm bẩm một mình, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát rồi cho vào giỏ.

Cha mẹ lũ nhỏ gọi chúng lại và bảo chúng hãy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà mỉm cười với họ, nhưng mọi người không hề tỏ dấu đáp lại.

Nhiều tuần sau, cả gia đình mới biết rằng đã lâu lắm rồi, người đàn đà ấy đã tự nguyện, làm công việc lượm các mảnh thủy tinh rơi rớt trên bãi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.

“Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết” (Ga. 1, 26).

Sứ mạng của Gioan Tiền Hô là làm chứng cho Sự Sáng đích thật chính là Ðức Kitô. Ðức Kitô đến để chiếu ánh sáng cho trần gian. Toàn bộ Tin mừng Gioan chỉ là để trả lời cho câu hỏi này: “Giêsu Nagiarét, Người là ai?” Gioan không dùng danh từ Phúc âm mà chỉ dùng từ ngữ “chứng nhân”. Ðộng từ “làm chứng” được Gioan nhắc đến 33 lần. Tin mừng Gioan được khai mở bằng lời chứng của Gioan Tiền Hô và kết thúc với minh chứng của Gioan Tông đồ: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra. Chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thực” (Ga. 21, 24).

Qua lối sống khổ hạnh khác người, qua lời rao giảng sám hối, và qua lời chứng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi” (Ga. 1, 23) đã minh chứng Gioan là vị Tiền Hô của Ðấng Cứu Thế, là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan chỉ đứng ra làm chứng và báo trước ngày Chúa xuất hiện, rồi rút lui vào bóng tối.

Có thể nói, Gioan là người tôi tớ, còn Ðức Giêsu là ông chủ, Gioan là đèn soi, còn Ðức Giêsu là ánh sáng, Gioan là tiếng kêu, và Ðức Giêsu là lời hằng sống.

Như Gioan, người tín hữu cũng sẽ là chứng nhân cho Ðức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, Teihard de Chardin đã ví von rất sống động: “Ánh sáng xuyên qua những áng mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta mọi người cũng đoán được có Ðức Kitô”. Bà cụ trong câu chuyện của Cha Mello phản ánh một tấm gương sáng ngời về lòng thương người, luôn quan tâm tới kẻ khác. Cụ sống khó nghèo, âm thầm, hy sinh thời giờ sức lực của mình, để cho niềm vui của người khác được trọn vẹn.

Martin Luther King viết: “Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cuộc sống của mình”. Có những tâm hồn dần dần cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ tới. J. Basquin nói: “Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”.

Ước gì khi nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đã nói về Thánh Gioan Vianey “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người”.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng lời rao giảng và bằng gương sáng đời sống chúng con. Xin cho chúng con biết sống khiêm nhường: không hiếu danh cũng chẳng ganh tị, không cao ngạo cũng chẳng cậy uy. Nếu có khi nào thành công việc gì xin cho chúng con biết hướng vinh dự về cho Chúa, để qua đó, người ta nhận biết Chúa là Ðấng quyền năng và yêu thương con người. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta đã tiến đến Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng, niềm vui ngày Chúa đến dịp lễ Giáng Sinh đã gần kề. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vui mừng cầu nguyện và tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta:

  1. Thánh Gioan đã dọn đường về Ðức Giêsu là ánh sáng, là niềm vui cứu độ / Xin cho cộng đoàn Hội thánh trở thành chứng tá cho Chúa xuyên qua việc gieo rắc và bồi dưỡng niềm vui cho mọi người.
  2. Ðức Giêsu được sai đi để đem Tin mừng cho người nghèo khổ bất hạnh / Xin cho các nhà cầm quyền trở thành những người bênh vực kẻ hèn yếu và đem an vui cho những người thiếu may mắn.
  3. Ðức Giêsu đến trần gian để băng bó những tấm lòng tan nát / Xin cho những người nghèo đói thất nghiệp, tù đày, bị bỏ rơi / tìm được niềm an ủi và hy vọng nơi những người họ gặp gỡ.
  4. Chúng ta đã được hiệp thông với Ðức Giêsu qua các Bí tích / Xin cho mọi người trong cộng đồng họ đạo chúng ta / luôn thắp lên trong đời mình ánh sáng của Chúa / để sưởi ấm và soi sáng cho mọi người.

Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đang sửa soạn để đón nhận niềm vui ngày Ðức Giêsu Giáng Sinh, xin Chúa sai Thánh Thần Chúa đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con để chúng con trở thành niềm an vui cho mọi người chúng con gặp gỡ. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô.

  1. Trong Thánh lễ

– Nên dùng Kinh nguyện Thánh Thể 4. Nhấn mạnh những chỗ:

–(Bài tiền tụng, đoạn 1): “và cho nhiều thọ tạo được vui hưởng ánh sáng huy hoàng của Cha”

–(Kinh nguyện Thánh Thể, cuối đoạn 3): “Người đã loan Tin Mừng cứu độ cho người nghèo khó, công bố ơn giải thoát cho kẻ tù đày, đem lại niềm vui cho những ai sầu khổ”

– Trước Kinh Lạy Cha: Ðức Maria đã hát lên rằng “Ðấng toàn năng đã làm cho tôi bao điều kỳ diệu. Danh Ngài là thánh”. Chúng ta hãy hợp ý với nhau cầu xin cho Danh Thiên Chúa được hiển thánh.

– Sau Kinh Lạy Cha: “… Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an mà các ngôn sứ của Cha đã loan báo…. Chúng con sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin cho chúng con luôn giữ được niềm vui của những con người được cứu độ, cho dù đang sống giữa những gian truân thử thách của cuộc đời, đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc…”

– Trước khi Rước lễ: Thánh Gioan Tẩy giả đã loan báo: “Có một Ðấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết”. Ðấng ấy chính là đây, “Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian, phúc cho ai…”

VII. Giải tán

Những lời Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu Thêxalônikê cũng là những lời Giáo Hội cầu chúc cho anh chị em hôm nay: “Xin chính Thiên Chúa bình an thánh hóa anh em toàn diện, để thần trí, linh hồn và thể xác anh em được gìn giữ vẹn toàn trong ngày Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta ngự đến”.[Mục Lục]

9. Có một vị ở giữa các ông

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Trong Mùa Vọng, Giáo Hội nhắc đến một người đóng vai trò rất đặc biệt là Gioan Tẩy Giả, người được sai đến dọn đường cho Chúa. Ngài đến như một vị tiên tri, một vị tiên tri quan trọng nhất. Chính Chúa Giê-su đã xác nhận điều đó: “Còn hơn vị tiên tri nữa”, “hơn cả con cái loài người do người nữ sinh ra”. Ngài đến rao giảng bên bờ sông Gio-đan, kêu gọi người Do thái ăn năn sám hối để đón nhận hồng ân tuyệt diệu của Chúa: “Ngài đến sau tôi… nhưng có trước tôi… Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần”.

Dân Do thái, từ hai trăm năm trước, không còn nghe tiếng nói của một tiên tri nào. Chúa im lặng, vì họ đã giết những tiên tri Chúa sai đến với họ.

Hôm nay, một người đã đến, “mình mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và uống mật ong rừng” (một con người khắc khổ), rao giảng với giọng điệu tiên tri xưa.

Dân Do thái đổ xô đến nghe giảng và chịu phép rửa tỏ lòng thống hối.

Họ ngạc nhiên tự hỏi: “Ông này là ai? là Đấng cứu thế chăng?” Những lãnh đạo tôn giáo cũng ngạc nhiên. Họ sai một phái đoàn đến điều tra. Có cái gì đang xảy ra bên bờ sông thanh tẩy. Tại sao họ phải điều tra cẩn thận như thế? Có lẽ sự xuất hiện của Gioan làm cho dân chúng xôn xao khác thường. Những ý kiến đối chọi nhau về thân thế của Gioan. Nhiều người đã cho ông là Đấng Thiên Sai họ mong đợi.

Lý do thứ hai: Từ suốt thời gian Cựu Ước, dân Do-thái vẫn mong một Đấng Cứu Thế. Lúc Gioan xuất hiện, ách nô lệ của người Rô-ma đang đè nặng trên dân. Niềm mong đợi ấy lại càng mãnh liệt hơn lúc nào hết. Họ nghĩ rằng Đấng Cứu Thế sẽ là một vị vua oai hùng, thuộc dòng dõi Đa-vít, như Kinh Thánh đã nói, sẽ cứu họ thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Rô-ma, như Mô-sê xưa đã cứu tổ tiên họ khỏi bàn tay Ai-cập. Niềm mong đợi này đã cày sâu vào tâm hồn người Do Thái một luống cày rất sâu, vì thế, khi Gioan xuất hiện, họ nghĩ ngay rằng ông này sẽ là Đấng Cứu Thế họ đang nóng lòng mong đợi.

Phái đoàn của Giê-ru-sa-lem đến chất vấn Gioan một cách hết sức cặn kẽ. Nhưng Gioan đã nói rõ: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô”. Họ lại hỏi: “Ông có phải là Ê-li-a không?” Câu hỏi này bắt nguồn từ Kinh Thánh. Sau khi Ê-li-a được đưa lên trời bằng một chiếc xe bằng lửa, người Do-thái tin rằng, một ngày kia ông sẽ trở lại với tất cả uy quyền để cứu dân Do thái.

Gioan cũng trả lời: “Không phải”. Và ông cũng nói rõ ông không phải là một tiên tri. Vì là một phái đoàn chính thức của Đền Thờ họ cần một câu trả lời rõ rệt. “Vậy ông là ai để chúng tôi trả lời cho những người đã sai chúng tôi?” Gioan trả lời: “Tôi chỉ là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho ngay thẳng để Chúa đi”.

Phái đoàn lại đề cập đến phép rửa của Gioan và ông đã thẳng thắn nói: “Tôi chỉ rửa trong nước. Nhưng có một vị ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Gioan đã xác nhận: ông không phải là Đấng Ki-tô như nhiều người hiểu lầm, ông chỉ là người dọn đường cho Đấng đến sau… mà có trước.

Thánh Gioan thánh sử không nói đến phép rửa trong Thánh Thần mà chỉ nói đến ánh sáng. Tin Mừng Gioan đặt Gioan Tẩy Giả như chứng nhân cho Ánh sáng. Đề tài ánh sáng chiếm một chỗ quan trọng trong Tin Mừng của Gioan, vì Chúa Giê-su là “Ánh sáng thế gian” và là “ánh sáng ban sự sống”. Ngài đến để phá tan bóng tối đang che phủ trần gian: “Dân ngồi trong bóng tối đã thấy chiếu dọi một ánh sáng huy hoàng.” (I-sa-i-a).

Gioan đến như chứng nhân và ông xác nhận như thế: tôi chẳng là ai cả, tôi không quan trọng. Đấng đến sau tôi mới quan trọng. Ông chỉ nhận mình là tiếng hô trong hoang dịa, kêu gọi mọi người dọn đường đón nhận vị Thượng Khách thần linh mà thôi. Gioan khiêm tốn nhìn nhận “không đáng cởi quai dép” cho Đấng mình loan báo (cởi quai dép là việc của một nô lệ). Ông còn nói: “Tôi phải nhỏ đi và Ngài phải lớn lên”.

Tại sao phải dọn đường?

Tại sao cần phải có một vị tiền hô?

Khi rước một tổng thống hay rước Đức Giáo Hoàng, người ta làm gì?

Rước Con Thiên Chúa đến mang sự sống bất diệt và hạnh phúc, chúng ta không dọn con đường cho Ngài đến sao? Rước một người phàm mà chúng ta còn phải dọn đủ mọi thứ, rước Con Thiên Chúa, chúng ta không dọn gì sao?

Phải chuẩn bị, phải dọn đường. Chúng ta đang hân hoan chuẩn bị cho Chúa đến. Giáo Hội đang hân hoan chờ đón Đấng Lang Quân của mình. Hãy “chỉnh tề khăn áo, hãy lộng lẫy điểm trang”.

Tiên tri I-sa-i-a đã nhìn thấy từ xa ngày hân hoan này.Thánh Phao-lô cũng bảo: “Hãy vui lên trong Chúa…Thiên Chúa là nguồn mạch bình an sẽ đến thánh hóa toàn diện con người anh em…”

Đó là niềm vui của những tâm hồn thiện chí. Chúa đến!

Chúng ta đừng sợ thử thách, đừng ngại khó khăn.

Chúa đến!

Ngài không để chúng ta một mình chống chọi với cuộc sống cam go đâu. Ngài sẽ là Em-ma-nu-en, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta mãi mãi. Ngài là ánh sáng ban sự sống, là bình an, là hồng ân trên hết mọi hồng ân, vì Ngài là Thiên Chúa. Cuộc sống chúng ta vẫn không thay đổi, buồn vui lẫn lộn, gánh nặng vẫn còn nhiều. Chúa không ban cho chúng ta tiện nghi, nhàn hạ, nhưng Ngài sẽ mang lại cho chúng ta can đảm và niềm vui. Ngài đến để biến mọi gánh nặng trần gian thành ân huệ và cả cuộc sống chúng ta thành nguồn vui.

Nguồn vui chính là một chứng tá hùng hồn cho Thiên Chúa. Như Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy là tiền hô của Ngài trong thế giới hôm nay. Hãy là những nhân chứng đáng tin. Người ta không thể nhìn thấy Chúa chúng ta trong nét mặt u sầu buồn thảm. Người ta không thể thấy Thiên Chúa, họ chỉ thấy Người trong nét mặt hớn hở vui mừng của chúng ta.

Gioan là nhân chứng, mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Hoàn toàn cho Chúa, hoàn toàn hướng về Đấng Ngài loan báo. Ngài mất hút trong Chúa, “nhỏ đi để Chúa lớn lên”. Ngài chìm sâu, thật sâu trong thân phận nhỏ hèn của mình: “tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”. Như thế, ngài để lộ ra khuôn mặt của Đấng đến sau tôi, Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết. Ngài không che khuất Đấng ngài loan báo. Ngài chỉ làm những gì ngài phải làm mà thôi “tôi rửa anh em trong nước mà thôi”, không tham vọng nào khác. Chúng ta hãy đi vào con đường khiêm tốn của ngài, chứng tá của chúng ta mới được đón nhận. Dọn đường cho Chúa trong ta là “bạt những gồ ghề kiêu căng, tự mãn, lấp đầy những hố sâu ích kỷ, ganh tị. Con đường bằng phẳng… sạch đẹp mới có thể đón nhận Người Con Một “đầy ân sủng và chân lý”.

Trong những tuần lễ cuối cùng này của Mùa Vọng, một khuôn mặt khả ái xuất hiện trong vùng trời đợi trông của chúng ta, đó là khuôn mặt đáng yêu của Mẹ Maria. Cùng với Mẹ, chúng ta đón Chúa. Với Mẹ, chúng ta “xin vâng”. Và cùng với Mẹ, chúng ta “xin dâng”.

Mẹ đã đón Chúa bằng tiếng “xin vâng” vô điều kiện. Chúng ta không thể đón Chúa với cách nào khác hơn.

Mùa Vọng là mùa “XIN VÂNG”, và sự vâng phục này phải kéo dài đến suốt đời như Mẹ. Xin vâng hôm nay để tiếp tục ngày mai, và như thế từng ngày cho đến suốt đời. Và suốt đời lại là “XIN DÂNG”.

Chúa Giê-su cũng thế, Ngài cũng là “xin vâng”: “Ta làm theo ý Cha Ta”, “lương thực của Ta là xin vâng”. Cuộc đời của Ngài cũng mãi mãi là xin dâng, trọn vẹn cho đến giờ phút yêu thương tuyệt vời nhất: “Con xin phó thác hồn Con trong tay Cha”.

Hôm nay, Ngài có mặt như mọi ngày. Một tấm bánh trọn tình cho Cha và cho mọi người. Tấm bánh hằng sống đã là một tấm bánh xin vâng và xin dâng.[Mục Lục]

10. Hãy ăn năn sám hối

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Ga 1: 6-8.19-28: Khi Gioan xuất hiện, người Do Thái cho là Đấng Messia đã đến, nhưng Gioan trả lời: Tôi không phải là Đấng Messia, tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc chuẩn bị cho Đấng Messia đến…

Dân Do Thái đã trông chờ, cho đến ngày hôm nay vẫn còn đang trông chờ Đấng Mêsia.

Họ trông mong Đấng Mêsia đến sẽ mang hòa bình cho cả thế giới, chính vì thế họ mong đợi một vị tướng lãnh vô địch, sẽ cầm đầu quân đội quốc gia Do Thái đi chinh phục cả thế giới để đem hòa bình cho mọi dân tộc. Chính vì thế khi Gioan xuất hiện, người Do Thái cho là Đấng Messia đã đến, nhưng Gioan trả lời: Tôi không phải là Đấng Messia, tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc chuẩn bị cho Đấng Messia đến.

Vậy ông lấy quyền gì mà làm Phép Rửa?

Ông trả lời: “Về phần tôi, tôi làm Phép Rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không nhận biết, tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài”.

Quả thật Gioan đã đến Sông Giođan làm Phép Rửa và kêu gọi sám hối. Đây là điều kiện để lãnh nhận ơn Cứu Độ. Nhưng tinh thần sám hối đích thực thì luôn phải được thể hiện thành hành động, nghĩa là nó phải dẫn đến sự cải thiện, sửa chữa, chừa cải…Việc sám hối và tu sửa phải được thực hiện không chỉ nơi cá nhân mà trong Giáo Hội và xã hội nữa.

– Nơi cá nhân: cá nhân nào cũng đều có những tật xấu, khuyết điểm, kiêu căng, tham lam, đố kỵ, ghen hgét, lười biếng, hèn nhát…

– Trong Giáo Hội và xã hội: Giáo Hội hay xã hội nào cũng đều có bất công, những cơ chế phát sinh bất công, những luật lệ phi lý, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ nạn… tất cả đều làm cho con người trong tập thể đau khổ, trì trệ, không phát triển.

Hiện nay, trong đời sống tâm linh, rất nhiều Kitô hữu chỉ nghĩ tới việc nên thánh cá nhân, sự cứu rỗi cá nhân, mà quên đi chiều kích Giáo Hội và xã hội của ơn Cứu Rỗi và sự nên thánh. Họ quan niệm việc nên thánh hay cứu rỗi của họ có thể thực hiện một mình, độc lập với những người chung quanh…Nghĩa là họ có thể nên thánh, được cứu rỗi mà không cần nghĩ gì đến xã hội và Giáo Hội, bất chấp đến những bất công, trì trệ hay những thành quả tốt đẹp của Giáo Hội và xã hội. Họ cho rằng họ có thể nên thánh và được cứu rỗi mà không cần nghĩ đến những người chung quanh xem họ có nhu cầu gì, đau khổ hay hạnh phúc ra sao.

Thiết tưởng tinh thần cốt yếu của Kitô giáo là tình yêu, một tình yêu trải rộng đến mọi người không phân biệt bạn thù, giầu nghèo, giai cấp…Tiêu chuẩn cuối cùng để Thiên Chúa xét đoán sự công chính của mỗi người là tình yêu họ dành cho tha nhân (Mt 25,31-46). Nên sự sám hối cũng như sự tu sửa của người Kitô hữu để đón Chúa đến phải nhắm đến tình yêu, sự quan tâm của mình đối với tha nhân, đối với xã hội, quê hương, đất nước và toàn thể nhân loại.

Trong chiều hướng đó, Lời Chúa hôm nay “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng” cần phải được hiểu không chỉ áp dụng cho bản thân mỗi cá nhân mà còn cho cả Giáo Hội và xã hội nữa.

Tuy nhiên, thực hiện việc Sám Hối không phải dễ, cũng như không phải làm một lần là xong như câu chuyện ” một nữ giang hồ trở thành một vị thánh”.

Angiêla là con gái của một gia đình quí phái ở thị trấn Phôlnhô nước Ý, lại sống giữa bầu không khí xa hoa và ảnh hưởng xấu xa nơi bạn bè, Angiêla (1248-1309) đã sớm trở nên một thiếu nữ trụy lạc. Sau khi lập gia đình, Angiêla vốn có tâm hòn nhạy cảm, ham khoái lạc, nên vẫn thích cuộc đời giang hồ nay đây mai đó.

Vào một ngày trong năm 1285, đang trên con đường gió bụi, Angiêla gặp cơn giông tố, chị hoảng sợ chạy vào một nhà thờ gần đó để kêu cầu Chúa ngự trong Thánh Thể giúp đỡ. Angiêla xin cha xứ ở đây giải tội cho chị, nhưng chị đã không xưng hết tội nặng, lại liều mình chịu Mình Thánh Chúa.

Hành động này đã làm tâm hồn chị xao xuyến, lương tâm cắn rứt đêm ngày không yên. Nhưng chị không ngã lòng nản chí, chị tha thiết cầu nguyện xin Chúa ban cho mình được gặp một linh mục giải tội khôn ngoan, thánh thiện để hoàn toàn tuân theo lời chỉ dẫn của ngài.

Sống trong tâm trạng lo âu, băn khoăn xao xuyến, nhưng chị vẫn tin tưởng vào Chúa, Ngài sẽ giúp chị vượt qua con đường gian nan này.

Rồi một đêm kia dưới ánh trăng dịu dàng, Angiêla nâng hồn lên khẩn cầu thánh Phanxicô Assisi giúp đỡ. Thánh nhân đã hiện ra với chị và nói:

– Nếu con xin cha sớm, thì cha đã cứu con, nhưng cha sẽ nài xin Chúa nhận lời con.

Sáng hôm sau, khi cảnh vật còn chìm trong giấc ngủ, Angiêla đã thức dậy thật sớm để đi lễ ở nhà thờ thánh Phanxicô Assisi, và xin Chúa cho chị được gặp linh mục để xưng tội. Khi trở về, chị ghé vào nhà thờ thánh Fêlixianô để viếng Thánh Thể. Ở đây, Angiêla đã gặp một cha dòng Phanxicô và chị đã xưng hết các tội đã phạm. Sau bao ngày ưu tư lo lắng, lương tâm ray rứt, giờ đây chị đã tìm lại được sự bình an đích thực trong tâm hồn.

Sau khi xưng tội rước lễ, Angiêla quyết xâv dựng cuộc đời mới, cuộc đời suy niệm sự đau khổ của Chúa Giêsu, khấn giữ mình trong sạch và khó nghèo.

Chị đem quần áo tốt đẹp phân phát cho người nghèo. Và để được kết hợp mật thiết với Chúa hơn, chị còn muốn bán hết gia tài làm phúc cho người nghèo rồi đi ăn xin. Nhưng vâng lời cha linh hướng, chị không bán nhà cửa, mà chỉ sống đời trần thế, suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa, và làm phúc cho người nghèo khó.

Năm 1291, Angiêla vào dòng ba Phan Sinh, chị sung sướng tuân giữ luật dòng, chị thường xuyên đi thăm viếng các bệnh nhân, phân phát những của đã xin được cho người nghèo, rửa tay chân cho họ, và đặc biệt lau chùi tay chân những người mắc bệnh phong cùi. Chị đã làm như thế suốt cuộc đời của chị.

Năm 1693, Đức Giáo Hoàng Innôxentê phong chị Angiêla lên bậc Chân Phước. Từ một người tội lỗi, Chân Phước Angiêla đã biết lấy tình yêu nồng nhiệt để bù lại những lỗi lầm quá khứ. Hành động đó là bài học muôn đời cho những con người tội lỗi biết ăn năn sám hối.[1] Amen.

—————————-

[1] Luy Gonzaga Maria, 101Giai Thoại Các Thánh, trg. 201-202[Mục Lục]

11. Vui mừng và hy vọng.

(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc”)

Hôm nay bước vào tuần thứ ba mùa vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui mừng và hy vọng, lời mời gọi này có thừa không khi, nhìn từ bên ngoài xã hội chúng ta đang sống đã có qua nhiều các hình thức và tụ điểm vui chơi, phương tiện giải trí? Mọi người mọi tầng lớp đều có những điểm gọi là “điểm vui chơi”. Người có nhiều tiền thì vui chơi theo kiểu cao cấp quý tộc, người bình dân vui chơi theo kiểu bình dân, người lớn vui chơi theo kiểu của người lớn, trẻ em và thanh niên vui chơi theo kiểu thanh thiếu niên, ví dụ quán bar, quán bia, caraoke, caphe… là nơi người ta đến để giải sầu, tìm vui, nghèo hơn nữa thì vài lít rượu với mấy quả ổi, con mực cũng được gọi là lai rai cho vui. Vui cũng uống, buồn cũng uống và không buồn không vui cũng uống. Bên cạnh đó, người ta còn tạo ra đủ mọi thứ lể hội để đem niềm vui cho mọi người

Thưa quý OBACE, như vậy, cuộc sống và xã hội này có thực sự đem đến cho chúng ta niềm vui hay không, nếu thực sự có, thì tại sao khi trở về nhà, họ lại cảm thấy buồn bã và trống rỗng, và họ vẫn cứ phải tìm kiếm một nơi nào đó để vui, để giải sầu mà càng “uống chén tiêu sầu càng sầu thêm”!

Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới vô thần, là một thế giới người ta đang muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi xã hội và khỏi tâm hồn con người, mà một thế giới, một tâm hồn không có Thiên Chúa là một thế giới bất an, một thế giới lo âu khắc khoải không niềm vui. Nơi nào, tâm hồn nào không có Thiên Chúa thì nơi ây, tâm hồn ấy chỉ còn là hỏa ngục, buồn bã và thất vọng, và không có gì ở thế gian này có thể đem lại niềm vui cho những tâm hồn ấy được.

Lời Chúa hôm nay đem đến và mời gọi chúng ta hãy tận hưởng một niềm vui và hy vọng hoàn toàn khác với các niềm vui trống rỗng của thế gian, đây là niềm vui thực sự phát xuất từ trong tâm hồn được thể hiện ra bên ngoài qua nét mặt qua cuộc sống, đó là niềm vui có Chúa và niềm vui của Chúa.

Niềm vui ấy trước hết là niềm vui được giải thoát, được đổi mới. Tiên tri Isaia đã mở ra cho chúng ta một tương lai hy vọng, như ánh sáng bừng lên trong bóng tối, vì thời của Đấng Cứu thế đến, Ngài không chỉ chữa lành những đau đớn bệnh tật thể xác, mà Ngài còn chữa lành những bênh tật trong tâm hồn và lấp đầy những khát vọng buồn chán trong tâm hồn con người, Ngài giải thoát con người khỏi nô lệ của tội lỗi, sự tù đày của dục vọng: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương dập nát, giải phóng cho kẻ bị giam cầm, tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Niềm vui Đấng cứu thế còn là niềm vui của hy vọng và hân hoan, như niềm vui của cô dâu và chú rể, và như niềm vui của đất đai đâm chồi nảy lộc, niềm vui vì được đổi mới. Niềm vui này con người thế gian không thể mang lại, chỉ có Thiên chúa mới có thể đem đến cho chúng ta.

Kế đến đó là niềm vui trong cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa. Sự trống rỗng hời hợt của nhiều người và kể cả của nhiều Kitô hữu hôm nay đó là vì họ không có Chúa trong tâm hồn, bởi vì họ để mình bị cuốn trôi theo dòng chảy của xã hội của cơm áo gạo tiền, bởi những thú vui bên ngòai, họ sống một cách hời hợt không chiều sâu, không mục đích. Trong khi đó Thánh Phaolô khuyên tín hữu Thesalônica: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh… đừng dập tắt Thần khí, chớ khinh thường ơn nói tiên tri, hãy cân nhắc mọi sự điều gì tốt thì giữ và điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì tránh cho xa. Khi sống như thế, Thánh Phaolô khẳng định thiên Chúa là nguồn mạch niềm vui và bình an sẽ gìn giữ anh em.

Bài Tin mừng giới thệu cho chúng ta một niềm vui khác, đó là niềm vui vì nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Gioan Tiên Hô là người đã có kinh nghiệm này. Lúc bắt đầu sứ mạng rao giảng, Gioan đã rất thành công vì ông đã thu hút được rất nhiều người, mọi người kính trọng và đến với ông, thậm chí ông còn trở thành một dấu hỏi lớn đối với họ. Vì thế Những người Do Thái đã cử một số thày Tư tế và Lêvi đến hỏi Gioan: Ông là ai? Ông có phải là đấng Cứu thế không? Gioan mặc dù đang rất thành công, nhưng ông không nhận điều không có về cho mình, mà ông đã rõ ràng dứt khoát từ chối: Tôi không phải là Đấng Kitô, Tôi không là Elia mà ông chỉ nhận mình: Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hảy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Tức là Gioan vui với sứ mạng của mình là người dọn đương cho Đấng cứu thế, Đấng ây ông biết rất rõ Ngài đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết, còn Gioan đã biết và đã nhận ra Ngài và còn nhận ra uy quyền tối cao của Ngài, mà ông khiêm tốn cho rằng mình không đáng cúi xuống cởi dây dép cho Ngài.

Gioan không buồn vì mình phải lui bước, cũng không sợ mất ảnh hưởng, không níu kéo vinh quang uy tín về cho mình, trái lại ông vui vì ông đã chu tòan sứ mạng, ông ý thức rằng ông phải nhỏ đi để Người được lớn lên; ông đến để làm chứng về ánh sánh để mọi người nhờ ông mà tin, chứ ông không phải là ánh sáng, và mọi người, để đón nhận được niềm vui từ Đấng Cứu Thế cần có một thái độ tiên quyết đó là có lòng sám hối, thay đổi đời sống, được biểu lộ ra bên ngoài bằng việc lãnh phép rửa mà ông đang thực hiện, phép rửa của ông chì là một dấu hiệu bày tỏ lòng sám hối, vì ông biết việc ông làm không có sức tha tội, chỉ có Đấng đến sau ông sẽ tẩy rửa tôi lỗi nhân loại bằng Thánh Thần, và ai chấp nhận để cho Thiên Chúa tẩy rửa và uốn nắn, người ấy sẽ có được niềm vui, hoặc đúng hơn chính Đấng ấy sẽ ban tặng cho họ niềm vui vì được làm con cái Chúa.

Thưa quý OBACE, chúng ta đang vui hay chúng ta đang buồn? Chúng ta có thực sự cảm nhận được niềm vui Chúa đem đến cho chúng ta hay không? Ngoài đường phố đã rộn ràng những bài thánh ca, những trang trí giáng sinh, ở trong siêu thị và các nhà hàng cũng tưng bừng với các chương trình cho mùa Giáng sinh mà họ gọi là mùa Noel. Vâng! Có thể người kitô hữu chúng ta cũng sẽ chỉ vui một cách hời hợt ở bên ngoài, nếu chúng ta chỉ chú ý đến những trang trí bên ngoài mà không chuẩn bị để có được niềm vui đón Chúa đến trong tâm hồn. Nhiều người nhiều gia đình lo chuẩn bị những chương trình, đi chơi hay ăn uống trong đêm Giáng sinh sắp tới mà không chuẩn bị cho Chúa có một chổ nhỏ ấm áp trong tâm hồn trong gia đình mình.

Khi chúng ta đã để cho bao thứ lo toan ràng buộc trong cuộc sống chiếm hết thời gian và tâm hồn khiến cà ngày sống chúng ta cứ cảm thấy mình trống rỗng và lao vào tìm kiếm mà không biết mình tìm kiếm điều gì. Chúng ta sẽ không thể nào vui khi chúng ta không dám để cho Chúa gỡ bỏ những gánh năng của cuộc đời, không dám để cho Chúa chia sẻ với nhữ lo toan nhọc nhằn của chúng ta như Chúa hằng mong muốn: Hãy đến với ta hỡi những ai vất vả nặng nề- ta sẽ nâng đỡ bổ sứ cho.

Chúng ta sẽ không vui và sẽ cảm thấy trống rỗng khi chúng ta không dám dừng lại, khi không dám sống trong sự thinh lặng, vì chúng ta sợ phải đối diện với chính mình và đối diện với Thiên Chúa; Chúng ta sẽ không thể vui khi trong lòng còn những bận vướng với anh em. Chúng ta sẽ không thể cảm nhận được niềm vui và hy vọng khi chúng chúng ta không có giờ cho việc cầu nguyện gặp gỡ Thiên chúa, cầu nguyên riêng tư một mình với Chúa, hoặc cầu nguyện chung trong gia đình, hay khi chúng ta cùng họp nhau nơi đây để cử hành thánh lễ, chính là lúc chúng ta được gặp Chúa, được lấp đầy những khoảng trống trong tâm hồn và tìm được niềm vui sâu xa.

Sau cùng, chúng ta chỉ thực sư vui khi chúng ta sống và làm việc trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, ở bên chúng ta, trong Bí tich Thánh Thể, nơi những người anh em, có điều là chúng ta có nhận ra sự hiện diện yêu thương nâng đỡ của Ngài hay không? Chỉ khi nhận ra và làm việc trong sự hiện diện của Ngài chúng ta sẽ tìm được niềm vui và bình an. Điều cũng cần lưu ý, là Thiên Chúa chỉ hiện diện trong một tâm hồn sạch tội, một tâm hồn khiêm nhường hối cải, một tâm hồn không chất chứa sư thù oán ghen tị giận hờn… khi thực lòng thanh tẩy và sửa chữa những sai lầm nhờ Bí tích giải tội, ơn tha thứ sẽ được ban cho chúng ta và chắc chắn mỗi người sẽ cảm nhận được niềm vui và sự bình an vì biết mình được yêu thương tha thứ.

Xin cho mỗi người không chỉ chuẩn bị bên ngoài cho ngày lễ Giáng sinh, mà còn biết chuẩn bị tâm hồn để niềm vui và ân phúc của mủa Giáng sinh được trọn vẹn nơi mỗi người. Amen.[Mục Lục]

12. Đức Kitô: Ánh sáng mang ơn cứu độ

(Suy niệm của Lm Antôn Hà Văn Minh)

Tin mừng Ga 1: 6-8.19-28: Ánh sáng mà Gioan làm chứng chính là Đức Giêsu Kitô. Bởi Gioan nhận ra rằng, sự xuất hiện của ông cũng chỉ là sự xuất hiện bắt nguồn tự con người, vì thế ông không thể là ánh sáng, bởi tự con người không thể kiến tạo nên nguồn sáng…

***

Trước thềm năm mới 2018 và chuẩn bị đón Giáng sinh 2017, Thành Phố Hồ Chí Minh đã đầu tư hơn một triệu Đô la Mỹ trên một thủa đát 5 mẫu tây làm thành công viên ánh sáng lộng lẫy muôn mầu. Quả thật, với sự tiến bộ khoa học người ta đã xử dụng đến ánh sáng để tạo ra muôn điều kỳ diệu, và có thể nói thời đại hôm nay là thời đại của ánh sáng, càng ngày môn khoa học nghiên cứu về về đặc điểm của ánh sáng càng dẫn đưa con người vào trong sự kỳ ảo huyền diệu của ánh sáng điều mà cách đây 300 năm nhà khoa học Newton khi khám phá về ánh sáng và ứng dụng của nó đã không ngờ tới, đến nỗi người thời hôm nay cảm thấy cuộc sống sẽ mất hết lý thú nếu không còn được thưởng những sự kỳ thú mà ánh sáng tạo ra.

Thế nhưng, cho dẫu ánh sáng mang nhiều niềm vui cho cuộc sống đương đại, con người vẫn còn ố đầy dẫy nỗi u buồn và nhận ra rằng đàng sau hào quang mà ánh sáng mang lại là một bóng đêm dày đặc đang nhốt kín cuộc sống. Vì thế, khi tận hưởng những ứng dụng công nghệ của ánh sáng, con người như cố thoát ra khỏi bóng tối đang kềm hãm niềm hạnh phúc, nhưng những cố gắng như vô vọng, càng tìm đến với những ánh sáng do khoa học kỹ thuật mang tới con người càng cảm thấy trống rỗng, và bóng đêm vẫn che kín cuộc đời.

Vậy đâu là ánh sáng thật để dẫn đưa con người tìm thấy niềm vui đích thật. Gioan Tẩy giả đã chỉ cho chúng ta thấy nguồn sáng mang lại cho chúng ta niềm vui: Đức Giêsu Kitô. Quả thật, Gioan có được người đương thời đón nhận như bậc tôn sư, ông cũng chỉ khiêm tốn công nhận mình không là ánh sáng mà chỉ là người làm chứng về ánh sáng.

Ánh sáng mà Gioan làm chứng chính là Đức Giêsu Kitô. Bởi Gioan nhận ra rằng, sự xuất hiện của ông cũng chỉ là sự xuất hiện bắt nguồn tự con người, vì thế ông không thể là ánh sáng, bởi tự con người không thể kiến tạo nên nguồn sáng. Chỉ có Đức Kitô, Đấng tự Thiên Chúa mà đến mới có thể là ánh sáng mang lại ơn giải thoát cho con người. Ánh sáng được kiến tạo nơi Chúa Giêsu chính là lượng từ bi và hay thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, vì yêu thương, Đức Kitô đã từ bỏ ngài trời để đến với con người hầu dẫn đưa con người trở về với nguồn sống đích thật. Cho nên, sự xuất hiện của Chúa Giêsu chính là để phá tan bóng đêm đang bóp chết niềm vui của cuộc sống, bóng đêm của ghen ghét hận thù, bóng đêm của ích kỷ tham lam…

Đức Kitô là hiện thân yêu thương, của sự bao dung và tha thứ, của sự cảm thông, và đó chính là ánh sáng mà nhân loại đang cần tới, vì chỉ có yêu thương mới đem lại bình an, chỉ có lòng bao dung mới kiến tạo được an vui. Quả thật, Satan đã gieo vào trong thế gian bóng tối hận thù, Đức Kitô đến xua đuổi bóng tối bằng trái tim yêu thương. Vâng, chỉ có tình yêu đến từ Đức Kitô mới có sức mạnh để tha thứ và nhờ đó con người được cứu độ.

Cho dẫu ơn cứu độ đã được trao ban, nhưng thế giới hôm nay vẫn còn ngập tràn bóng tối, bởi con người vẫn còn chất đầy sự đố kỵ ghét ghen. Bởi thế, là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi tiếp tục công việc của Gioan, làm chứng cho ánh sáng tình yêu của Chúa Giêsu để nhân loại bớt khổ đau, để không còn những tiếng khóc ai oán nhói lòng vì sự bất công, của lòng hận thù.

Lạy Chúa Giêsu, được dự phần vào sự sống của Chúa, xin cho chúng con phản chiếu ánh sáng tình yêu qua đời sống yêu thương, luôn rộng lòng tha thứ. Ước mong cho những ai đang sống trong bóng tối thất vọng gặp được ánh sáng của niềm hy vọng qua đời sống chứng tá của chúng con. Amen.[Mục Lục]

13. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Vọng đều ngân vang cùng một sứ điệp mời gọi các tín hữu: “Hãy vui lên, Chúa sắp đến gần rồi”.

Is 61: 1-2a, 10-11

Bài Đọc I loan báo Tin Mừng cho những ai nghèo khổ, bất hạnh, bị giam cầm… biết rằng năm hồng ân của Chúa sắp đến rồi.

1Tx 5: 16-24

Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hãy vui luôn mãi và không ngừng tạ ơn Chúa vì những thiên ân mà họ đã lãnh nhận được.

Ga 1: 6-8, 19-28

Tin Mừng tường thuật chứng từ của Gioan Tẩy giả, thánh nhân khẳng định rằng Đấng mà muôn dân mong đợi hiện đang ở giữa anh em.

BÀI ĐỌC I (Is 61: 1-2a, 10-11)

Bài Đọc I được hình thành bởi hai đoạn trích khác nhau từ chương 61 của sách I-sai-a. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a) là phần mở và đoạn trích thứ hai (61: 10-11) là phần kết của một bài thánh thi. Đây là bài Thánh Thi Chúc Tụng được cộng đoàn xướng đáp.

  1. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a):

Chúng ta nhận ra đoạn trích thứ nhất này mà vào một ngày sa-bát, trong hội đường Na-da-rét, Đức Giê-su công bố trước cộng đoàn (Lc 4: 18-20). Sau khi công bố xong, Ngài ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Ngài. Ngài bắt đầu ngỏ lời với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh qu‎ý vị vừa nghe”. Như vậy Đức Giê-su áp dụng cho chính mình lời loan báo này: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…”. Đây cũng là đoạn trích mà Đức Giê-su cũng sẽ viện dẫn để trả lời cho những sứ giả mà Gioan Tẩy giả đang bị giam trong tù phái đến để hỏi Ngài: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?” (Lc 7: 19).

Vì thế, vị ngôn sứ nầy là ai mà Đức Giê-su quy chiếu đến hai lần? Và sứ điệp của ông ngỏ lời với ai?

  1. Tác giả:

Những sự kiện được định vị vài năm sau năm 538 trước Công Nguyên, năm những đoàn người lưu đày ở Ba-by-lon lần đầu tiên được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Tác giả của bài thánh thi nầy là một vị ngôn sứ nặc danh sống ở giữa những người hồi hương tại Giê-ru-sa-lem. Ông thường được các nhà chuyên môn gọi biệt danh là I-sai-a đệ tam, hay I-sai-a thời hậu lưu đày (Is 56-66) để phân biệt với hai vị tiền nhiệm của ông là vị ngôn sứ nặc danh khác thời lưu đày được gọi biệt danh là I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, vị ngôn sứ thời tiền lưu đày (Is 1-39).

Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta đã đọc lời khẩn nguyện của vị ngôn sứ thời hậu lưu đày nầy. Bài thánh thi được trích dẫn hôm nay, xét về niên biểu, có trước lời khẩn nguyện. Trong bài thánh thi nầy, vị ngôn sứ biện minh sứ mạng của mình: ông đã được Thần Khí Chúa xức dầu tấn phong. Đây là cuộc xức dầu tấn phong thiêng liêng bởi vì không có nghi thức xức dầu tấn phong cho các ngôn sứ. Chính Thiên Chúa đã chọn các ngôn sứ của Ngài và ủy quyền cho họ nói thay cho Ngài.

  1. Sứ điệp:

Vị ngôn sứ có sứ mạng là loan báo “Tin Mừng” (ông lấy lại diễn ngữ của vị tiền nhiệm của mình là I-sai-a đệ nhị được trích trong Bài Đọc I của Chúa Nhật II Mùa Vọng). Tin Mừng nầy có thể được tóm lược như sau: “Phúc thay những người nghèo khổ!”, âm vang một trong những mối phúc thật của Đức Giê-su.

Những người hồi hương thật sự vỡ mộng trước thực trạng muôn vàn khó khăn trong công cuộc tái thiết quê hương. Họ là những người nghèo hèn với tấm lòng tan nát. Vị ngôn sứ gọi họ là những “người bị giam giữ” cho dù hiện nay họ đã được phóng thích. Qua những từ ngữ đó, ông muốn nhấn mạnh nỗi cùng cực khốn khổ của họ mà hình ảnh sau đó được giải thích rõ hơn: “công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”, nghĩa là năm mà những người nô lệ được phóng thích, mọi nợ nần được tha bổng, đất đai được phân phối lại. “Năm hồng ân” được cử hành cứ năm mươi năm một lần. Năm Hồng Ân này thật ra khai triển “năm sa-bát”, năm được cử hành cứ bảy năm một lần (Năm Hồng Ân là năm thứ 50 của 7 x 7 = 49). Năm hồng ân biểu tượng một lý tưởng về sự công bình xã hội.

Đây là diện mạo của những “người nghèo Đức Chúa”, những người mà Kinh Thánh gọi là “anawin”. Chữ “anawin” không thể dịch được, nó bao hàm sự nghèo khổ vật chất, đức khiêm hạ và niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Đặc ngữ này mang một nét nghĩa căn bản là “còng lưng xuống”, còng lưng xuống dưới gánh nặng của sự nghèo khó, của sự nhục nhã, nhưng cũng “sấp mình xuống” vì thái độ tôn giáo của họ, niềm tin tưởng phó thác hoàn toàn vào lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đây là một khái niệm căn bản của Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chính những kẻ bé mọn nầy mà Đức Giê-su dành trọn niềm ưu ái cho họ. Một trăm năm sau đó, một vị ngôn sứ khác, Xô-phô-ni-a, đã tiên báo cuộc thăng tiến của những người nghèo nầy:

“Ngày ấy, ngươi sẽ không còn phải hổ thẹn

vì mọi hành vi ngang trái chống lại Ta.

Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi

những kẻ kiêu căng đắc thắng,

và ngươi sẽ không nghêng ngang

trên núi thánh của Ta nữa.

Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ;

chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa.

Số dân Ít-ra-en còn sót lại

sẽ không làm chuyện tàn ác bất công,

cũng không ăn gian nói dối

và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt.

Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi

mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ nữa” (Xp 3: 11-13).

  1. Đoạn trích thứ hai (61: 10-11).

Được Thiên Chúa an ủi như vậy, cộng đoàn xướng lên những lời chúc tụng: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Thiên Chúa, vâng nhờ Người, tôi hớn hở biết bao”. Những lời hoan ca nầy được diễn tả qua hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất là “trang phục”: Giê-ru-sa-lem được mặc hồng ân cứu độ, được khoắc áo choàng công chính như chàng rể chỉnh tề khăn đóng, tựa nàng dâu lộng lẫy điểm trang. Hình ảnh thứ hai là “khu vườn”: Giê-ru-sa-lem được sánh ví với khu vườn được Thiên Chúa chăm sóc tận tình để “trở hoa công chính và vinh quang trước mặt muôn dân”.

  1. Ý nghĩa của việc nối kết hai đoạn trích nầy:

Khi đặt hai đoạn trích đầu và cuối bài thánh thi nầy bên cạnh nhau, Phụng Vụ mời gọi chúng ta gẫm suy về mối liên hệ sâu xa giữa “ơn cứu độ” mà Đấng Mê-si-a hứa ban và “vẻ đẹp lộng lẫy” của Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa nơi dân Thiên Chúa. Sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh Giê-ru-sa-lem thiên quốc như Tân Nương được điểm trang lộng lẫy nhờ máu Con Chiên.

Một viễn cảnh như thế không thể là viễn cảnh của vị ngôn sứ thuộc thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Tuy nhiên, cách thức tiếp cận lịch sử như vậy có thể hiểu được nhờ những đau khổ của nhóm nhỏ trung thành còn sót lại, những “người nghèo hèn” nầy mà nỗi khốn khổ của họ lôi kéo lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Và chính qua họ mà lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa trải dài cho đến tận cùng thế giới.

BÀI ĐỌC II (1Tx 5: 16-24)

Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa lô-ni-ca là bản văn cổ xưa nhất của văn chương Ki-tô giáo. Bức thư nầy được viết vào mùa đông năm 50-51. Thánh Phao-lô đã thiết lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào mùa hè năm 50, nhưng ngài đã phải vội vả trốn chạy khỏi thành phố vì người Do thái phẩn nộ tìm cách giết ngài: lời rao giảng của thánh nhân khiến nhiều người Ít-ra-en lẫn lương dân ăn năn trở lại. Vì thế, thánh nhân thật sự bận lòng đến cộng đoàn non trẻ bị hăm dọa nầy. Sau nầy, cộng tác viên của ngài là ông Ti-mô-thê quay trở lại Thê-xa-lô-ni-ca và thuật lại cho thánh nhân những tin tốt lành: dù bị người Do thái đe dọa và quấy nhiễu, cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca non trẻ nầy vẫn kiên vững trong niềm tin của mình. Thế nên, thánh Phao-lô viết bức thư nầy gởi đến họ với cung giọng nồng nàn chan chứa niềm hân hoan và cảm tạ. Đoạn trích thư hôm nay được định vị vào cuối thư bao gồm những lời khuyên bảo và khích lệ.

  1. Vui mừng, cầu nguyện và tạ ơn:

Thánh nhân khuyên ba điều quan trọng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.

Trước hết, “Anh em hãy vui mừng luôn mãi”. Thánh Phao-lô thường nhấn mạnh niềm vui Ki-tô giáo. Niềm vui là hoa quả của Thần Khí, Đấng hằng ở với người Ki-tô hữu ngay cả trong gian nan thử thách. Chính thánh nhân luôn “chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7: 4). Niềm vui này phát xuất từ niềm xác tín là được dự phần vào vương quốc Thiên Chúa ngay từ cõi thế nầy.

Tiếp đó, “Hãy cầu nguyện không ngừng”. Thánh nhân hầu như luôn luôn khuyên cầu nguyện “không ngừng”, “mọi lúc”, “đêm cũng như ngày”. Chung chung, thánh nhân cầu nguyện với Chúa Cha, qua Chúa Ki-tô, nhờ Chúa Thánh Thần. Hiếm khi thánh nhân cầu nguyện trực tiếp với Chúa Ki-tô. Thánh nhân nói, chính nhờ Thần Khí mà chúng ta mới có thể thân thương với Thiên Chúa là “Cha”.

Sau cùng, “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”. Tạ ơn là một cấu tố của lời cầu nguyện, xoay quanh lời chúc tụng. Truyền thống Do thái dành một chỗ đặc biệt cho tâm tình cảm tạ tri ân. Bài ca “Chúc Tụng” (Benedictus) là bài ca cảm tạ tri ân: “Chúc tụng Thiên Chúa…”. Thánh Phao-lô hầu như luôn luôn bắt đầu bức thư của mình với lời chúc tụng Thiên Chúa.

  1. Ân ban Thần Khí:

Đây là lời khuyên thứ hai. Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca coi nhẹ những ân ban Thần Khí. Họ nghi ngại những người được ơn ban Thần Khí. Có lẽ họ là những người Hy lạp phương bắc, ít sôi nổi như những người Cô-rin-tô… Quả thật, thánh Phao-lô viết từ Cô-rin-tô ở đó những ân ban Thần Khí nhiều vô kể. Thánh nhân khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em chớ dập tắt Thần Khí”. Cứ để mỗi người nói lên những ân ban mà mình nhận được, ngay cả ơn ngôn sứ. Điều quan trọng là phải biết “cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn tất cả những gì xấu thì lánh cho xa”.

  1. Ơn thánh hóa:

Đây là đề tài rất tâm đắc với thánh Phao-lô. Sau này, thánh nhân sẽ khai triển sâu xa hơn: chúng ta được thánh hóa nhờ tác động của Thiên Chúa chứ không do nổ lực cá nhân của mình.

Việc kể con người được phân chia thành ba phần: thần trí, tâm hồn và thân xác, không gặp thấy bất cứ nơi nào khác trong các thư của thánh Phao-lô. Đây không là cách diễn tả con người được phân chia thành ba phần. Người Hy lạp cũng như người Do thái đều không quan niệm con người theo cách phân chia như thế. Ở đây, thánh Phao-lô chỉ muốn nói đến toàn diện con người. Theo thói quen của mình, thánh nhân khai triển chữ “toàn diện” đi trước và tô đậm chữ “thần trí” theo sau. Chữ “thần trí” này mang lấy ý nghĩa Ki-tô giáo: chính thần trí con người rộng mở trước tác động của Thần Khí.

TIN MỪNG (Ga 1: 6-8, 19-28)

Tin Mừng hôm nay được trích từ hai đoạn văn khác nhau, một được trích từ Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan (1: 1-18) giới thiệu “chức năng chứng nhân” của Gioan Tẩy giả (1: 6-8) và một khác được trích từ Phần Mở Đầu của Tin Mừng Gioan (1: 19-2: 12) trình bày “lời chứng” của Gioan Tẩy giả (1: 19-28).

  1. Chức năng chứng nhân của Gioan Tẩy giả (1: 6-8).

Tựa Ngôn là một bài thánh thi về “Ngôi Lời” bị ngắt nhịp hai lần để giới thiệu Gioan Tẩy giả là chứng nhân của Đức Ki-tô (1: 6-8 và 15). Lần ngắt nhịp thứ nhất được trích dẫn ở đây như phần mở đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay.

Trong phần mở đầu nầy, tác giả Tin Mừng thứ tư không đề cập đến sứ điệp của Gioan Tẩy giả cũng như ‎ý nghĩa phép rửa của thánh nhân, nhưng tô đậm chức năng “chứng nhân” của thánh nhân. Đối với Tin Mừng Gioan, “chứng nhân” là chức năng quan trọng bậc nhất như tác giả nhấn mạnh trong thư thứ nhất của mình:

“Điều chúng tôi đã nghe,

điều chúng tôi đã thấy tận mắt,

điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,

và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống…

Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe,

chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa…” (1Ga 1: 1-4).

  1. Lời chứng của Gioan Tẩy giả (1: 19-28):

Sau khi giới thiệu chức năng chứng nhân của Gioan Tẩy giả, tác giả Tin Mừng Gioan trình bày lời chứng của Gioan Tẩy giả.

Gioan Tẩy giả phủ nhận tất cả những gì người ta nghĩ tưởng về ông để chỉ tập trung lời chứng của mình vào sự hiện diện của Đấng đến sau ông và hiện có mặt ở đây rồi. Ông không phải là Đấng Mê-si-a mà dân chúng đang mong đợi. Ông cũng không phải là Ê-li-a mà truyền thống truyền tụng theo đó vị ngôn sứ này được rước lên trời và sẽ trở lại trần thế để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a. Ông cũng không phải là ngôn sứ vĩ đại mà Đức Chúa hứa với ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng…” (Đnl 18: 18).

Sau khi đã phủ nhận tất cả những nhân vật nổi tiếng mà người ta nghĩ tưởng về mình, Gioan Tẩy giả công bố sứ điệp: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Có thể ở đây ám chỉ đến niềm tin dân gian vào một đấng mê-si-a ẩn mình. Thật vậy, sách Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh hơn các sách Tin Mừng khác lời loan báo về Đấng Mê-si-a hiện ở giữa họ rồi mà họ không nhận ra.

Tại sao lời chứng của Gioan Tẩy giả vừa phủ nhận về mình vừa khẳng định về Đức Ki-tô mặc lấy một tầm mức quan trọng đến như thế? Để có thể lĩnh hội được Tin Mừng Gioan, chúng ta cần phải giải mã những ẩn ý nầy. Tin Mừng Gioan vốn giàu có biểu tượng nên luôn luôn hàm chứa hai nghĩa: nghĩa trực tiếp và nghĩa ẩn dụ.

  1. Nghĩa trực tiếp:

Theo nghĩa trực tiếp, chúng ta có thể gặp thấy chìa khóa ở nơi việc dàn dựng Phần Mở Đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su thành một tuần lễ, được gọi “Tuần Lễ Khai Mạc” song đối với “Tuần Lễ Cuối Đời” của Đức Giê-su ở thành thánh Giê-ru-sa-lem. Tuần Lễ Khai Mạc được trình bày thành bảy ngày: ngày thứ hai, thứ ba và thứ tư được phân định với biểu thức thời gian “Hôm sau” (1: 29, 35, 43), riêng ba ngày sau cùng được bắt đầu với biểu thức“Ngày thứ ba” (2: 1).

– Ngày thứ nhất: Gioan Tẩy giả làm chứng về chính mình và về Đức Ki-tô trước những chất vấn của các tư tế và các thầy Lê-vi được phái đến từ Giê-ru-sa-lem (1: 19-28).

– Ngày thứ hai: Gioan Tẩy giả làm chứng Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” và là Đấng mà Thần Khí ngự xuống vào lúc Ngài chịu phép rửa (1: 29-34).

– Ngày thứ ba: ông An-rê và người môn đệ nặc danh đi theo Đức Giê-su; đoạn ông An-rê rũ em mình là Phê-rô cùng nhập bọn với mình (1: 35-42).

– Ngày thứ tư: Phi-líp-phê và Na-tha-na-en nhập đoàn với các môn đệ đầu tiên (1: 43-51).

– Ngày thứ năm và thứ sáu: hành trình về miền Ga-li-lê.

– Ngày thứ bảy: tiệc cưới Ca-na, ở đó các môn đệ đã “chứng kiến vinh quang của Ngài” và đã “tin vào Ngài”.

Khi trình bày Phần Mở Đầu cuộc sống công khai của Đức Giê-su như thế, thánh ký thiết lập sự đối xứng với bảy ngày của Công Trình Sáng Tạo, qua đó thánh ký muốn nói rằng Đức Ki-tô giáng trần để thực hiện một cuộc tạo dựng mới, hay đúng hơn, một cuộc tái tạo.

  1. Nghĩa ẩn dụ:

Lời chứng của Gioan tẩy giả được trích dẫn trong Tin Mừng hôm nay được định vị vào ngày thứ nhất trong Tuần Lễ Khai Mạc. Trong công trình sáng tạo thế giới, ngày thứ nhất được đánh dấu bởi việc phân tách Ánh Sáng ra khỏi bóng tối.

Do đó, tất cả ‎ý nghĩa sâu xa của đoạn Tin Mừng nầy chính là Gioan Tẩy giả đến để làm chứng về ánh sáng. Trái lại, các tư tế và các thầy Lê-vi được cử đến và trở về Giê-ru-sa-lem mà không đón nhận phép rửa tỏ bày sự sám hối, vì thế, không rộng mở lòng mình ra để đón nhận ánh sáng. Tuy nhiên, họ đã được loan báo cho biết: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (động từ “biết” theo văn hóa Do thái không chỉ nói lên một sự hiểu biết thuần túy trên mặt trí tuệ nhưng đặc biệt còn cả trọn tấm lòng nữa). Như vậy, giáo quyền Do thái, ngay từ đầu, vẫn đắm mình trong bóng tối. Sự kiện nầy sẽ chi phối cách hành xử sau cùng của họ đối với Đức Ki-tô.

Việc đối lập của cặp tương phản giữa ánh sáng và bóng tối nầy hình thành nên một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng Gioan. Việc đối lập nầy đã được minh chứng rồi ngay từ trong Tựa Ngôn.[Mục Lục]

14. Sống chứng nhân như Gioan Tiền Hô

Sống cho tình yêu. Đó là lời mời gọi mà con người cần đáp trả. Bởi lẽ, con người được sinh ra vì tình yêu và vì thế nên được mời gọi sống cho tình yêu. Gioan Tiền hô đã hoàn thành thiên chức này và ngài mời gọi mỗi người chúng ta cũng hãy sống và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.

Thật thế, Gioan Tiền Hô là một nhân vật quan trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, vì ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi người ta dọn lòng đón mừng Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện đời sống. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô của ngài, đó là làm chứng cho Chúa Cứu Thế.

Gioan rao giảng và làm chứng cho Đấng Cứu Thế: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng”. Sự sáng ở đây là Đấng Cứu Thế. Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành nhất, bất vụ lợi nhất, kiên trì nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đã làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cái chết.

Gioan Tiền Hô đã làm tròn bổn phận của mình là một ngôn sứ là phát loa, là loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan xuất hiện bên bờ sông Giorđan, rao giảng, kêu gọi người ta sám hối. Dân chúng tuôn đến với ông, nghe ông và làm theo điều ông rao giảng…Họ tuôn đến đông đảo khiến cả nhà cầm quyền lẫn các người lãnh đạo trong tôn giáo lúc bấy giờ rất đỗi kinh ngạc. Họ đề cử các phái đoàn đến để tra vấn Gioan để biết xem ông là ai? Gioan không xuất trình cho họ về chứng minh thư của mình, hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, lý lịch, địa chỉ, bằng cấp…Ông chỉ nói rõ sứ mạng và nhiệm vụ của mình: “Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn bị đường đi cho Đấng Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đã có trước tôi, cao trọng hơn tôi nhiều, và tôi không đáng xách dép cho Ngài”. Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian”. Như một người phát ngôn trung thành, Gioan loan báo cho mọi người biết: Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Như thế, Gioan Tiền hô hướng toàn bộ cuộc đời ông về Chúa Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mạc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người mối phúc: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, niềm vui và bình an cho nhân loại.

Không những làm chứng bằng lời nói, Gioan còn làm chứng bằng hành động và gương sáng. Gioan kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Lời giảng của Gioan đi đôi với hành động của Ngài. Thực vậy, Gioan đã lấy cuộc đời khổ hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Giavê, ngài đã sống khó nghèo để làm chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Gioan rất vui mừng nhường môn đệ cho Chúa Giêsu, không một chút ghen tương, không một chút nuối tiếc. Ông làm chứng Chúa Giêsu mới là vị tân lang của họ, còn ngài chỉ là bạn hữu đến sửa soạn tiệc cưới mà thôi. Gioan kêu gọi người ta thực hành bác ái và ngài đã thực sự mến Chúa yêu người. Gioan kêu gọi người ta hy sinh và ngài đã sống khắc khổ và hy sinh vì người khác. Như thế, ngài được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là vì ngài chỉ nói những gì ngài đã sống, đã làm, đã kinh nghiệm. Lời nói và gương sống của Gioan đã làm chuyển biến lòng người. Đời sống và gương sáng của ngài đã thuyết phục được mọi người.

Sau hết, Gioan luôn trung thành với nhiệm vụ của mình cho đến chết. Ngài làm chứng cho Sự Thật bằng chính cái chết của mình. Ngài tố cáo cuộc hôn nhân bất chính của vua Hêrôđê với bà Hêrôđia, vợ của anh vua, nên ngài đã bị tống giam vào ngục. Cuối cùng, Ngài phải chết. Ngài đã chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo lý bị chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của mình. Cuộc đời chứng nhân của Gioan Tiền Hô là một bài học đáng giá cho chúng ta.

Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm ra khỏi con người ích kỷ, nhỏ bé, tầm thường của mình để Lời Chúa và tình yêu tự lòng mình thúc đẩy để chúng ta có thể sống đời sống mới, đời sống chứng nhân cho Chúa, cho tình yêu.

Ngày nay, nếu ai đó hỏi chúng ta là ai, chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Chắc hẳn, chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi tên tuổi, hay đưa cho họ xem quyển sổ gia đình công giáo của mình đã ghi tên vào đạo Công Giáo, đã được rửa tội, hoặc không chỉ nói bằng lời mà phải thể hiện chính bằng đời sống chứng nhân của mình cho dù bị thiệt thòi vì Chúa Kitô. Thật thế, trọn cả cuộc đời chúng ta phải nói về Chúa Kitô, phải loan báo Chúa kitô và sứ mạng của Người. Đồng thời, chúng ta phải sống chứng nhân bằng những việc làm cụ thể trong cuộc sống mình, sống làm chứng cho tình yêu đối với Chúa Kitô và đối với con người. Hẳn là Chúa không đòi chúng ta phải sống khắc khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đòi chúng ta phải là chứng nhân, sống như Gioan trong đời sống hiện tại của mình, nghĩa là chúng ta phải là ánh sáng, là muối, là men của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy. Chúng ta làm chứng cho Chúa chính cách sống của mình, sự chọn lựa như chính Chúa Kitô đã sống. Tôi phải sống cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Chúa Kitô, đem niềm vui đến cho mọi người. Làm chứng tá như thế, người ta sẽ nhận ra chúng ta chính là Kitô hữu, người có Chúa Kitô, người sống niềm tin Kitô. Vì thế, mỗi người phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống và là chứng tá cho Chúa kitô nơi gia đình, nhà trường, nơi chốn làm việc và ngoài xã hội. Mỗi người chúng ta hãy sống và yêu mến việc làm chứng cho Chúa kitô để mọi người nhận ra và đón nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô.

Hơn nữa, để can đảm dám sống và dám chết đi mỗi ngày cho Chúa Kitô, là những người Kitô hữu, những người yêu mến Chúa Kitô, yêu mến Chúa Kitô như người bạn như ân nhân, như là lẽ sống, như là người quan trọng nhất của chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta sống vì ngài, sống cho ngài và trở nên thuộc về ngài. Chúng ta bước đi trong tình yêu của Ngài. Tình yêu sẽ giúp chúng ta chiến thắng nghịch cảnh, bản thân.

Chúa Nhật hôm nay được gọi là “Chúa Nhật Vui”. Đó là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Chúng ta hãy thể hiện niềm vui có Chúa Kitô, niềm vui đợi chờ Chúa Kitô đến bằng đời sống chứng tá, bằng đời sống yêu thương chân thành của mình.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin củng cố lòng mến cho chúng con và thêm đức tin để chúng con sống vui, sống thêm tin yêu vào Thiên Chúa. Đó còn là cách thế chúng con là chứng cho Chúa giữa đời. Amen.[Mục Lục]

15. “Hãy vui lên” – Barbara E. Reid.

(Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

“Có một người ở giữa các anh mà các anh không nhận ra” (Ga 1,26).

Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Gaudete, hạn từ Latinh mang ý nghĩa “Hãy vui lên”. Sứ điệp “Hãy vui lên” được dàn trải trong cả 3 bài đọc. Niềm vui của dân Israel được trở về cố hương sau cuộc lưu đày, cùng với niềm vui của Đức Maria được diễn tả qua kinh Magnificat chúng ta đọc lên trong Thánh vịnh đáp ca, và niềm vui mọi nơi mọi lúc mà Thánh Phaolô nói tới trong thư gửi giáo đoàn Thessalonica, là tư tưởng chính của chủ đề phụng vụ hôm nay. Diễn bày sự vui mừng trong mọi trạng huấn mà cả ba bài đọc nhắc đến, không phải là những tình cảm hời hợt nhất thời, hay chỉ là một ý niệm trừu tượng mông lung. Đây chính là niềm vui sâu tận trong tâm hồn, khi chúng ta nhận ra những dấu chỉ rõ rệt diễn bày tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.

Isaia vạch dẫn những lý do rất quen thuộc để kiến tạo niềm vui: Những tâm hồn tan nát được chữa lành, người bị giam cầm được phóng thích, sự giải cứu cho những ai bị bắt bớ. Đây là những điều tương hợp, giống nội dung khi Đức Giêsu nói về sứ mạng cứu thế của Ngài (Lc 4, 18-19). Những động thái giải phóng này được nói tới trong sách Lêvi chương 25 khi đề cập đến năm hồng ân. Cứ 50 năm một lần, người Do Thái cử hành năm hồng phúc này. Mọi nợ nần được xóa bỏ, đất đai bị cầm cố được trả về cho chủ nhân, những ai bị giam giữ được tha bổng. Chúng ta không biết ngày xưa năm hồng phúc, như sách Levi nhắc tới, được tổ chức như thế nào, nhưng ý nghĩa của nó vẫn được lập lại ngày hôm nay, nhất là trong mùa vọng này.

Khi con người bị nợ nần về kinh tế, hoặc bị giam giữ và tự do bị tước đoạt, thì quà tặng năm hồng ân quả là quý giá đối với họ. Họ chẳng tốn kém gì nhưng chỉ cần rộng mở tâm hồn và đón nhận hồng ân được ban trao. Ví dụ, khi tôi biểu tỏ sự tha thứ cho một ai đó đã xúc phạm hay nợ nần đối với tôi, tôi có cảm giác như đang khoác cho họ “chiếc áo choàng cứu độ”, hoặc giống như một chiếc “áo công chính” được mặc vào cho cả hai chúng tôi, tựa như chúng tôi đón nhận chính tình yêu hòa giải và ơn cứu độ từ nơi Thiên Chúa. Đây qủa là một quà tặng được trao ban rất hào phóng, còn quý hơn cả những “bảo ngọc trân châu của chú rể” hay những “đồ trang sức quý báu của cô dâu”. Đó là quà tặng làm khởi phát một mùa xuân mới, giữa những tháng ngày mùa đông rét buốt.

Trong lời kinh Magnificat, Đức Maria diễn tả niềm vui, không chỉ vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nhưng còn là vì tình yêu thương của Chúa luôn trải rộng từ đời nọ sang đời kia. Đức Maria đã cất lên lời ca khen “Kẻ đói nghèo Chúa ban cho đầy ơn, kẻ tham lam chỉ biết làm giàu cho chính mình, sẽ bị đuổi về tay trắng”. Trong cái nhìn của Đức Maria, sự công chính của Thiên Chúa không phải là thay đổi vận may của kiếp người, giàu trở thành nghèo, đói khát trở nên no đủ. Nhưng còn hơn thế nữa, theo nhãn quan Kinh Thánh, những ai sống trong tương quan thân tình với Thiên Chúa, sẽ không bao giờ phải đói, phải khát. Để thực hiện điều này, những người giàu có và sống hưởng thụ cho chính mình, phải loại bỏ sự ích kỷ nơi họ, để những ai bị bóc lột do sự tham lam vô độ của kẻ khác, có quyền được ăn, được sống và được thỏa mãn mọi nhu cầu chính đáng.

Làm cách nào chúng ta có thể vun trồng nơi chính mình một con tim quảng đại và rộng mở để có thể phân phát quà tặng như thế. Trong thơ gửi tín hữu Thessalonica, Thánh Phaolô khuyên mời chúng ta thực hành ba phương thức: “Hãy vui lên, hãy cầu nguyện và hãy dâng lời tạ ơn Chúa”. Cả ba cách thế này giúp chúng ta biết quên mình để tìm lại chính bản thân. Nếu chúng ta quy hướng cuộc đời về nơi Thiên Chúa, Thần Khí sẽ lưu lại và đốt nóng tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta biết phân định chân lý và thực hành lời Chúa truyền dạy. Khi chúng ta biết tạ ơn Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc, chúng ta sẽ loại bỏ được mọi cuồng vọng ích kỷ hay sự khoe trương trống rỗng bên ngoài. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta nhận ra rằng, khi chúng ta biết thực hành như thế, thì đó chính là quà tặng Chúa ban. Thiên Chúa đấng luôn tin tưởng, sẽ lấp đầy nơi chúng ta những thiếu sót.

Trong Tin Mừng, chúng ta lắng nghe lời giải trình của Gioan tiền hô, khi ông mượn lời của ngôn sứ Isaia để giới thiệu về chính Ngài. “Ngài chỉ là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy san phẳng đường lối Chúa”. Khi trả lời cho các lãnh đạo tôn giáo đến hỏi xem ông là ai, trước tiên Gioan khẳng quyết rằng, ông không phải là nhân vật như họ nghĩ tưởng. Gioan nói rõ, ông không phải là Đức Kitô, người “được xức dầu”, không phải là Messia theo cái nhìn của người Do thái. Hạn từ christos tiếng Hy lạp, hoặc messia tiếng do thái, ám chỉ về người được Thiên Chúa xức dầu, để đặc cách thực thi những phần vụ chuyên biệt mà Thiên Chúa giao phó, ví dụ các vua (Tv 2,2), các tư tế (Lv 3-5), hoặc các ngôn sứ (1V 19,16). Thời Đức Giêsu, người Do thái đang mong mỏi Đấng Cứu Độ, Đấng “được xức dầu” sẽ đến. Nhiều người vẫn kỳ vọng và nghĩ tưởng rằng Êlia sẽ trở lại để thanh tẩy hàng ngũ tư tế (Mal 3,2-4), đồng thời khôi phục các chi tộc Israel (Hc 48,10). Một số khác lại đợi chờ một vị ngôn sứ như Moisen (Đệ nhị luật 15,18). Gioan đã khẳng quyết ông không phải là một trong các vị đó như họ suy nghĩ hay mơ tưởng. Ngài chỉ là một con người bình thường, nhưng sẽ vạch dẫn cho họ biết Đấng sẽ đến là ai. Ngài không phải là “ánh sáng”. Ngài đến để làm chứng cho ánh sáng và dẫn đưa mọi người đến với niềm tin, để họ tin vào những gì ông làm chứng. Dầu sao, ở một nghĩa nào đó, Gioan cũng chính là ánh sáng soi dẫn người khác, để họ nhận ra Đức Kitô. Cũng như trong căn phòng tối tăm, một nguồn ánh sáng được thắp lên để người khác nhờ ánh sáng đó, có thể nhìn ra cảnh vật. Ánh sáng chỉ là phương tiện. Cũng vây, Gioan không phải là người để chúng ta quy chiếu về, nhưng Ngài chỉ dẫn, để chúng ta nhận ra và đến với Đức Kitô, là chính Ánh Sáng thật. Đấng đó đang ở giữa các ông, đang ở giữa chúng ta. Thế, chúng ta có nhận ra Ngài hay không?[Mục Lục]

16. Làm chứng về ánh sáng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).

Ánh sáng là gì? Một câu hỏi không dễ dàng trả lời. Ánh sáng ở đâu? Dường như người ta hơi khó khăn khi muốn trực tiếp chỉ cho kẻ khác thấy ánh sáng, mặc dù ai cũng công nhận là có ánh sáng. Vì trong thực tế người ta chỉ thấy vật này, người kia, cảnh nọ nhờ có ánh sáng. Trái lại, khi hỏi bóng tối ở đâu thì người ta dễ hình dung ngay là khi ta mở mắt mà không thấy gì cả, chỉ thấy một màu đen bao trùm không gian trước mặt.

Không kể các vật phát sáng như mặt trời, bóng đèn điện…, người ta biết có ánh sáng nhờ thấy các sự vật mà đúng hơn nhờ các sự vật phản chiếu ánh sáng. Như thế nhờ có ánh sáng mà các sự vật (cũng như con người) xuất hiện như chúng là. Và ngược lại khi các sự vật được thấy như chúng là thì người ta nhận biết có ánh sáng. Chúng ta có thể kết luận rằng ánh sáng là cái làm cho con người, sự vật được nhìn thấy, nghĩa là hiện hữu như chính mình.

Gioan được sai đến để làm chứng về ánh sáng. Chúng ta dễ dàng tin nhận ánh sáng ở đây chính là Đức Kitô. Chúa Kitô là ánh sáng, đến thế gian để soi sáng cho mọi vật mọi loài, nhất là cho con người thấy mình là ai trong các mối tương quan. Chúa Kitô cũng chính là sáng sáng soi dẫn con người bước đi trên chính lộ. Như thế Ánh sáng đến thế gian là để cho con người biết mình là ai và phải sống như thế nào cho đúng với ý Đấng Sáng Tạo đã dựng nên nó từ thuở ban đầu.

Gioan đã làm chứng cho ánh sáng là làm chứng cho Đức Kitô qua việc tự biết mình là ai và đã sống đúng phận vụ của mình. Dù được dân chúng tín nhiệm và tuôn đến đông đảo, dù được nhiều người, thuộc nhiều thành phần xã hội kính trọng và nghe lời khuyên bảo, Gioan đã thẳng thắn tuyên bố rằng ngài không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là Êlia hay một ngôn sứ nào đó mà chỉ là người dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Ngài ý thức phận vụ của Ngài là làm phép rửa bằng nước để kêu gọi sự sám hối còn Đấng Thiên Sai mới thanh tẩy dân bằng Thánh Thần, nghĩa là Đấng Thiên Sai mới là Người thông ban ân lành. Đấng Thiên Sai là Đấng được Thánh Thần “xức dầu, sai đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo khó, băng bó những tấm lòng tan nát, cong bố lệnh ân xá cho lẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân…” (Is 61,1).

Phận vụ của người dọn đường là làm cho con đường nên ngay thẳng và sạch đẹp. Khi đã hoàn tất công việc thì người dọn đường phải rút lui để cho Đấng phải đến, bước đi. Gioan nhìn nhận mình chỉ phù rể, hân hoan thấy ngày của tân lang bừng sáng (x. Ga 3,29), thậm chí không đáng cởi giây giày cho tân lang (x.Ga 1,27). Và Đức Kitô cần lớn lên còn Ngài, Gioan thì phải nhỏ lại (x.Ga 3,30). Hiện diện và sống như mình là, đồng thời vuông tròn sứ mệnh đã lãnh nhận là cách thế minh chứng về ánh sáng.

Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng thế gian lại không thích ánh sáng, không đón nhận ánh sáng (x. Ga 1,11). Quả thật, mỗi khi đã vương phải vòng tội luỵ thì con người thích ẩn mình đi (x. St 3,10). Ánh sáng làm con người thật của chúng ta bị phơi bày và chúng ta sẽ bị trách cứ, bị tố cáo, bị xét xử, nếu chúng ta lỗi lầm, phạm tội. Tuy nhiên đây chính là tiền đề của sự hối cải, ăn năn. Làm sao chúng ta có thể ăn năn, hối cải nếu tiên vàn chúng ta không nhận ra con người thật của mình, không nhận ra tội lỗi mà mình đã phạm?

Đối với những người khiêm nhu, muốn vươn lên, thoát khỏi ách nô lệ thần dữ, nô lệ tội lỗi thì việc ánh sáng đến là một hồng ân vô bờ, là một tin vui khôn xiết. Trái lại với những người cao ngạo, cố chấp, thì ánh sáng đến sẽ trở thành lời tuyên cáo dứt khoát và rõ ràng. Vì họ cố chấp, hay kiêu ngạo chối từ ánh sáng, nên họ mãi vẫn chìm ngập trong bóng tối tội lỗi. ” Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39).

Là Kitô hữu, chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô là ánh sáng thế gian. Cũng như Gioan Tẩy giả, chúng ta có bổn phận làm chứng về ánh sáng. Việc trang trí đèn hoa, máng cỏ, cây thông, việc tổ chức lễ lạc linh đình…vào dịp kỷ niệm mừng ngày Chúa Giáng Sinh quả là một việc nên làm và đáng làm. Tuy nhiên, để làm chứng về ánh sáng chỉ bằng những việc ấy mà thôi thì chưa đủ và hầu chắc sẽ ít hữu hiệu. Không gì hơn, noi gương vị Tiền Hô, hãy sống thật cái căn tính và ơn gọi của mình. Bà con lương dân, anh em khác đạo và cả anh em vô thần sẽ có cơ may nhận ra ánh sáng khi chúng ta hiện diện, sống như là những người Kitô hữu, nhũng người đang có Chúa Kitô trong mình. Đồng thời chúng ta cần vuông tròn giới lệnh căn bản và cũng là sứ vụ nền tảng mà Chúa Kitô đã trao ban đó là “yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta” (x.Ga 15,12).

Giáng Sinh sắp lại về, mỗi người chúng ta đã, đang và sẽ làm gì đây để cho người anh chị em xóm giềng, lân cận, nhận ra Chúa Kitô là ánh sáng trần gian, là ánh sáng chân lý, ánh sáng cứu độ? Không dám ước mơ có nhiều người, chỉ cần có một người, nhờ tôi mà tin Chúa Giêsu Kitô chính là ánh sáng chân lý, nhờ tôi mà đón nhận ánh sáng cứu độ, thì tôi đang sống Mùa Vọng đượm đầy ý nghĩa.[Mục Lục]

17. Hãy vui lên – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Theo truyền thống dân tộc Do Thái, năm đại xá của Đức Chúa, là năm đại phúc cho người nghèo, cho người bị tù đầy. Năm đó, có nợ ai bao nhiêu, cũng được xóa; có đang bị ở tù, cũng được trả tự do. Đức Yêsu là Đấng đến để công bố năm toàn xá cho toàn thể nhân loại. Vì thế, hãy vui lên, hỡi nhân trần.

  1. Tin Mừng Cho Người Nghèo

Con người sống trên trần gian này cảm nghiệm bao nhiêu nỗi khổ: nỗi khổ vật chất và tinh thần. Ai càng coi trọng tiền bạc và vật chất, càng cảm thấy khổ nhiều. Tuy nhiên, đôi khi người nghèo không cảm thấy khổ, mà những người đặt nặng giá trị vật chất lại cho rằng họ khổ.

Người nghèo cũng có niềm vui riêng của họ, trời xanh, khí mát trong lành, đất trời đẹp tuyệt vời và vô tận. Tuy vậy, nếu người nghèo không thanh thoát vượt lên được cái bình thường, thì cái nghèo, và đặc biệt là tình trạng bần cùng, ảnh hưởng thê thảm trên con người. Nàng Kiều bán mình chuộc cha cung là một thí dụ. Và từ cái khổ này dẫn tới cái khổ khác; đến độ người ta thấy “đời là bể khổ.” Nghèo, tù, tội, là những điều gây cho bao người đau khổ dằn vặt.

Hôm nay, tin mừng đã được công bố: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn tan vỡ, loan báo ơn giải thoát cho những kẻ bị bắt, tự do cho kẻ tù đày, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.” Chính Thiên Chúa giải phóng con người, cho con người tìm được sự giải phóng, tự do, niềm vui và hạnh phúc.

  1. Đấng Đến Sau Tôi

Cái nghèo vẫn còn tiếp tục. Cái nghèo như gắn chặt với cuộc đời của một số người như hình với bóng. Con người vẫn khổ, vẫn miệt mài đi tìm miếng cơm manh áo. Những người đã có miếng cơm áo thì lại muốn có nhiều hơn nữa. Con người vẫn không thoát khỏi cảnh khổ. Nỗi khổ do nghèo vật chất dường như giúp con người thấy nỗi khổ của nghèo tinh thần. Dường như khổ vật chất không làm con người khổ, mà nghèo tinh thần làm con người khổ.

Yoan Tẩy Giả sống đơn sơ trong cảnh nghèo. Ngài như một lời chứng cho nỗi khổ vì nghèo tinh thần, vì không thấy được ánh sáng sự thật, chứ không phải vì nghèo vật chất. Hơn nữa, Yoan Tẩy Giả còn làm chứng cho một Đấng khác nữa: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng Đấng đó sẽ làm phép rửa cho anh em với Thánh Thần và lửa.” Đấng đó là Đấng mà mọi người phải mong chờ, cho dù lúc đó người ta và cả Yoan Tẩy Giả cũng chưa biết người đó là ai.

Đức Yêsu như tất cả mọi người đã sống cái nghèo đến tận cùng: sinh trong hang chiên cừu, ăn uống mặc như người nghèo, làm nghề của những người nghèo, ngay cả khi đi rao giảng vẫn nghèo, có lúc đi tìm trái vả ăn cho đỡ đói cũng không có (Mt.21, 18-19). Tuy vậy, Đức Yêsu là người làm trọn lời tiên tri trong sách Isaya, Ngài công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Ngài tới để làm cho người mù được thấy, người tù được trả tự do, băng bó những tâm hồn tan vỡ. Đức Yêsu mang lại cho người ta thấu hiểu sự thật, và sự thật sẽ giải phóng con người khỏi mọi phiền não, tù tội ràng buộc tinh thần. Ngài giúp con người vươn lên, vươn lên tới Thiên Chúa là đỉnh bình an hạnh phúc. Hãy vui lên vì với Đức Yêsu, chúng ta biết con đường giải thoát và hạnh phúc đích thực.

  1. Hãy Vui Mọi Lúc

Như một người đã được giải phóng, thánh Phaolô viết cho dân thành Thessalônica: “hãy vui hạnh phúc mọi lúc.” Một người rao giảng tin mừng Đức Yêsu phục sinh, luôn bị phản đối, rượt đuổi và bắt bớ, mà khuyên người ta hãy sống vui và hạnh phúc được sao? Nếu đúng, người đó phải sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.

Tại sao Phaolô lại được như vậy? Vì Ngài đã đạt đạo, đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã chấp nhận Đức Yêsu như lý tưởng và Chúa của mình. Ngài đã thấy được trần gian chóng qua, chỉ có thực tại bền vững là chính Thiên Chúa, và cũng là bình an và hạnh phúc của Ngài. Với quan niệm sống và chọn lựa như vậy, Ngài sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.

Chỉ khi nào con người chọn Thiên Chúa trên hết, phó thác tất cả cho Thiên Chúa, thì con người mới sống chấp nhận thực tại và thanh thản trước mọi biến cố và nghịch cảnh. Thiên Chúa đang thực hiện việc giải phóng con người qua Đức Yêsu, qua việc cho con người thấy cách sống giúp con người bình an hạnh phúc. Cách sống đó chính là cách sống của Đức Yêsu. Đức Yêsu cũng không được miễn trừ khỏi bao cám dỗ, nhưng Ngài đã vượt qua và vẫn trông cậy vào Thiên Chúa ngay cả khi không thấy dấu chỉ cho thấy như vậy. Biến cố Đức Yêsu kêu trời “lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” là một bằng chứng. Ngay cả như vậy, chúng ta tin rằng, Ngài vẫn bình an và phó thác.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. “Hãy bình an hạnh phúc mọi lúc.” Liệu điều này có thể xảy ra không?
  2. Làm sao để có thể bình an hạnh phúc trong mọi nơi mọi lúc?
  3. Bạn có thể gặp được Đức Yêsu không? Xin đưa lý lẽ cho câu trả lời của bạn?[Mục Lục]

18. Anh em hãy vui lên

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta: “Hãy tỉnh thức” (Mt 24, 44). Sang Chúa nhật thứ II, tiếng hô lớn của Gioan Tẩy Giả vọng vang: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Is 40, 3). Chúa nhật thứ III hôm nay, Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng như Chúa nhật IV Mùa Chay, nhằm đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete – Hãy vui lên”.

Vui lên “Gaudete” là chủ đề của Chúa nhật này. Vui lên như Isaia: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (Is 61, 10).Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ CN III Mùa Vọng).

Với những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Is 61, 1-2).Và làm sao không thể không mừng “vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân” (Is 61, 10-11).

Đọc Trang Tin Mừng (Ga 1, 6-8. 19-28), chúng ta bắt gặp một nhân vật có vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị mừng Chúa Giêsu giáng sinh đến với nhân loại là Gioan Tẩy Giả. Ngài xuất hiện trong tư cách là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Chúng ta đang vui sẵn, sự xuất hiện của ngài làm cho chúng ta vui thêm, vì lời hứa được thành hiện thực.

Gioan rút lui vào hoang địa để sống một cuộc sống rất khổ hạnh, và qua cuộc sống của mình, ông mời gọi dân chúng hoán cải; ông làm phép rửa trong nước, một nghi thức thống hối đặc biệt, khác với nhiều nghi thức thanh tẩy bên ngoài của các giáo phái thời đó, khiến những người Do thái từ Giêrusalem phải sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi xem: “Ông là ai?” Chúng ta phải cám ơn họ, vì nhờ họ mà chúng ta biết được Gioan là ai?

Câu trả lời của thánh nhân thật là khiêm tốn lạ thường, ông không phải là Đức Messia, không phải là ánh sáng. Không phải là Elia trở lại trái đất, cũng không phải là một vị đại ngôn sứ đang được chờ đợi. Ông là vị tiền hô, một chứng nhân, hoàn toàn tùng phục Đấng mà ông rao giảng, ông là một tiếng kêu trong hoang địa.

Thế giới cần tiếng kêu của chúng ta: Chúng ta đang sống trong một thế giới, thu hẹp hơn là một đất nước với chủ nghĩa vô thần, phủ nhận Thiên Chúa, sống như thể không có Thiên Chúa, và chúng ta cũng cảm thấy vắng bóng Thiên Chúa. Người kitô hữu có bổn phận phải cất lên những tiếng kêu vang vọng khắp bốn phương trời rằng: “Có Thiên Chúa hiện hữu, Chúa luôn ở gần kề, cả khi Thiên Chúa có vẻ vắng bóng”.

Gioan là một tiếng kêu trong hoang địa, là một chứng nhân của ánh sáng. Đó chính là sứ mạng của Mùa Vọng: tức là trở thành những chứng nhân của Ánh Sáng và chúng ta chỉ có thể là chứng nhân như vậy nếu chúng ta mang ánh sáng trong mình, nếu chúng ta không những xác tín là có ánh sáng, nhưng cả chúng ta cũng thấy một chút ánh sáng. Và trong Giáo Hội, trong Lời Chúa, chúng ta cử hành các bí tích, trong bí tích giải tội, với sự tha thứ mà chúng ta nhận lãnh, trong việc cử hành Thánh Lễ qua đó Chúa hiến mình trong tay và trong tâm hồn chúng ta, chúng ta chạm đến ánh sáng và nhận lãnh sứ mạng này là trở thành những chứng nhân, chứng tỏ có ánh sáng và mang ánh sáng vào trong thời đại chúng ta”.

Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô cũng đã quả quyết, do kinh nghiệm của ngài: “Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình” (Le Confessioni, III, 6,11).

Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Đức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Đấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.[Mục Lục]

19. Anh em hãy vui lên – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hành trình Mùa Vọng, với đích điểm là lễ Giáng Sinh. Chúa nhật thứ I, Lời Chúa mời gọi chúng ta: “Hãy tỉnh thức” (Mt 24, 44). Chúa nhật thứ II, Gioan Tẩy Giả thôi thúc chúng ta: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Is 40, 3). Hai tuần trước như là tiền đường dẫn chúng ta tiếp bước với niềm vui của Chúa nhật thứ III Mùa Vọng.

“Gaudete – Hãy vui lên” là chủ đề của Chúa nhật này. Màu sắc Phụng vụ đang màu tím chuyển sang hồng, nhằm đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete – Hãy vui lên”, như Isaia:“Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (Is 61, 10).Niềm vui thánh thiêng ấy được biểu lộ qua lời nguyện: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ Cn III Mùa Vọng).

Với những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Is 61, 1-2).Và làm sao không thể không mừng”vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân” (Is 61, 10-11).

Nhưng đâu là lý do để con người vui mừng hân hoan? Thưa, Chúa chính là niềm vui của nhân loại. Tất cả chúng ta đều khao khát niềm vui, mỗi gia đình, mỗi dân tộc luôn cầu mong được hạnh phúc. Vui vì có Thiên Chúa ở cùng, vui vì ở gần bên Chúa, được sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi giáng trần, Chúa Giêsu đã mang đến cho con người mọi nơi, mọi thời niềm vui thiêng thánh. Nếu không có Chúa Giêsu, sẽ không có niềm vui, niệm vui ơn cứu độ.

Vào Chúa nhật trung tâm của Mùa Vọng, chúng ta được mời gọi vui lên và sống hy vọng, đồng thời trở nên sứ giả của niềm vui: “Anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc hãy cảm tạ Chúa” (1Th 5,16-17). Nếu điều này trở thành lối sống của chúng ta, thì Tin Mừng có thể thấm nhập vào mọi nhà và giúp đỡ con người cũng như gia đình tái khám phá rằng thực sự có ơn cứu độ nơi Ðức Kitô. Trong Ngài, người ta có thể tìm thấy sự bình an nội tâm và trợ lực để đương đầu mỗi ngày với những trạng huống khác nhau trong cuộc sống.

Niềm vui là một đặc tính thiết yếu của đức tin. Cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương, viếng thăm và cứu độ là động lực làm cho chúng ta vui mừng; chúng ta biết Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế, tự hiến thân mình vì chúng ta là lý do chính để người tín hữu vui mừng. Người Kitô hữu buồn, bởi họ không nhìn thấy những điều Thiên Chúa đã làm cho họ, và vì thế, sẽ không có sự hiệp thông. Niềm vui của người Kitô hữu phát xuất từ tâm tình tạ ơn tạ ơn, nhất là vì tình yêu thương của Chúa thể hiện nơi chúng ta; mỗi Chủ nhật chúng ta làm điều đó bằng việc cử hành Thánh Lễ.

Tin Mừng trình bày cho chúng nhân vật Gioan Baotixita, tiền hô Đấng Cứu Thế. Ông là người cao trọng sinh ra bởi người nữ; nhưng khi được hỏi: Ông là ai? Ông khiêm tốn trả lời, “Tôi không phải là Đấng Kitô…” (Jn.121); “Tôi làm phép rửa bằng nước. Nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi” (Ga 1,26-27). Chúa Giêsu là Đấng mà muôn dân trông đợi; Người là Ánh Sáng chiếu soi trần thế.

Tin Mừng không phải là một sứ điệp xa lạ, càng không phải là một mớ học thuyết giữa thế gian, nhưng là Tin Mừng nhằm thỏa mãn những khát vọng sống của con người, vì Tin Mừng nối kết Thiên Chúa với chúng ta bằng việc nhập thể làm người của Con Chúa. Tất cả các Kitô hữu đều được mời gọi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về đức tin đã lãnh nhận. Là môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta được kêu gọi mang hồng ân ánh sáng, ngoài lời nói, gương lành, còn trở nên gương mẫu về đời sống đức tin.

Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô với kinh nghiệm của ngài đã quả quyết: “Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình” (Le Confessioni, III, 6,11).

Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.[Mục Lục]

20. Làm chứng cho Đức Kitô – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:

Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian dài bên bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì có một bà cụ xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, áo quần bẩn thỉu rác rưới. Bà vừa lẩm bẩm một mình, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát rồi cho vào giỏ.

Cha mẹ lũ nhỏ gọi chúng lại và bảo chúng hãy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà mỉm cười với họ, nhưng mọi người không hề tỏ dấu đáp lại.

Nhiều tuần sau, cả gia đình mới biết rằng đã lâu lắm rồi, người đàn bà ấy đã tự nguyện, làm công việc lượm các mảnh thủy tinh rơi rớt trên bãi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.

“Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết” (Ga 1,26).

Sứ mạng của Gioan Tiền Hô là làm chứng cho Sự Sáng đích thật chính là Đức Kitô. Đức Kitô đến để chiếu ánh ssng cho trần gian. Toàn bộ Tin Mừng chỉ là để trả lời cho câu hỏi này: “Giêsu Nagiaret, Người là ai?”. Gioan không dùng danh từ Phúc Âm mà chỉ dùng từ ngữ “chúng nhân”. Động từ “làm chứng” được gioan nhắc đến 33 lần. Tin Mừng Gioan được khai mở bằng lời chứng của Gioan Tiền Hô và kết thúc với minh chứng của Gioan tong đồ: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra. Chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thực” (Ga 21,24).

Qua lối sống khỏ hạnh khác ngời, qua lời rao giảng sám hối, và qua lời chứng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa chon gay đường Chúa đi” (Ga 1,23), đã minh chứng Gioan là vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế,là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan chỉ đứng ra làm chứng và báo trước ngày Chúa xuất hiện, rồi rút lui vào bóng tối.

Có thể nói, Gioan là người tôi tớ, còn đức Giêsu là ông chủ. Gioan là đèn soi, còn Đức Giêsu là ánh sáng, Gioan là tiếng kêu, và Đức Giêsu là lời hằng sống.

Như Gioan, người tín hữu cũng sẽ là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, Teilhard de Chardin đã ví von rất sống động: “Ánh sáng xuyên qua những áng mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán được có Đức Kitô”. Bà cụ trong câu chuyện của Cha Mello phản ánh một tấm gương sáng ngưòi về long thương người, luôn quan tâm tới kẻ khác. Cụ sống khó nghèo, âm thầm, hy sinh thời giờ sức lực của mình, để cho niềm vui của người khác được trọn vẹn.

Martin Luther King viết: “Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cuộc sống của mình”. Có những tâm hồn dần dần cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ tới. J. Basquin nói: “Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”.

Ước gì khi nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đã nói về Thánh Gioan Vianey “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người”.

* Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng lời rao giảng và bằng gương sáng đời sống chúng con. Xin cho chúng con biết sống khiêm nhường: không hiếu danh cũng chẳng ganh tị, không cao ngạo cũng chẳng cậy uy. Nếu có khi nào thành công việc gì, xin cho chúng con biết hướng vinh dự về cho Chúa, để qua đó, ngươì ta nhận biết Chúa là Đấng quyền năng và yêu thương con người. Amen.[Mục Lục]

21. Sự sáng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng là Chúa Nhật vui mừng. Đốt lên cây nến thứ ba màu hồng của Vòng Hoa Mùa Vọng. Mầu hồng là mầu của sự hy vọng vì ơn cúu độ đã gần kề. Phụng vụ lời Chúa hôm nay khơi dậy niềm hy vọng cứu độ trong dân thánh. Sau bao nhiêu năm lưu đầy xa xứ, dân Chúa chọn đã khổ sở vì làm tôi đòi, mất quyền tự do thờ phượng và bị ép buộc từ bỏ lề luật của Chúa. Nay Dân được giải thoát trở về Giêrusalem xây dựng lại đền thờ và thanh tẩy tâm hồn. Các tiên tri đã gióng lên lời an ủi là ơn cứu độ đã gần kề. Mọi người hãy ăn năn sám hối đón nhận lời hứa ban Đấng Cứu Độ.

Sách tiên tri Isaia từ chương 56-66, được đa số các nhà chuyên môn nghiên cứu Thánh Kinh xếp vào Sách Isaia Thứ Ba. Sách viết về hoạt động của dân Do-thái sau thời lưu đầy trở về khoảng năm 538 B.C. tại Giêrusalem. Căn bản thần học: Yahweh là Thiên Chúa, Ngài bênh đỡ người công chính và tiêu diệt kẻ hung ác. Người Do-thái không còn lưu đầy ở Babylon mà trở về Giêrusalem. Tiên tri diễn tả lời rao giảng qua một giọng điệu mới mẻ với dân Chúa. Tiên tri ghi nhận những nghi thức thờ phượng, ăn chay hãm mình, giữ ngày Sabát, dâng hy tế như là việc thờ phượng và mời gọi tập trung đời sống nơi Đền thờ Yahweh. Chúa sẽ phán xét những người tội lỗi đã chối bỏ tôn thờ Thiên Chúa.

Sách Isaia nhắc nhở mọi người rằng lời hứa của Thiên Chúa với các tổ phụ năm xưa vẫn còn có giá trị và mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối và quay trở về với Yahweh. Thiên Chúa luôn trung thành với lời đã hứa và chuẩn bị ban ơn cứu độ. Tiên tri Isaia loan báo về Đấng Cứu Thế: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đầy, phóng thích cho những người tù nhân; công bố năm hồng ân của Thiên Chúa (Is 61,1-2a). Chương trình cứu độ của Thiên Chúa được mạc khải một cách rất tiệm tiến. Hơn năm trăm năm trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, đã được các tiên tri, nhất là tiên tri Isaia loan báo một cách rất chi tiết. Đấng Cứu Thế là sứ giả bình an dẫn đưa nhân loại vào năm Hồng Ân.

Qua lịch sử ơn cứu độ, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri để loan tin vui phấn chấn lòng dân. Tất cả các tổ phụ, các tiên tri và dân Thánh đang mong chờ ơn cứu độ. Các tiên tri đã loan báo về vị thiên sứ đi trước để dọn đường cho Chúa. Vị thiên sứ đã đến trong hoang địa và mời gọi mọi người ăn năn sám hối. Vị tiền hô chính là thánh Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Chúa Giêsu Cứu Thế đã xuống trần gian cách đây cả 2000 năm. Ơn cứu độ được trao ban trước hết cho dân tộc đã được chọn. Đấng Cứu Độ đã đến, đang đến và sẽ đến. Chúa đã đến để giải thoát dân khỏi cảnh lầm than của sự dữ và sự chết là một biến cố vĩ đại đã xảy ra trong lịch sử loài người. Công cuộc cứu chuộc của Chúa có giá trị cho mọi thời, từ dòng dõi này tới dòng dõi kia. Đã có biết bao nhiêu thế hệ con người đã lãnh nhận hồng ân giải thoát. Ơn cứu độ được trao ban cho mọi người và ở mọi thời. Chúng ta không phải đợi đến ngày tận thế hay ngày phán xét để nhận biết ơn cứu độ. Ơn cứu độ phổ quát cho toàn dân.

Tuy nhiên, Đấng Cứu Thế đến cứu rỗi từng tâm hồn chứ không phải cứu rỗi một đám đông ồ ạt. Vì mỗi con người đều mang hình ảnh và là thụ tạo của Thiên Chúa. Mỗi một con người là một món qùa quí báu mà Thượng Đế đã an bài. Dù sống trong khoảng thời gian nào, mỗi người đều có thể hưởng nhờ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bởi thế niềm vui giải thoát được các tông đồ rao giảng khắp nơi. Mời gọi tất cả mọi người hãy ăn năn sám hối và hãy dọn tâm hồn cho ngay thẳng để đón nhận ơn cứu rỗi. Như thế, mọi tâm hồn công chính và tốt lành sống trong ơn nghĩa của Chúa đều có thể được đón nhận ơn cứu độ qua những cách thức khác nhau. Tiếng kêu trong sa mạc không bị giới hạn trong một khuôn khổ nào, nhưng mở rộng đến mọi nơi cho toàn thể nhân loại.

Thơ của thánh Phaolô tông đồ gởi cho giáo đoàn Thessalonica kêu gọi anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện và cảm tạ Thiên Chúa. Đừng dập tắt Thánh Thần nhưng nghiệm xét mọi sự và điều gì tốt hãy giữ lại. Hãy vui mừng lên vì Chúa Giêsu đã ngự đến. Đấng Cứu Thế đến để giải thoát tâm hồn họ khỏi mọi ràng buộc của tội lỗi và sự dữ. Từ lời loan báo của các tiên tri tới việc Đấng Cứu Thế xuất hiện trên trần gian và ơn cứu rỗi trải dài qua mọi thời đại. Niềm vui của Dân Chúa vẫn trào dâng. Chúa Giêsu là Chúa của lịch sử ơn cứu độ.

Chúa Giêsu đã đến mang tin mừng cứu độ theo một ý nghĩa hoàn hảo hơn. Chúa giải thoát tâm hồn con người khỏi những ràng buộc của sự dữ. Chúa là ánh sáng thế gian. Ánh sáng soi dọi vào đêm tối của tội lỗi và lầm lạc. Chúa mở đường dẫn chúng ta vào con đường của sự thật và của sự sống. Chúa đến với trái tim yêu thương và chân thật. Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho sự sáng thật. Gioan là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi. Ông đã chu toàn sứ mệnh của người tiên hô. Gioan đã làm phép rửa sám hối và đã giới thiệu Đấng Cứu Thế cho mọi người.

Với tâm tình mòn mỏi đợi chờ, dân đi trong tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng. Họ đã nhìn thấy Đấng ban ơn cứu độ. Sau hai ngàn năm, giờ đây chúng ta hãy sống tâm tình tạ ơn, vì Chúa tiếp tục ban ơn cứu rỗi cho mọi tâm hồn. Niềm vui của sự mong chờ của những ngày Mùa Vọng sẽ qua mau và lễ Chúa Giáng Sinh đã gần kề. Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta hãy vui mừng luôn. Chúng ta không chỉ vui mừng khi tái lập những khung cảnh hang đá với đủ màu sắc lộng lẫy, các thứ trang trí đẹp mắt hay qùa cáp, tiệc tùng. Chúng ta vui vì Chúa đã ban ơn giao hòa và ơn tha tội cho nhân loại. Hãy chạy đến với Bí Tích Hòa Giải, chúng ta sẽ tìm được nguồn vui bình an đích thực cho tâm hồn. Niềm vui của sự thánh thiện và tinh tuyền. Niềm vui của hoan lạc và hạnh phúc. Chúng ta mừng vui vì Chúa tiếp tục ban ơn cứu độ cho tất cả những tâm hồn thiện tâm tìm kiếm Chúa,

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô chia sẻ rằng: Nếu Thiên Chúa không hiện hữu, đời sống sẽ trống rỗng, tương lai vô định. Và nếu Thiên Chúa hiện hữu, mọi sự thay đổi, đời sống chiếu sáng, tương lai rực rỡ và chúng ta sẽ có định hướng để sống.

Hãy dọn tâm hồn. Sám hối tội lỗi. Lãnh nhận hòa giải. Đổi mới cuộc sống. Hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô. Xin Chúa ban Ơn Cứu Độ![Mục Lục]

22. Làm chứng về ánh sáng

(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Tin mừng chúa nhật nầy gồm hai đoạn 1:6-8 và 1:19-28 thuộc 2 văn mạch khác nhau, tuy nhiên đều nói về Gioan, là chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô. Đoạn 1:6-8 nằm trong văn mạch của 1:1-13, nói về Ngôi Lời là ánh sáng (1:1-5) và Ngôi Lời đã đi vào lịch sử (1:6-13). Đoạn 1:19-28 nói về Gioan và công việc của ông.

Trong tin mừng Gioan, làm chứng là sứ mạng chính của Gioan, không phải là làm phép rửa (1:7[2].8.15.19.32). Để làm chứng, Gioan phải là một con người và được Thiên Chúa sai đến (c.6). Là con người, để Gioan có thể nói cho con người điều ông đã thấy và đã tin. “Được Thiên Chúa sai đến”, vì sứ mạng của ông là làm chứng cho Con Thiên Chúa (3:27). Bởi đó, Gioan không làm chứng cho một điều, mà cho một người. Mục đích của Gioan là làm cho mọi người tin vào Chúa Giêsu (c.7), để họ được làm con Thiên Chúa (1:12) và không còn thuộc về bóng tối nữa (1:5; 11:10; 12:35).

Chúa Giêsu là ánh sáng của trần gian (1:4; 9:5; 11:9; 12:35.36.46). Ánh sáng ấy là sự sống (1:4;8:12[2x]) và cũng là sự thật (1:9; 3:21). Gioan làm chứng cho ánh sáng, có nghĩa là làm chứng cho một sự sống Chúa Giêsu đang mang đến (1:15-16; 6:41.48.51) và một sự thật: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (1:32.35; 5:33). Đón nhận chứng từ của Gioan, nghĩa là tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là sự thật và sự sống (14:6) để được trở nên con cái Thiên Chúa (1:12). Khước từ chứng từ của Gioan là khước từ Chúa Giêsu và tiếp tục sống trong bóng tối (1:5; 8:12).

Gioan là chứng nhân, không phải là ánh sáng (1:8). Bởi đó, Gioan từ chối nhận mình là Đấng Kitô hay là Êlia. Ông nhận mình không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng đang đến. Thành ngữ egò ouk eimi “Tôi không là” mà Gioan dùng cho mình (c.20.21.27; 3:28) đối nghịch với egò eimi “Tôi là”, được dùng độc nhất cho Chúa Giêsu: “Tôi là tôi” (4:26; 6:20; 13:19; 18:5.6.8), “Tôi là bánh ban sự sống” (6:41.48.51), “Tôi là ánh sáng trần gian” (8:12; 9:5), “Tôi là…” (10:9.11.14; 11:25; 14:6; 15:1.5; 18:37). Chính cách nói nầy cho thấy Chúa Giêsu, là ánh sáng, ngày mỗi tỏa sáng lên, còn Gioan, như là chứng nhân của ánh sáng, ngày mỗi tan biến dần (3:30). Gioan giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ của mình, và họ đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu (1:35-42), dân chúng đến với Chúa Giêsu thay vì đến với Gioan (3:26) và cuối cùng chết âm thầm trong ngục tối (3:24). Gioan, một chứng nhân chân thật và khiêm tốn vô hạn (10:41).

Gioan không là chứng nhân duy nhất của Chúa Giêsu. Chúa Cha (5:32.37; 8:18), Kinh Thánh (5:39), công việc của Chúa Giêsu (5:36; 10:25), chính Chúa Giêsu (8:14.18), Thánh Linh (15:26) và các môn đệ (15:27) tất cả đều làm chứng một điều: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Đến trần gian, Chúa Giêsu cần chứng nhân, vì không dễ tin Người là Con Thiên Chúa. Nếu tin, sẽ được làm con cái của Thiên Chúa. Nếu được làm con cái của Thiên Chúa, tất phải sống như con cái của Người.[Mục Lục]

23. Làm chứng về ánh sáng.

Gioan: Không phải là ánh sáng

Trong đoạn mở đầu Phúc Âm, Thánh Gioan Thánh sử đã nói về Đức Kitô, Người là Thiên Chúa, là Nguồn Sáng, là Ánh Sáng đến trần gian.

“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.”(Ga.1,9).

Khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy Thầy Lê-vi đến hỏi Gioan Tẩy giả: “Ông là ai?” Ông tuyên bố thẳng thắn: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” Đúng như lời thánh Gioan Thánh sử đã viết về Gioan Tẩy Giả: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga.1,6-7).

Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong bối cảnh người Do Thái đang trông chờ một Vị Cứu Tinh cho dân tộc, người sẽ khôi phục Israel và đem về cho Israel một thuở huy hoàng nay đã mất dưới gót giầy đè bẹp của đế quốc La Mã.

Giấc mơ ấy hạn hẹp trong ý tưởng con người, vì Vị Cứu Tinh sẽ đến không phải để phục hồi lại những gì đã tổn thương trong Israel, mà tái tạo lại một “trời mới đất mới” cho cả vũ hoàn.

Vị Cứu Tinh ấy là Chúa Kitô, ánh sáng cho trần gian.

“Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối sẽ không diệt được ánh sáng”. (Ga.1,5).

Gioan Tẩy Giả xuất hiện để “làm chứng” cho Chúa Kitô, làm chứng về ánh sáng.

Gioan: Làm chứng về ánh sáng

Ánh sáng ở đây là chính Thiên Chúa – “Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta”.

“Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”. (Ga 1,10).

Và Gioan Tẩy Giả mang sứ mạng làm cho mọi người nhận biết Người – nhận biết Đức Kitô – nhận biết Ánh Sáng.

“Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga.1,17).

Gioan Tẩy giả dành trọn cuộc đời mình chỉ với một mục đích trung thành với lời tuyên bố: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.” (Ga.1,29-34).

Ý nghĩa cuộc đời: Ánh Sáng Chúa Kitô

Đức Giêsu lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga.8,12).

Gioan Tẩy Giả đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, hoàn thành sứ mạng của mình trong ánh sáng chân lý.

Không ai thuộc về bóng tối lại có thể làm chứng về ánh sáng!

Chỉ trong ánh sáng Chúa Kitô, con người mới nhận ra giá trị đích thực của chính mình, vị trí của chính mình. Trong ánh sáng Chúa Kitô, Gioan nhận ra mình bé nhỏ.

Trong bóng tối, con người ngủ mê trong ảo ảnh. Con người hiểu biết được bao nhiêu và làm được điều gì lớn lao đến thế nào để có thể kiêu căng đến mức muốn thay thế Thiên Chúa?

Một cách nào đó, nhiều người tự xem mình như Đấng Cứu Thế. Nhiều kẻ muốn thay thế Lời Chúa bằng những “giáo điều” triết học và ý thức hệ chính trị nghe rất hấp dẫn và thu hút được nhiều người. Thực tế, những dòng tư tưởng đó đã đem thế giới đến chỗ tan nát vì chia rẻ và thù hận.

“Sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính ta đây’, và: ‘Thời kỳ đã đến gần’” (Lc 21: 8).

Với Niềm tin Kitô hữu, đời ta chỉ có một mục đích duy nhất là “làm chứng về ánh sáng”.

Gioan Tẩy Giả là tấm gương để tiến bước. Hoặc là sống trong ánh sáng, hoặc là sống trong tăm tối, phải chọn một, và chỉ chọn một, không có sự chọn lựa nào khác.

Quê tôi là một xóm làng dân cư đông đúc, khi cúp điện, cả ngàn hộ dân chìm trong tăm tối, thôn xóm đông người mà vắng lặng đến đáng sợ. Khi có điện trở lại, nghe vang lên những tiếng reo hò vui sướng: “Có điện rồi! Có điện rồi!”. Tiếng em bé reo vui, tiếng người cười cười nói nói, tiếng nhạc, tiếng TV… vang lên đó đây, xóm làng vui tươi, nhộn nhịp hẳn lên…

Không ai có tìm thấy hạnh phúc trong vùng tăm tối. Người từ chối ánh sáng là người đã hoàn toàn mất đi niềm hy vọng và sống một cuộc sống buông xuôi vô nghĩa.

Hạnh phúc là được tìm về ánh sáng. Mang hạnh phúc đến cho người khác là thắp lên cho họ ánh sáng hy vọng.

Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.

Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: “Cứ để yên mọi thứ cho tôi”. Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Đèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:

– Sao lâu nay ông không thắp đèn lên?

– Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai.

– Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không?

– Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.

Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy:

– Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.

Hãy thắp lên Ánh sáng Tình Yêu Thiên Chúa – Ánh sáng Chúa Kitô – Ánh sáng Lời Chúa – Ánh sáng Giới luật yêu thương.

Thế giới chỉ có thể tồn tại trong ánh sáng tình yêu – “Ánh sáng đem lại sự sống”. Có thể nào Thế giới tìm thấy bình an và hạnh phúc trong thế giới tối tăm sao?

Lạy Chúa,

Xin thắp lên trong con,

ánh sáng Tình Yêu Chúa,

để từ tận thẳm sâu lòng con,

biết nói lên và thực hiện,

Những điều Chân Thiện.

Đó là lúc con biết

làm chứng về ánh sáng,

Ý nghĩa của đời con. Amen.[Mục Lục]

24. Đấng Messia – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Đấng Messia không phải là…

Đoạn Tin Mừng mở đầu bằng một xác quyết phủ định: “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Thế rồi tiếp theo đó trong chứng từ của Gioan, chúng ta còn gặp thấy nhiều phủ định khác nữa: “Tôi không phải là đấng Kitô!… Ông có phải là Êlia không – không phải!… Ông có phải là vị ngôn sứ chăng – không! “. Thì ra thế, lời chứng của Gioan về đấng Thiên Sai trước hết đã khởi đầu bằng những phủ định. Đối với một số người, đặc biệt những ai tưởng mình đã hiểu biết đủ, thì đôi khi để minh xác một đối tượng là ai họ cần trước hết nói rõ Ngài không phải là ai cái đã.

Chắc chắn rất nhiều người Do Thái cùng trông đợi đấng Messia hay Kitô – Người Được Sức Dầu, trong số đó phải kể các thầy tư tế và Lê-vi. Giới giáo sĩ này vẫn hướng dẫn dân chúng theo những gì họ đọc được trong Sách Thánh Cựu Ước: đấng Kitô – Messia sẽ đến phải là môt nhân vật đầy quyền lực thống trị, cao sang tột cùng và đầy Thần Khí, tức là đầy sức mạnh của Đức Chúa Gia-vê. Để đón tiếp một vị quyền uy như thế phải có nhân vật xứng tầm Êlia – người đã một mình ngăn cản vua A-háp, thách thức hoàng hậu Giê-dê-ben và tiêu diệt bọn sư sãi Ba-an trên đỉnh núi Cát Minh (I Vua 17), hoặc vị ngôn sứ tuyệt hảo tầm cỡ Mô-sê với sức mạnh giải phóng dân khỏi ách thống trị của Pha-ra-ô. Thế nhưng Gioan đã phủ nhận toàn bộ lối suy nghĩ này khi họ muốn gán cho ông những danh hiệu đó (cho dầu chính Đức Giêsu có ám chỉ ông là Êlia phải đến, có lẽ vì thái độ thẳng thắn ông lên tiếng tố cáo Hê-rô-đê loạn luân). Gioan dứt khoát không muốn đặt mình thuận theo lối suy nghĩ đó. “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” Ông không là đấng Kitô theo lối suy nghĩ của giới tư tế và Lê-vi đã đành, ông còn phủ nhận luôn vai trò tiền hô theo suy nghĩ họ có trong đầu. Ông nói rõ, quan niệm họ vốn có về đức Kitô – Messia sẽ không làm họ có thể nhận ra được Người, vì cụ thể Người đang ở ngay giữa họ, “Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” Nói lên điếu đó, hầu như Gioan yêu cầu chính các tư tế và Lê-vi phải bỏ hẳn lối suy nghĩ cũ về đấng Messia, điều kiện cần thiết để họ có thể nhận ra và đón rước Người.

Thế ra đôi lúc, nhất là đối với một hạng người nào đó, việc làm tiên quyết để đón đấng Messia không phải là từ bỏ đường tội lỗi để cải tà qui chính, mà lại là phải bỏ hẳn lối suy nghĩ cũ để khám phá ra dung mạo hay ánh sáng đích thực của Đấng phải đến. Phải chăng có một ứng dụng rất mới của sứ điệp dọn đường: “Thung lũng phải lấp cho đầy, núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3:5), cũng như lời kêu gọi “anh em hãy sám hối” (Mt 3:2); sứ điệp này chứa đựng một ý nghĩa vượt xa nội dung thuần luân lý mà nhiều người vẫn hiểu? Ánh sáng mà Hài Nhi Giêsu đem đến trần gian sẽ là một thứ ánh sáng rất khác lạ, có lẽ cho tới lúc đó rất hiếm người đã được nhìn thấy nó. Ánh sáng này chỉ dành cho các tâm hồn đơn sơ hèn mọn được thấy, các ‘A-na-wim’ (tôi tớ hèn mọn) của Gia-vê như Maria, các mục đồng, Si-mê-on và An-na…, vì đó là ánh sáng của một ‘Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian’ (Ga 1:29). Những ai vẫn bảo thủ quan niệm cố hữu về đấng Mét-si-a quyền uy cao cả và thống trị, như quân vương Hê-rô-đê, các thượng tế và thầy thông luật, sẽ chẳng bao giờ có thể nhận ra được Ngài đâu.

Như thế, ngoài sứ điệp thống hối tội lỗi để thanh tẩy tâm hồn vẫn thường nghe nhắc nhở, Mùa Vọng còn gởi tới một sứ điệp khác cấp bách không kém: hãy duyệt lại quan niệm tôi vốn có về đấng Kitô, về Thiên Chúa giáng trần. Nếu tâm trí tôi vẫn thường chỉ hướng tới Thiên Chúa như đấng quyền uy cao cả, thì Hài Nhi sinh ra khó nghèo trong hang bò lừa, hoặc sẽ chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi, hoặc tôi sẽ cố biến hang bò lừa ấy thành một nơi cao sang rực rỡ. Để nhận ra được ‘Chiên Thiên Chúa’ tâm hồn tôi không những phải sạch tội, mà còn phải đơn sơ và hèn mọn, nếu không Hội Thánh sẽ nói với tôi, giống như Gioan đã cảnh cáo các Tư Tế và Lê-vi: “có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” Có không rất nhiều tín hữu, trong số đó có cả linh mục và tu sĩ, dọn mừng lễ Giáng Sinh rất trọng thể linh đình, nhưng khi Người đến họ lại không thể nhận ra, vì trong thâm sâu cõi lòng họ vẫn chỉ muốn thấy một Thiên Chúa quyền uy thống trị và cao sang? Có thể lắm đấy, bản thân tôi cũng đã từng là một trong số đó, nếu không sớm được giác ngộ để thay đổi tận căn quan niệm tôi có về đấng Kitô Cứu Thế, Người Cha từ nhân và xót thương!

Lạy Hài Nhi Giêsu giáng sinh trong hang bò lừa nghèo hèn, xin hãy liệt con vào số các người hèn mọn của Gia-vê để con có thể nhận ra khi Người đến giữa và ở với chúng con. Xin gạt hẳn khỏi tâm trí con hình ảnh một Thiên Chúa công thẳng quyền uy, và thế vào đó là một Thiên Chúa từ nhân cứu độ; và cũng xin đừng bao giờ để hình ảnh này biến mất khỏi tâm trí lòng con, một hãy làm cho nó ngày càng đậm nét hơn. Lạy Mẹ Maria, kẻ hèn mọn tuyệt vời, xin giúp con như Mẹ nhận biết Chúa Hài Nhi. Amen.[Mục Lục]

25. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.

Anh chị em thân mến.

Trong thời buổi kinh tế thị trường của thời đại, nghệ thuật quảng cáo chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Trên đường phố, những nơi nào có thể được là có những hình ảnh giới thiệu những gì mà người ta cần đến. Trên TV cũng thế, bất cứ giờ phút nào cũng có những thông tin cần thiết về những sản phẩm, có khi làm cho người nghe phải khó chịu. Nhưng lại rất hiệu quả, vì khi qua những giây phút khó chịu đó, nó dường như có một chút gì còn lại nơi người nghe. Không chỉ có thế, còn có những con người mang sản phẩtm đến tận nơi người tiêu dùng, với những kiểu nói hết sức duyên dáng và thu hút, làm cho người đối diện không thể nào làm ngơ được. Những người quảng cáo nầy còn được goi là nhân viên tiếp thị, họ chịu trách nhiệm về mặt hàng, họ giải thích hiệu quả và chỉ cách cho khách hàng xử dụng như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Ngoài ra còn có những giải thưởng hết sức hấp dẫn cho người tiêu dùng, khiến cho mọi người đều lắng nghe và hưởng ứng tận tình.

Chúng ta vừa lắng nghe một nhân viên tiếp thị, nhưng không phải tiếp thị cho mặt hằng nào, mà là thông báo và quảng cáo phần thưởng cho những ai biết chuẩn bị chu đáo để đón mừng Đấng có uy quyền đến với họ. Nhân viên tiếp thị không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng hành động và cả cuộc sống. Một đời sống khiêm nhường chân thật để làm chứng cho sự thật. Một đời sống thanh thoát để hướng mọi người về trời cao. Một đời sống khắc khổ để kêu gọi mọi người hy sinh, chịu khó để dâng cuộc đời cho Chúa. Oâng biết chấp nhận sự thật, quên mình đi, để hướng mọi người về Đấng Cứu Thê mà ông giới thiệu. Oâng kêu mời mọi người thay đỗi đời sống cho tốt hơn để xứng đáng chuẩn bị đón chờ Chúa đến. Oâng cũng làm gương cho mọi người biết chấp nhận cuộc sống hiện tại, chấp nhận những gì là của mình, để biết sống trọn vẹn và chu toàn trách nhiệm thật chu đáo.

Những người của ngày xưa không thể nào ngồi yến bất động, khi nghe thấy những lời mời gọi của Gioan Tẩy Giả, họ chạy đến với Gioan, nhận phép rửa thống hối. Họ cũng đến với Gioan để tìm cho mình một con đường sống theo Thánh ý Chúa.

Chúng ta, những con người của ngày hôm nay, cũng nghe những lời của ngày xưa, cũng gợi lại trong tâm trí chúng ta hình ảnh sống động của một chứng nhân. Nhưng nhân viên tiếp thị hết sức thuyết phục của ngày xưa, cũng đang dùng hết khả năng của mình cho những người của ngày nay, không biết có mang lại chút kết quả nào không?

Mỗi người trong chúng ta nghe nhiều, biết nhiều, nhưng chúng ta sống như thế nào? Giờ đây lời kêu mời lại vang lên một cách sống động và tha thiết. Nếu chúng ta thấy được mình thiếu thốn về đạo đức, thiếu về lòng nhân ái, thiếu thốn về nhân cách làm người mà biết chạy đến với Chúa khi nghe lời kêu mời của Gioan, để xin Chúa đong đầy những gì còn thiếu nơi chúng ta.

Nhìn vào gương làm chứng của Gioan Tẩy Giả, chứng ta cũng quyết là những chứng nhân sống động như Ngài; khi chúng ta biết làm cho Chúa Kitô hiện điện trong đời sống của mình thật sự. Đó là những lúc chúng ta biết quên mình mà đến với người khác để giúp cho họ sống tốt hơn qua những lời nói chân thành, qua sự giúp đở nhẹ nhàng đối với những gì mà người ta cần. Cũng là những lúc chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm, những gì phải làm mà không ngần ngại, cho dù nhìn thấy những khó khăn trước mắt. Trong những lúc chúng ta nhìn thấy những lợi lộc của trần gian, những niềm vui không phải của mình, chúng ta không cần đến cũng không tìm cách chiếm hữu nó; những lúc đó chúng ta đã trở nên một chuyên viên tiếp thị xuất sắc cho chúa Kitô như vị Tiền Hô của ngày xưa. Khi đó mọi người nhìn vào chúng ta và họ cũng nhìn thấy, cũng lắng nghe được sứ điệp loan báo về Chúa sắp ngự đến. Khi đó chúng ta không chỉ loan báo bằng lời nói, nhưng bằng chính cuộc sống và cả con người của chúng ta. Khi đó Chúa đã đến thật sự.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, đễ biết nhận ra Chúa và sống xứng đáng là Chứng nhân trung thành của Chúa trong cuộc sống đời thường.[Mục Lục]

26. Con tim rung nhịp với chân lý

(Suy niệm của Thomas Nguyễn Văn Hiệp)

Tiếp nối hai bài suy niệm “Đừng Vô Cảm” và “Tỉnh Thức Con Tim” của hai chúa nhật I & II mùa vọng, hôm nay chúa nhật III mùa vọng, xin được chia sẻ đề tài: con tim rung nhịp với chân lý.

Mấy ngày gần đây, video clip về sự thờ ơ của người qua đường đối với cô gái bị đâm 28 nhát dao đang tạo sự quan tâm của dân cư mạng và gây xôn xao dư luận Trung Quốc. Đoạn video có tên “Ngang nhiên giết người trên phố” đã được phát tán với tốc độ chóng mặt trên các mạng xã hội Trung Quốc. Video này cho thấy, vào lúc 9h sáng ngày 30/11, một người đàn ông chừng 25 tuổi đã xông vào tấn công một cô gái qua đường. Hắn ta giật, lôi và giằng lấy giỏ xách của cô gái. Cô gái đã gắng sức giữ chặt giỏ của mình. Sau gần 10 giây giằng co, người đàn ông hung hãn đã rút dao trong người đâm tới tấp cô gái 4 nhát liền, khiến cô ngã lăn ra đất. Ngay khi đó có hai người qua đường (có lẽ là 2 người đàn ông) đứng yên gần bên quan sát sự việc; ở len đường bên cạnh có ít nhất 1 chiếc taxi và 2 chiếc môtô tấp vào lề (chắc là vì tò mò); cách đó không xa là một nhóm người rất đông (có lẽ đi ra từ khách sạn). Chẳng ai có một phản ứng gì! Người đàn ông say máu cuồng lên, hắn tiếp tục dùng dao đâm cô gái thêm mấy nhát nữa. Nạn nhân dồn chút sức tàn gượng dậy kêu cứu, nhưng hai người đàn ông qua đường vẫn thản nhiên không hề can thiệp hay báo cảnh sát mà lẳng lặng rời khỏi hiện trường. Kẻ côn đồ tiếp tục đâm cô gái mười mấy nhát nữa cho đến khi cô nằm im trên vũng máu. Sau cùng, hắn dùng chân đạp hơn 10 cái trên thi thể nạn nhân bê bết máu rồi lạnh lùng bỏ đi.

Vụ án mạng được xác định xảy ra ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc). Vụ giết người dã man đã khiến cư dân mạng đã vô cùng kinh ngạc về hành động gian ác mất tính người của hung thủ và thương xót cho cô gái xấu số. Được biết nạn nhân đã tử vong sau khi đưa tới bệnh viện do mất quá nhiều máu. Họ cũng bày tỏ sự phẫn nộ với thái độ dửng dưng và bàng quan của những người qua đường không ai chịu ra tay can ngăn hay báo cảnh sát. Cho dù địa điểm xảy ra án mạng cách đồn cảnh sát không xa, nhưng hơn 10 phút sau vẫn không thấy cảnh sát đâu cả. Nhiều người cho rằng hành động của người đàn ông khiến người ta ghê tởm. Nhưng sự thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm của những người qua đường thấy chết mà không cứu giúp còn tàn nhẫn hơn!

Xem đoạn video clip xong, người viết bỗng nhớ đến bộ phim tài liệu “Chuyện Tử Tế” vang tiếng một thời của đạo diễn – NSND Trần Văn Thủy. Bộ phim được bấm máy năm 1985, bị cấm chiếu trong nước, nhưng lại gây tiếng vang ở nước ngoài. Bộ phim đoạt giải Bồ câu bạc Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được báo chí nước ngoài ví như “Quả bom đến từ Việt Nam nổ tung ở thành phố Leipzig” (Đức), được nhiều đài truyền hình nổi tiếng mua bản quyền phát sóng, được lọt trong top 10 bộ phim tài liệu hay nhất được thế giới bình chọn năm 1992.

Có lẽ vì biết trước số phận “long đong” của “Chuyện Tử Tế” trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam 1985 mà Trần Văn Thủy đã dán tấm bùa hộ mệnh ở đầu và kết cho bộ phim là câu nói của Karl Marx: “… Tất nhiên, chỉ có loài súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của con người, và chăm lo riêng cho bộ da của mình …”.

“Chuyện Tử Tế” được liền mạch bởi những câu hỏi mang tính nhân sinh: thế nào là Nhân dân? Là Vĩ đại? là Hạnh phúc? Là Tử tế? … Nhưng tất cả được gói gém trong lời mời gọi: “Hãy sống tử tế với nhau”. Nhưng đâu là nền tảng, là cội nguồn để con người sống tử tế? Dường như chính đời sống tận hiến phục vụ vô vị lợi của các Soeurs tại trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn) là đáp án cho vấn nạn. Xin được lược ghi lại lời thoại và lời bình trong phim:

Khởi đi từ lời của cô gái: “Ăn ở với nhau tử tế là lẽ thường, là niềm an ủi của người đời. Chỉ có đồ hủi mới ăn ở với nhau chẳng ra gì!”.

Lời cô gái như là cái cớ để đoàn làm phim đi đến Trại phong ở Quy Hòa. Tại đây, họ gặp mặt đông đảo các thầy thuốc và đặt câu hỏi:

– Thưa các thầy thuốc, ở đây ai là người tận tâm chạy chữa, chia sẻ với người hủi?

– Các bà soeurs! Chuyện đó phải kể đến các bà soeurs.

Các thầy thuốc, trong đó có các thầy thuốc từ khi rời ghế trường Y, cho đến bây giờ đã hai thứ tóc, làm việc ở các trại hủi, đều trả lời như vậy …

Những người làm phim hỏi: -Thưa, đâu là nơi bắt đầu để các soeurs yên tâm, tận tụy phục vụ người mắc bệnh hủi?

– Dạ, chỗ bắt đầu của chúng tôi và đồng nghiệp là lòng Tin.

Vâng! Nếu không có lòng tin thì con người không thể sống với con người được. Con người đã từ lòng tin thần thánh, lòng tin tôn giáo mà đến với lòng tin có chứng cứ, tin vào những cái đích thật.

Người biên tập bộ phim này cho biết: “Từ rất xa xưa, cha bác có dạy rằng tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức nó, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của quốc gia. Bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có nổ lực tột bậc và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm người – người tử tế – trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành người có quyền hành, giỏi giang hoặc siêu phàm”.

Đọc đến đây có lẽ mọi người sẽ cho rằng người viết quá sa đà nơi phần dẫn nhập. Nhưng có xem đi xem lại hai đoạn phim kể trên nhiều lần và nghiền ngẫm nó thì ta mới thấy bừng sáng lời mời gọi của đoạn Tin Mừng hôm nay.

Bài Tin mừng hôm nay (Ga 1,6-8.19-28) giới thiệu sứ mạng của Gioan Tẩy Giả. Ông là người làm chứng. Người làm chứng về Đức Giêsu là Ánh sáng, là Ân sủng, là Sự thật. Người làm chứng có “Con tim rung nhịp với chân lý” là Đức Giêsu, cho dẫu người đương thời khướt từ Ngài. Vì có “con tim rung nhịp với chân lý” nên mạnh mẽ tuyên bố trong khiêm hạ: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi … Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”

Người làm chứng trong đoạn video clip có tên “Ngang nhiên giết người trên phố” là hai người đi đường, là những người trên 2 chiếc môtô và taxi, là đám đông trước khách sạn … đã vô cảm với chân lý, với lòng trắc ẩn yêu thương mà Thiên đã đặt để trong trái tim mỗi người. Họ vô cảm, dửng dưng, bàng quang, lạnh lùng, vô trách nhiệm trước cái ác, trước chân lý bị chà đạm miễn sao không phiền lụy đến bản thân. Đó là hệ quả của một xã hội đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng là nguồn cội muôn loài; một xã hội chỉ chạy theo vật chất tạm bợ trần gian.

Người làm chứng trong phim tài liệu “Chuyện Tử Tế” cũng rất nhiều và cũng rất đáng sợ. Đáng sợ đến nỗi mà khi công chiếu những người lãnh đạo đương thời phải thẹn với sự thật đau lòng mà cấm chiếu bộ phim. Tuy nhiên trong muôn vàn người thích làm chứng giả hay tránh né sự thật ấy vẫn còn có những con người có “con tim rung nhịp với chân lý”. Họ sống, hành xử theo niềm tin vào Thiên Chúa là nguồn cội của Tình yêu và Sự thật để đến với tha nhân bằng sự đồng cảm, yêu thương, chia sẻ … Những con người ấy được điển hình hóa qua các nhân vật trong phim là các nữ tu tại trại phong Quy Hòa.

Người làm chứng trong bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay cũng có nhiều: là phần đông dân chúng, là một số Tư tế và thầy Lêvi, là Gioan Tẩy Giả. Dân chúng thời Chúa Giêsu thì im lặng không đón nhận: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11). Một số Tư tế và thầy Lêvi thì nghi ngờ và dửng dưng đi kiểm chứng. Chỉ có Gioan Tẩy Giả thì xác tín, con tim luôn rung nhịp với Chân lý là Con Thiên Chúa làm người nên khiêm tốn, sẵn sằng làm tất cả mọi sự vì Chúa Giêsu, vì chương trình cứu độ của Ngài. “Con tim rung nhịp với chân lý” của Gioan Tẩy Giả vẫn bền bĩ kiên trung rung nhịp theo Tin Mừng của Chúa Giêsu đến hơi thở cuối cùng dưới lưỡi gươm gian trá và thâm độc của Hêrôđê.

Bộ phim “Chuyện Tử Tế” được kết bằng ba biểu tượng: Thiên thần Gabriel thắng quỷ dữ, hai ngọn đèn cầy leo lét trước gió và cuối cùng là ngọn sóng bạc đầu dâng cao gào thét như thét gọi mọi người đừng vô cảm, hãy tỉnh thức con tim, để rung nhịp với chân lý, với sự thật, với nỗi đau của tha nhân.

Lời dạy của Tin Mừng hôm nay được thể hiện qua đời sống chứng tá cho Chân lý của Gioan Tẩy giả là lời mời gọi tất cả chúng ta phải có “con tim rung nhịp với chân lý” để làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu, để sống “tử tế” với nhau, khướt từ mọi đam mê quyến rũ, mọi tham lam ích kỷ vụ lợi cá nhân.

Hình tượng Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng càng thôi thúc mỗi người kitô hữu chúng ta hơn nữa: Hãy khiêm tốn sửa đổi chính mình để đón mừng Hài Nhi Giêsu ngự đến.[Mục Lục]

27. Nhân chứng khiêm nhường – Trầm Thiên Thu

Khiêm nhường là nhân đức cần thiết đối với mọi người, lại càng quan trọng hơn đối với những người làm chứng về Thiên Chúa. Sống khiêm nhường không dễ, bởi vì “cái tôi” luôn muốn nổi loạn bất cứ lúc nào. “Không dễ” có nghĩa là “khó”, nhưng “khó” không có nghĩa là “không làm được” hoặc “bất lực”. Chúa Giêsu chỉ cho bí quyết sống khiêm nhường: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10). Đừng quan trọng hóa mình thì có thể sống khiêm nhường.

Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng!” (Rm 10:14-15). Rất lô-gích!

BÀI SAI CỦA CHÚA

Ai cũng có trách nhiệm làm chứng về Đức Giêsu Kitô theo hoàn cảnh sống của mình. Khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, được trở nên con cái của Thiên Chúa, đồng thời mỗi Kitô hữu cũng được Thiên Chúa sai đi vào giữa cuộc đời để làm nhân-chứng-sống cho Ngài. Thật vậy, điều đó được ngôn sứ Isaia khi nói thay tất cả chúng ta: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than” (Is 61:1-2).

Trọng trách đó không của riêng ai, bổn phận đó của bất cứ ai tin tưởng và mong đợi Đấng Cứu Thế. Nhưng vấn đề là Chúa không sai ai đến với người giàu sang, người quyền cao chức trọng, người ăn trên ngồi trước,… mà Ngài sai chúng ta đến với kẻ nghèo hèn, người đau khổ, tù nhân, người bị bỏ rơi, kẻ bị khinh miệt, kẻ cùng đinh,… Nhưng thực tế xã hội thường đi ngược lại, nghe “lời sai đi” kia cho xong lần, qua tai rồi thôi, sau đó có thể lại tự hành động theo ý mình. Có lẽ vậy mà người nghèo khổ và kẻ thấp cổ bé miệng vẫn không thể ngóc đầu lên được, nhân vị của họ vẫn bị chà đạp, nhân phẩm của họ vẫn bị bôi nhọ, và nhân quyền của họ vẫn bị tước đoạt! Chính ĐGH Leo XIII đã xác định trong tông thư Tân Sự (Rerum Novarum, 15-5-1891): “Sự nghèo khổ không là điều hổ thẹn” (a. 37).

Không phải đi làm theo ý mình, mà bước chân ra đi và dấn thân vào đời để hành động theo hướng dẫn của Thiên Chúa, có vậy thì chúng ta mới có thể “như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” (Is 61:11).

Đức Mẹ là một nhân chứng sống động và khiêm nhường. Lời Kinh Magnificat (Lc 1:46-50, 53-54) của Đức Maria chứa đầy niềm hân hoan: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi”. Tuy là người cao trọng và có cuộc sống tuyệt vời, nhưng Đức Mẹ vẫn tự nhận mình là “phận nữ tỳ hèn mọn”. Đó là sự khiêm nhường đúng Thánh Ý Chúa. Thiên Chúa là Đáng toàn năng, Ngài không chỉ làm cho Đức Mẹ biết bao điều cao cả, mà hàng ngày chúng ta cũng vẫn nhận “miễn phí” từ Thiên Chúa với bao điều kỳ diệu của cuộc sống! Đơn giản nhất mà cũng quan yếu nhất là không khí, nếu không có không khí trong vài giây thì không gì sống nổi. Một hồng ân kỳ diệu hiển nhiên vẫn xảy ra từng giây phút hàng ngày, nhưng đôi khi chúng ta “làm ngơ” và thậm chí còn đòi hỏi nhiều thứ hơn nữa.

Tất cả hồng ân đều bởi Lòng Thương Xót vô hạn của Thiên Chúa, bởi vì Ngài “hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50). Thiên Chúa là Đấng Thánh cao cả, luôn yêu chuộng sự công bình và đức khiêm nhường: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1:53-54). Cựu Ước cũng đề cập tương tự: “Đức Chúa hạ bệ những ai quyền thế, và đặt kẻ hiền lành ngồi lên thay” (Hc 10:14). Ngôn sứ Isaia nói: “Đức Chúa các đạo binh đã quyết định điều ấy để làm nhục mọi đứa cao sang ngạo mạn và hạ bệ mọi kẻ hiển danh trên mặt đất” (Is 23:9). Và rồi chính vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cũng phải công nhận: “Giờ đây, ta, Na-bu-cô-đô-nô-xo, ta ca ngợi, tán dương và tôn vinh Vua Trời, vì mọi việc Người làm đều chân thật, đường lối của Người vốn công minh. Người có quyền hạ bệ kẻ quen thói kiêu căng hống hách” (Đn 4:34).

Có điều quan trọng: Mặc dù hành động nhưng vẫn không được xao lãng việc cầu nguyện. Thánh Phaolô căn dặn: “Anh chị em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (1 Tx 5:16-17). Không chỉ tạ ơn khi thuận ý mình mà “hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” (1 Tx 5:18), vì “đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu”. Thánh Phaolô căn dặn thêm: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5:21-22). Tỉnh thức, vừa hành động vừa cầu nguyện để “thần trí, tâm hồn và thân xác được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm” (1 Tx 5:23).

Với kinh nghiệm dày dạn, thánh Phaolô xác định chắc chắn với chúng ta như đinh đóng cột: “Đấng kêu gọi anh chị em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1 Tx 5:24). Ôi, thế thì trên cả tuyệt vời! Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17:24). Nhưng cũng cần có điều kiện, điều kiện đó không vì lợi ích cho Chúa mà vì lợi ích cho chính chúng ta. Lợi ích đó là gì?

TRỞ THÀNH NHÂN CHỨNG

Thiên Chúa đã sai ông Gioan làm người tiền phong đến dọn đường trước khi sai Con Một Giêsu đến thế gian. Ông được gọi là tiền hô, ông không là ánh sáng nhưng ông đến để “làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1:7). Và Thiên Chúa cũng trao “bài sai” cho những ai tin nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ.

Lúc đó, nhiều người Do Thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi xem ông Gioan là ai, nhưng ông nói thẳng: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại hỏi ông có phải là ông Êlia hay là vị ngôn sứ chăng. Ông vẫn một mực từ chối: “Không”. Họ chưa thỏa mãn nên tiếp tục hỏi, ông Gioan đành nói thật: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói” (Ga 1:23). Nhân vật quan trọng Gioan thực sự khiêm nhường khi chỉ nhận mình là “tiếng hô trong hoang địa”.

Sao kỳ vậy nhỉ? Mấy người thuộc phái Pharisêu nghe nói vậy nên nhíu mày và tròn mắt ếch: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?”. Đúng là bọn người “ma mãnh” mà lại quá chậm tiêu! Ông Gioan trả lời rành rọt: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1:27). Lại một lần nữa ông Gioan thể hiện đức khiêm nhường khi nói mình “không đáng cởi quai dép” cho Đấng đến sau ông.

Đức khiêm nhường là nền tảng mọi nhân đức, nhưng cũng là nhân đức khó thực hiện, bởi vì “cái tôi” luôn “cản mũi kỳ đà”. Ai cũng muốn được khen, vì đó là bản tính bình thường của phàm nhân. Không ai muốn bị chê, nhất là những người có chức quyền, danh vọng, địa vị, “tai mắt” trong thiên hạ,… Tự ái là yêu mình, yêu mình là điều cần, nhưng đừng yêu mình quá. Đôi khi “chiếc ghế quyền lực” còn được người ta coi trọng hơn danh dự. Thực tế xã hội đã và đang cho chúng ta thấy rõ như vậy. Đó là một “hội chứng” đáng quan ngại, ngày nay người ta thường gọi các dạng đó là “chủ nghĩa” – chủ nghĩa quyền lực, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa 5V (vội vàng vơ vét về).

Người Việt có cách nói: “Văn mình, vợ người”. Quả thật, văn mình lúc nào cũng hay, và vợ người bao giờ cũng đẹp. Người ta luôn muốn chứng tỏ mình đúng và “bản lĩnh” của mình hơn hẳn người khác. Ai “chạm” vào quyền lợi của mình thì “có chuyện”, dù đó chỉ là “chuyện nhỏ”, không đáng chi cả. Thật vậy, chỉ nhìn thấy “ngứa mắt” mà người ta cũng sẵn sàng “xử” nhau theo “luật rừng”, và họ lý luận là “đánh cho bõ ghét” hoặc “giết cho biết tay”. Quả thật, “cái tôi” và “cục máu tự ái” luôn sẵn sàng dâng cao như sóng thần bất cứ lúc nào. Đúng là không dễ gì sống khiêm nhường đâu!

Có lẽ ít ai lại không nghe nói tới vĩ nhân Mohandas Karamchand Gandhi (2/10/1869 – 30/1/1948). Ông được dân Ấn Độ tôn là thánh nhân và gọi ông là Mahatma (Tâm hồn Vĩ đại). Ông đã từng nhận định: “NẾU các Kitô hữu SỐNG ĐÚNG như Chúa Giêsu, tôi THEO đạo ngay”. Quả thật, một câu nói khiến chúng ta cảm thấy “nhức nhối” và phải suy nghĩ thật nhiều. Thiên Chúa muốn chúng ta phải thực sự là những nhân chứng sống động và khiêm nhường mà chúng ta chưa đạt đến tiêu chuẩn mà Ngài đề ra!

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, con đường Mùa Vọng đã bước sang chặng thứ ba (tuần III), nghĩa là đã được nửa đường. Do đó, hôm nay Giáo hội không sử dụng màu Tím mà sử dụng màu Hồng – gọi là “Chúa Nhật Hồng”, thể hiện niềm vui mừng vì sắp đến ngày Ngôi Hai giáng trần. Trong khi chờ mong, không thể ngồi “chờ sung rụng” mà phải tích cực hành động, nghĩa là chúng ta phải lên đường và vào đời…

Làm nhân chứng là trách nhiệm và bổn phận, nhưng làm nhân chứng mà không khiêm nhường thì vô ích, Chúa không cần loại nhân chứng đó!

Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã dựng nên chúng con để làm sáng danh Ngài, rồi Ngài lại sai chúng con vào đời để làm chứng về Tình Yêu vô biên và Lòng Thương Xót bao la của Ngài, xin ban Thánh Thần để chúng con can đảm và nhiệt tâm làm nhân chứng về Ngài, sẵn sàng dấn thân và hành động với tinh thần khiêm nhường, và luôn biết nhận mình thiếu sót để khả dĩ sửa sai theo đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đấng Thiên Sai, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.[Mục Lục]

28. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê

ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ ĐẤNG EMMANUEL, THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA.

Khi tìm hiểu về con người, người ta đưa ra rất nhiều định nghĩa. Một trong nhiều định nghĩa được ghi nhận: con người là một hữu thể tôn giáo, nghĩa là giữa con người với thần linh có mối tương quan. Tôn giáo, hay tín ngưỡng là kết quả tìm kiếm thiên chúa của con người. Dầu vậy, thần linh và con người không cùng một loài, nên người ta không thể hiểu biết được thần linh, nếu ngài không tự tỏ mình ra cho họ.

Đọc lại lịch sử cứu độ, tác giả thư gởi tín hữu Do Thái chỉ cách thức Thiên Chúa tỏ mình ra bằng nhiều con đường khác nhau “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các vị ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết đây, nghĩa là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta qua Người Con là Đức Giêsu Kitô” (Dt 1,1). Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, nghĩa là thần tính Thiên Chúa kết hợp với nhân tính của Đức Giêsu, được sinh ra bởi một người đàn bà, sống dưới chế độ lề luật và bị chi phối bởi lề luật. Đón nhận thân phận của một con người bình thường đến độ người ta chẳng còn nhận ra Ngài nữa: Người đã bị liệt vào hàng tội nhân, bị kết án tử, bị nhổ khỏi đất kẻ sống. Nhưng nhờ những thương tích Người mà chúng ta hết thảy đều được chữa lành, được hưởng ơn tha tội và được sự sống đời đời.

Lời Chúa chủ nhật III Mùa Vọng phác họa chân dung Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta và mời gọi dọn đường đón Chúa trong tỉnh thức và sẵn sàng.

Bài đọc I, trích sách Ngôn sứ Isaia, đề cập đến các sấm ngôn an ủi. Gọi là sấm ngôn an ủi, vì khi đó dân Chúa đang bị lưu đày bên Babylon: chẳng còn đền thờ, chẳng còn nơi dâng của đầu mùa lên Chúa, chẳng còn người lãnh đạo, bị quân thù áp bức mãi không thôi; Isaia được sai đến an ủi dân. Ông nói với họ: “Can đảm lên, đừng sợ. Thiên Chúa của anh em đây rồi, sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35, 4). Ngài đến trong quyền năng của Đấng được xức dầu để khai mở một kỷ nguyên mới cho Israel: kỷ nguyên của hòa bình thịnh vượng, của công lý được vãn hồi, nhân phẩm con người được nâng cao và mọi khát vọng của dân Chúa, nhất là của người nghèo được đáp ứng đầy đủ. Đấng ấy đến từ Thiên Chúa, được sức dầu và được sai đến với dân. Sứ vụ của Người là loan báo tin mừng cho người nghèo khổ, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho các tù nhân, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng của Thiên Chúa.

Người ta luôn tự hỏi: Đấng mà vị ngôn sứ mô tả ở đây là ai vậy? Thật, không có câu trả lời nào chính xác bằng câu trả lời của Chúa Giêsu khi Người vào hội đường ở Nazareth, người ta đưa cho người sách ngôn sứ Isaia, mở sách ra gặp ngay đoạn viết: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi…”, và Người xác nhận: hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe.

Bài Tin Mừng hôm nay chuyển tải cùng một nội dung: Chúa Giêsu là Đấng muôn dân mong đợi. Đọc lướt qua, độc giả có cảm tưởng đoạn Tin Mừng nói về Gioan Tẩy Giả vì cuộc phỏng vấn nhắm vào ông, nhưng tác giả rất thâm thúy đẩy lùi Gioan vào hậu cảnh khi đặt vào miệng ông lời tuyên bố: tôi không phải là Đấng Kitô, tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa và đơn giản chỉ là một kẻ dọn đường; nên những việc tôi làm chỉ mang tính tượng trưng: tôi rửa anh em bằng nước, còn Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần.

Thưa anh chị em, Đức Giêsu, Đấng Emmanuel, bởi sự chết và sống lại, đã thiết lập phép rửa trong Chúa Thánh Thần nhằm ban tặng tình yêu và sự sống cho cả thế gian: “Người đã tự hiến tế để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều bất chính, luyện lọc chúng ta thành dân riêng của Người, một dân nhiệt tâm làm việc thiện” (Tt 2, 14).

Con Thiên Chúa làm người ở cùng chúng ta là Tin Mừng vĩ đại nhất, tin vui tròn đầy nhất đáp ứng mọi khát vọng của kẻ kiếm tìm chân lý và sự sống. Bởi vậy, khi đón nhận Chúa Giêsu, Thánh Phaolô cảm nghiệm sâu sắc niềm vui ơn cứu độ. Trong thư gởi giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca, ngài không ngừng khuyến khích cộng đoàn: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi, hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” (1Th 5, 16, 18a). Phaolô tin rằng: Chúa Giêsu mới là người thánh hóa và gìn giữ anh chị em vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến.

Hiểu như thế, chúng ta mới thấy công cuộc dọn đường là do Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng linh hoạt và mời gọi chúng ta đối thoại với Ngài. Dọn đường hay đối thoại với Chúa Giêsu là nên giống Chúa nhiều hơn trong cử chỉ, lời nói việc làm. Đời sống luân lý, đạo đức cá nhân hoàn hảo phải đặt nền tảng trên Lời Chúa, bằng không nó chỉ có giá trị tạm thời. Chúng ta thâm tín điều này: nếu đời chúng ta có Chúa, chúng ta sẽ hoàn hảo hóa đời mình và hoàn hảo hóa môi trường xã hội, cộng đoàn nơi mình sinh sống.

Chuyện kể (trích góp nhặt): Chúa Giêsu đang hiện thân nơi một thầy trong tu viện.

Khi mới thành lập tu viện, các tu sỹ được mọi người hết lòng kính trọng, yêu mến vì sự thánh thiện của các thầy. Phần các tu sỹ cầu nguyện và chữa mọi bệnh tật cho dân. Tu viện được Chúa chúc lành nên phát triển rất nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Nhiều năm sau, tinh thần các thầy sa sút, chểnh mảng những bổn phận của tu viện. Hậu quả, người ta không còn đến hành hương để xin các thầy cầu nguyện và chữa bệnh nữa, vì các thầy khấn không được, chữa bệnh không khỏi.

Năm đó một cha được bầu làm tu viện trưởng, ngài quyết tâm phục hồi tinh thần của đấng sáng lập tu viện. Ngài tìm đến một đạo sỹ để hỏi nguyên nhân tại sao tu viện sa sút như vậy. Vị đạo sỹ không giải thích mà nhắc: trong tu viện của cha có một người là Chúa Giêsu đang hiện thân nơi một thầy. Cha về tìm xem ai để hỏi, Ngài sẽ dạy cho cách phục hưng tu viện.

Trên đường về, vị tu viện trưởng nghĩ: chắc không phải là mình vì xét bản thân thấy yếu đuối nhiều hơn nhân đức. Ngài quyết định loan báo tin đó cho các thầy. Ai cũng tự thấy mình không phải là Chúa Giêsu, mà nghĩ người anh em bên cạnh mình mới là Chúa. Vì không biết chắc là ai, nên tốt hơn hết cứ kính trọng, yêu mến, phục vụ… để khỏi bất kính với Chúa Giêsu. Cứ như thế một thời gian tu viện lại nổi tiếng về sự thánh thiện. Các thầy lại cầu nguyện và chữa bệnh có hiệu lực như trước. Lúc bấy giờ họ mới vỡ lẽ: nhìn nhận Thiên Chúa nơi tha nhân là cách tốt nhất để thánh hóa bản thân và môi trường nơi mình sinh sống.

Xin cầu chúc quý cố ông bà, anh chị em về nhà nhìn thấy Chúa Giêsu nơi những người thân thương của mình để sống hiệp nhất yêu thương. Chính nơi điều này chúng ta đang dọn lòng đón Chúa cách tích cực và hiệu quả nhất.

Xin Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật III Mùa Vọng hôm nay. Amen.[Mục Lục]

29. Niềm vui đích thực

Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng, nghĩa là chúng ta đã trải qua hơn nửa chặng đường của Mùa Vọng. Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy vui lên. Tại sao vậy? Điều gì khiến chúng ta cần phải sống tâm tình hân hoan như thế? Vâng, chúng ta có rất nhiều lý do để vui mừng:

Trước hết, chúng ta vui mừng vì Chúa đã nhập thể làm người và đã mang lại cho chúng ta ơn cứu độ. Chúa đã đến và đã hiện diện trong lịch sử nhân loại, mang lại cho con người hồng ân lớn lao là cứu con người khỏi quyền lực sự chết và phục hồi cho con người địa vị làm con cái Thiên Chúa. Nhưng có lẽ nhiều người chúng ta không cảm thấy đây là một vinh dự lớn lao mà lại xem thường vì thấy làm con cái Thiên Chúa đâu có hơn gì người khác đâu. Quả thật, nếu nhìn theo phương diện phàm trần thì được làm con Chúa không hơn và không khác gì với những người khác, thậm chí còn phải mang lấy nhiều trách nhiệm hơn những người khác. Nhưng về phương diện đời sống thiêng liêng, chúng ta đang nắm giữ một vinh dự quá lớn lao, đang sở hữu một gia nghiệp sung mãn và vững chắc mà không ai trên trần gian này có thể có hay dám nghĩ tới. Chúng ta có quyền hy vọng như thế vì Chúa đã ban cho chúng ta Người Con Một yêu dấu của Ngài rồi thì không còn có gì mà Ngài lại từ chối không ban cho chúng ta. Tuy nhiên, hạnh phúc Nước trời chỉ nằm ở cuối chặêng đường trong hành trình đức tin của chúng ta. Phần thưởng ấy dành cho những ai hết lòng tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa qua nỗ lực sống thánh thiện trong từng ngày sống của mình. Sống tin tưởng và tín thác vào Thiên Chúa chính là chu toàn sứ mạng của mình, chu toàn những phận vụ mà mình đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa như những nén bạc được Thiên Chúa trao ban.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy một mẫu gương sống niềm vui và sống tín thác vào Thiên Chúa, đó là Thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh Gioan là người sống niềm vui tràn đầy vì ngài được kêu gọi làm Ngôn sứ của Chúa và làm tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan đã sống hết mình và hết tình với nhiệm vụ của mình trong sự khiêm tốn lạ lùng để làm cho mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng Kitô và là Đấng Cứu Độ muôn dân hằng mong đợi. Thánh Gioan đã hạ mình xuống để cho làm cho Đức Giêsu được sáng lên. Ngài đã nói “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại”. Thánh Gioan làm được điều đó vì ngài đang mang trong mình niềm tin yêu và hy vọng vào Thiên Chúa của ngài. Chúng ta cũng cần mang lấy tâm tình đó để sống vui trong từng ngày sống làm Kitô hữu và làm chứng nhân cho Thiên Chúa.

Chúng ta còn phải vui mừng vì biết bao những ơn lành người đã ban cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng đây là điều ít ai trong chúng ta nghĩ tới. Chúng ta thường có quan niệm coi Thiên Chúa như một vị khách hoà hiệp nào đó, lâu lâu ghé thăm chúng ta một lần rồi tặng cho chúng ta một món quà nào đó, thấy cũng vui vui vậy thôi. Vì nhìn Thiên Chúa như thế, cho nên chúng ta không thấy cần Thiên Chúa trong cuộc đời của mình bao nhiêu: có Ngài cũng được, không có Ngài cũng chẳng sao. Thậm chí nhiều lúc, chúng ta còn nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời này khi chúng ta thấy thiên tai, bệnh tật, bất công, đói nghèo xảy ra nhan nhản trước mắt; khi chúng ta thấy kẻ ác lại sống sung túc và dư dật, còn kẻ lương thiện, hiền lành thì lại sống chật vật và bị chèn ép tứ bề. Nhìn thấy nhân tình thế thái như vậy thì làm sao chúng ta vui được? Làm sao chúng ta có thể hân hoan tiến bước trong đời sống đức tin của chúng ta được?… Tất cả những điều ấy chỉ có thể giải đáp trong đời sống đức tin mà thôi. Nhưng tắt một lời là nếu vắng bóng Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta một giây phút thôi, nếu Thiên Chúa ngưng gìn giữ vù trụ này một giây phút thôi thì tất cả sẽ ra tro bụi hết, sẽ về cõi hư vô hết. Chúng ta cũng cần hiểu biết rằng: nếu không có cuộc sống đời sau và sự sống vĩnh cửu thì cuộc đời này sẽ vô lý, vô nghĩa và nói như Jean Paul Sarte: “Cuộc đời này buồn nôn” vô cùng. Nhưng chúng ta tin có sự sống đời sau, có thưởng phạt trong cuộc sống mai sau. Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng nhưng Ngài cũng công bằng vô cùng: Số phận của con người chúng ta sẽ khác biệt nhau trong cuộc sống mai sau tuỳ vào lối sống hiện tại của chúng ta. Kẻ dữ, người lành sẽ được Thiên Chúa tách biệt ra như “mục tử tách chiên ra khỏi dê” vậy. Vì thế, mọi việc làm của chúng ta ở cuộc đời này cần phải được đặt nền móng trong Thiên Chúa, trong cuộc sống mai sau. Có như thế thì chúng ta mới thấy phấn khởi và hân hoan tiến bước. Chúa Giêsu đã khuyên nhủ chúng ta rằng: “anh em hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, ” (Ga 6,27). Nếu chúng ta giữ đạo chỉ vì muốn được hạnh phúc ở đời này thôi thì quả thật đức tin của chúng ta còn non yếu lắm và coi chừng chúng ta là những kẻ khờ dại trước mặt Thiên Chúa. Chúa không hứa hạnh phúc ở đời này cho bất cứ ai theo Ngài, có hứa chăng là Ngài hứa cho chúng ta được nên giống Ngài trên con đường Thập giá để mai sau chúng ta được Phục sinh vinh quang với Ngài trên trời. Chúa nói: “phúc cho anh em khi vì Thầy mà bi người ta bắt bớ và vu khống mọi điều xấu xa”. Chúng ta có dám đón nhận phúc lành của Chúa không? Chúa Giêsu cũng nói với thánh Phêrô rằng: “Con ráng làm Giáo hoàng cho ngon lành và tốt đẹp nhé, Thầy sẽ cho con được chết giống như Thầy”. Như vậy, cuộc đời theo Chúa của từng người chúng ta không nhằm vinh quang ở đời này, không nhằm hạnh phúc chóng qua ở đời này, nhưng là hạnh phúc lớn lao mai sau. Đó là động lực, là niềm vui mà Giáo hội mời gọi chúng ta hân hoan đón nhận và tích cực sống đời sống Kitô hữu của mình.

Chúng ta còn một lý do nữa để vui mừng là chúng ta đang mang trong lòng một niềm hy vọng về một tương lai huy hoàng và chắc chắn. Trong sứ điệp Mùa vọng năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô mời gọi người Kitô hữu chúng ta sống niềm hy vọng. Như vậy, sống Mùa vọng là sống niềm hy vọng. Quả thật, đời sống của người Kitô hữu của chúng ta được đông đầy bởi niềm hy vọng: hy vọng vào vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, hy vọng vào một tương lai huy hoàng mai sau. Nói cách khác, niềm tin Kitô giáo của chúng ta được xây trên niềm hy vọng vững chắc cho cuộc sống mai sau.

Ước gì chúng ta luôn sống vui mừng và hy vọng trong từng ngày sống của chúng ta trong niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu qua thái độ sống tích cực, vui tươi với mọi người, hăng hái làm việc thiện, khát khao tìm gặp Chúa và tìm mọi phương thế cũng như tận dụng mọi khả năng để làm cho Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng ta và trong vũ trụ này. Amen.[Mục Lục]

30. Làm chứng

Chị Rơ Châm H’Jưng, là người J’rai, đất Ialy, Kontum, giáo viên cấp I. Chị đang học Giáo lý tân tòng thì bị chính quyền xã gọi đến cấm đoán. Sau nhiều lần như thế, chị bị buộc phải chọn lựa: hoặc làm giáo viên, hoặc theo Chúa. Chị khẳng khái trả lời: “Tôi chọn theo đạo Chúa.” Thế là bị nghỉ việc. Chị kể lại: khi nhận tờ giấy thôi dạy, chị thấy tương lai của gia đình, con cái đều sụp đổ… Chị lại trở về bản làng làm lụng kiếm ăn. Bà con biết chị theo đạo đã đến xin chị dạy đạo cho họ. Lúc đầu chị từ chối, nghĩ rằng ngoài khả năng mình; nhưng sau vì thấy cần, chị chịu khó đọc Kinh thánh, cầu nguyện suy niệm Lời Chúa. Chị mạnh dạn nói về Chúa cho mọi người. Càng ngày bà con càng đến với chị đông hơn, có khi phải lội bộ 20, 30 cs, hay bị cấm đoán, phạt vạ, vì họ đến học đạo nơi chị. Từ đó, chị lại càng thấy rõ cái được, cái mất hơn nữa: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Cũng từ nay, chị nhận ra mình là sứ giả của Tin mừng cho người nghèo mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chị, không chỉ rao giảng Lời Chúa, mà còn để xoa dịu những tâm hồn tan nát, chữa lành người tật bệnh. (Vietcatholic news, 18.01.2003). Đây chính là hình ảnh của thánh Gioan nói trong TM hôm nay; ngài là chứng nhân sống cho Chúa Kitô. Kính mời cùng suy niệm…

a/. Gioan Tẩy giả, trước mắt người phàm:

Thánh Gioan Tẩy giả được kinh thánh tuyên xưng là vị đại Tiên tri, Đấng Tiền hô đi trước dọn đường cho Đấng Cứu thế, vậy mà cuộc đời của ngài vinh quang đâu chẳng thấy, chỉ thấy toàn là long đong, vất vả. Lớn lên nhận được ơn gọi làm chứng nhân, người tiền phong cho Chúa Cứu thế, thánh nhân đã vào sa mạc sống khắc khổ, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo bằng da lông thú. Chính Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “các ông vào sa mạc tìm gì? Có phải tìm cây sậy phất phơ trước gió không? – Không. Hay có phải tìm một người ăn mặc lụa là gấm vóc? Nhưng hạng người đó lại chỉ ở trong cung điện nhà vua. Vậy có phải các ông đi tìm một vị tiên tri không? Đúng và còn hơn một tiên tri nữa…” (Ga 11, 7-9)

Thánh Gioan là một tiên tri, một chứng nhân như thế, vì lời thẳng thắn đã không làm hài lòng nhóm tư tế, kinh sư do thái. Thánh Gioan còn làm phật ý cả vua Hêrôđê, đến nổi bị bà Hêrôđiađê dùng mưu mà chém đầu. Trước mặt thế gian, ai cũng cho là thất bại, là điên rồ. Cuộc đời của các thánh hiển tu, các vị tử đạo cũng thế. Các ngài bị chê là những kẻ khờ dại, mê lầm, những người không hiểu biết nên mới chối bỏ vinh hoa phú quí trần gian… Những con người bị chê; thả mồi bắt bóng… Có đúng như thế không?

b/. Gioan Tẩy giả, trước mặt Thiên Chúa, là một chứng nhân tận tụy và trung kiên:

“Có người hỏi: Ông là ai? Có phải là Đấng Cứu thế không? Gioan trả lời: Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc…” (Ga 1, 20-29)

“Tôi chỉ làm phép rửa cho anh em trong nước; Đấng đến sau tôi, sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lữa…” (Mt 3, 11)

“Khi Đức Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa, Gioan nói: chính tôi mói cần được ngài làm phép rửa.” (Mt 3, 14).

“Đấng đến sau tôi, cao trọng hơn tôi; tôi không đáng cởi quai dép cho Người…” (Gn 1, 27)

Thánh Gioan Tiền hô quả là một chứng nhân tận tụy và trung kiên. Dù là một đại Tiên tri đi trước mở đường cho Đấng Cứu thế, nhưng rõ ràng ngài khiêm tốn biết bao khi nói lên chính sự thật này: “tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.Tôi chỉ rửa anh em trong nước mà thôi…” Một con người sống sau thánh Gioan không bao lâu, nhỏ hơn ngài cũng không nhiều, cũng đã sống như một chứng nhân tận tụy và trung kiên như Gioan Tẩy giả, đó là Thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại.Thánh nhân cũng đã từng nói những lời không khác thánh Gioan là mấy:

“Tôi sống nhưng không còn phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gal 2, 20). “Tôi biết tôi đang tin vào ai…” (II Tim 1, 12)

“Ước gì tôi chẳng hảnh diện điều gì, ngoài thập giá Đức Kitô.” (Gal 6, 14)

“Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng phúc âm.” (I Cor 9, 16)

“Ai tự hào, hãy tự hào trong Chúa.” (I Cor 1, 31)

“Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng cho tôi được mạnh mẻ.” (Phil 4, 13)

Thánh Gioan TG, thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, họ là những chứng nhân tận tụy kiên cường như thế, làm sao chúng ta có thể nghỉ họ là người ngây dại mê muội, không khôn ngoan?

Câu chuyện: Mang thai đứa con thứ tư, bác sĩ Gianna Beretta Molla mới biết mình mang căn bệnh đe dọa mạng sống cả hai mẹ con, bà không hề do dự. Luôn tin tưởng vào sự Quan Phòng và Tình thương của Thiên Chúa, bà sẵn sàng dâng hiến mạng sống để cứu bào thai. Bà nghiêm trang nói với bác sĩ: Nếu quí vị phải đắn đo chọn lựa giữa tôi và đứa bé, xin đừng do dự, hãy cứu sống đứa bé, vì tôi mong muốn như vậy! Ngày 21-4-1962, bác sĩ Gianna Molla sinh một bé gái, đặt tên: Gianna Emanuela. Chỉ một tuần sau, bà trút hơi thở cuối cùng, miệng vẫn thiết tha lập đi lập lại: “Lạy Đức Chúa GIÊSU, con yêu mến Chúa”. Bà hưởng thọ 40 tuổi. Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã tôn phong bà là Mẹ các gia đình, lên hàng chân phước ngày 24-4-1994. Ngày 16-5-2004, bà lại được tôn lên hàng hiển thánh. Lễ kính ngày vào ngày 28-4 hàng năm. Con của bà là Gianna Emanuela, hiện nay 46 tuổi, hành nghề bác sĩ nối nghiệp hiền mẫu đáng kính của mình.

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thánh Gioan đã là vị đại tiên tri, vậy mà Gioan chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc, chứng nhân can trường đi trước dọn đường cho Chúa Cứu thế. Ta có tin nơi lời Gioan nói, tin vào việc ngài làm không? Nhất là ta có sẵn sàng sống như là chứng nhân cho Chúa Kitô ở giữa lòng thế giới hôm nay không?[Mục Lục]

31. Làm chứng cho ánh sáng

(Suy niệm của Lm. Barnaba Lê An Phong)

  1. Có một người Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến làm nhân chứng để làm chứng cho ánh sáng. Ông không phải là ánh sáng, nhưng đã được gửi đến làm chứng về ánh sáng đó. Và đây là lời chứng của Gioan, khi người Do Thái gửi các “chuyên viên” từ Jerusalem đến hỏi ông: “Ông là ai?”. Gioan thú nhận, không phủ nhận, “Tôi không phải là Đức Kitô” – Tôi không là Đấng cứu thế, cũng không phải là nhà tiên tri. “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn con đường của Đức Chúa, như tiên tri Isaia đã nói”.

Trước mặt ông là sa mạc hoang vu, và nơi ấy Gioan đã lắng nghe Lời Chúa. Đến với ông là mọi người thuộc nhiều tầng lớp và là những ai muốn đổi mới cuộc đời. Gioan Tẩy giả loan báo và dọn đường bằng lời nói và bằng hành động nơi cuộc sống của chính mình.

Gioan Tẩy giả bị “hạch hỏi” vì những gì mình đang làm nhân đanh Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn dùng con người – các ngôn sứ – để nói về Ngài và nhờ họ dẫn đưa nhiều người về với Thiên Chúa. Cũng vì thế, lý chứng hay nhân chứng về Thiên Chúa không phải được con người đón nhận luôn luôn. Người ta có thể chất vấn, tra hỏi và xua đuổi các chứng nhân Tin mừng.

  1. Tin mừng tuần này theo Thánh Gioan cũng nói đến ánh sáng và làm chứng cho ánh sáng. Cuộc tranh đấu giữa thiện và ác, tốt và xấu, ánh sáng và bóng tối vẫn luôn diễn ra trong và ngoài bản thân mỗi chúng ta. Bây giờ chúng ta đang bão hòa với “tin xấu” và sự dửng dưng, vô cảm. Chỉ cần nghe vài thông tin là người ta có thể rơi vào tình trạng “trầm cảm”. Đây là tin chiến tranh, này là tin cuộc sống “có vấn đề” của giới trẻ; nọ là tin bạo lực vô cớ đối với phụ nữ và trẻ em, kia là tin gia đình tan nát vì muôn vàn lý do ngô nghê.

Cần chăng những tin vui và bình an được loan đi! “Tin mừng của Thiên Chúa”, đây không phải là một kiểu chơi chữ. Lời mở đầu khi đọc Lời Chúa là “Tin mừng”. Con người luôn mong đợi được nghe một điều tốt lành ở giữa rất nhiều tin tức xấu. Sự xuất hiện của tình yêu Thiên Chúa nơi Đấng an ủi và hoà giải mọi người luôn là một tin tốt lành.

  1. Theo gương Gioan, chúng ta có thể là một sự hiện diện chứng tá. Cũng giống như Gioan Tẩy Giả, mục đích rao giảng của ông không phải là để thu hút sự chú ý của mọi người về phía mình và để chiếm toàn bộ thế giới cho riêng mình, nhưng là để chuẩn bị một không gian rộng lớn hơn nơi tâm hồn mọi người, và toàn bộ không gian ấy thuộc về Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có Ngài mới là “ân sủng tràn đầy của Thiên Chúa”, và Ngài sẽ xuất hiện cho chúng ta trong tất cả vẻ huy hoàng rực rỡ, như ánh sáng rọi vào đêm tối.

Bạn và tôi có thể chuẩn bị và làm sạch sẽ không gian bụi bặm của tâm hồn mình để ánh sáng của Chúa có thể rọi chiếu vào. Bạn và tôi có thể làm chứng cho Ngài trong tuần lễ này bằng lối sống chân thực và khiêm nhường được chăng? Hãy thắp lên một ngọn nến nhỏ khi bạn cầu nguyện trong tuần này, một dấu hiệu cho thấy chúng ta đang tỉnh thức. Ngọn nến thắp sáng cũng là một dấu hiệu của ánh sáng đã rọi chiếu vào chúng ta qua Bí tích Rửa tội. Trong Mùa Vọng này, bạn được mời gọi để xem lại rằng ánh sáng ấy đang trở nên mờ nhạt hay không. Hãy xin Chúa giúp bạn cảm nhận được vẻ đẹp và sự ấm áp của ánh sáng đã đốt cháy tâm hồn bạn, để bạn cũng có thể làm sinh động, chiếu sáng và sưởi ấm những người gần gũi với bạn.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến với chúng con. Vì Ngài là ánh sáng của thế giới, xin hãy chiếu sáng tâm hồn chúng con. Amen.[Mục Lục]

32. Tiếng kêu nơi sa mạc – Lm. Minh Vận, CRM

Trước đây không lâu, tại Dallas, Texas có một nhân viên trong công ty đổ rác thành phố, được dân chúng ca tụng khắp các nẻo đường ông đi. Mười bảy người viết thư cho ông Giám Đốc vệ sinh công cộng Jach Davis, để ca ngợi người phu đổ rác George Cummings là một người hiền lành, niềm nở và lịch thiệp với hết mọi người. Họ còn viết quả quyết rằng: “Chúng tôi đều biết ông ta là một người Công Giáo đơn thành, một công dân ái quốc và là một người bạn thân tình”. Họ cũng nhắc lại việc Cummings đã giúp họ mua hoa khi có người hàng xóm qua đời, việc ông nhặt được một chiếc đồng hồ, rồi cố tìm ra chủ nhân để trao trả lại, hoặc một món đồ mà ông cho là chủ của nó vì lầm mà vứt đi, ông cũng tìm hết cách để hoàn lại.

Ông Giám Đốc Davis đã gởi cho Cummings bức thư với những hàng chữ này: “Mọi người đều mến chuộng ông, vì cách làm việc của ông thật đặc biệt”.

  1. GIOAN LÀM CHỨNG CHO CHÚA

Bài Tin Mừng hôm nay, cũng thuật truyện một người thật mộc mạc, chất phác quê mùa nghèo nàn, chay tịnh khổ hạnh như một ẩn sĩ từ rừng thẳm đi ra, nhưng lại được nhiều người mến chuộng đến nỗi, từng đoàn lũ đông đảo, gồm đủ mọi thành phần xã hội, từ khắp nơi tuôn đến, say mê nghe lời ông giảng, đấm ngực sám hối cải thiện và cúi đầu chịu Phép Rửa Sám Hối do tay ông tại sông Jordan.

Danh tiếng ông đồn thổi đến tai những vị vọng trong dân; do đó, các ngài đã sai các vị Tư Tế và các thầy Levi đến hỏi xem ông có phải là Đấng Kitô, Thiên Chúa sai đến, Đấng mà muôn dân đang mong đợi không?

Khi họ hỏi: “Ông là ai?” Ông đã thẳng thắn tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại nghi ông là đại tiên tri Elia, cũng được ông quả quyết: “Tôi không phải là Elia”. Sau cùng, họ lại nghĩ ông là một vị tiên tri Thiên Chúa sai đến, cũng được ông dứt khoát trả lời: “Tôi đâu có đáng là một tiên tri”.

Thế rồi họ năn nỉ ông: “Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời lại cho những người đã sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?”

Gioan khiêm tốn đáp lại: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay thẳng đường Chúa đi”. Câu trả lời khiêm tốn này, tuy vắn tắt nhưng đã nói lên tất cả sứ mạng của Gioan, là làm chứng nhân cho Chúa Kitô.

  1. LÀM CHỨNG CHO CHÚA CÁCH NÀO

Gioan là một vị tiên tri cao trọng và diễm phúc nhất trong các tiên tri từ trước đến nay, đã được Chúa tuyển chọn đặc biệt, được vui sướng nhảy mừng khi Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm, được thánh hóa ngay từ khi còn trong thai mẫu, để xứng đáng là vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế. Ngài được Thiên Chúa sai đến chuẩn bị cho Chúa Cứu Thế một dân tộc thánh thiện, bằng việc rao giảng Phép Rửa Sám Hối, kêu gọi mọi người cải thiện đời sống, để được xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế và Ơn Cứu Độ của Người.

Sứ mạng và địa vị của Gioan cao trọng đến nỗi, chính Chúa Kitô đã phải khen thưởng trước mặt mọi người: “Trong các nam nhân do phụ nữ sinh ra không một ai cao trọng hơn Gioan Tiền Hô” (Lc 7:28). Mặc dầu được vinh dự trước mọi người, được muôn người ngưỡng mộ, ngài không hề tự đắc kiêu căng; trái lại, ngài càng hạ mình xuống thẳm sâu trước nhan Thiên Chúa và trước mặt mọi người. Ngài đã công khai thú nhận địa vị thấp hèn của mình, khi đáp lại nhóm biệt phái được sai đến hỏi ngài: “Tôi đến làm Phép Rửa trong nước; nhưng ở giữa các ông có Đấng mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi, nhưng Ngài có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài”.

Lời rao giảng chân thành, đi đôi với cuộc sống khổ hạnh và khiêm nhu, đã đáng cho mọi người khâm phục và tin theo; bởi lẽ ngài luôn tôn cao Đấng ngài rao giảng, còn riêng bản thân ngài, ngài chỉ tự nhận thân phận tôi tá của Chúa, chỉ là người được sai đến để dọn đường cho Chúa.

Đời sống khiêm nhu thánh thiện đó, được chứa đựng tất cả ý nghĩa trong lời châm ngôn, chính Thánh Nhân đã tuyên bố trước mặt mọi người về Chúa Cứu Thế: “Người cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải hạ thấp xuống” (Jn 3:30).

III. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA LÀ GÌ

Cũng như Gioan, mỗi người chúng ta đều đã được Chúa tuyển chọn và ủy thác sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa Kitô, ngày chúng ta được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy. Cũng ngày đó, chúng ta được Thánh Thần Chúa xức dầu hoan lạc, ban cho chúng ta được diễm phúc trở nên con cái Chúa, phong chúng ta làm tiên tri và sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó, an ủi những tâm hồn đau thương buồn tủi, thăm viếng những tù nhân trong ngục thất, giúp đỡ chia sẻ với những người cùng khổ, những người mang số phận hẩm hiu bị đời quên lãng.

Mỗi người trong chúng ta tùy theo địa vị, chức phận mình trong xã hội, đều phải làm chứng nhân cho Chúa, rao giảng Chúa Kitô bằng chính đời sống thánh thiện gương mẫu của mình.

Để chu toàn sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa, chúng ta cũng không thể dùng phương thế nào khác, ngoài phương thế Thánh Gioan Tiền Hô đã dùng, là luôn đề cao Đấng mình rao giảng: “Người cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải hạ xuống”. Chúng ta cần phải đi ngược lại tâm tính tự nhiên của con người là kiêu căng, luôn thích đưa mình lên trên mọi người, đã bị lưu truyền do nguyên tội, vì: “Chúa thường chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho kẻ khiêm hạ” (Jac 4:6), như chính lời Chúa Kitô đã dạy: “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14:11).

Lêlin, ông tổ đảng cộng sản quốc tế, chủ trương chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, với tham vọng sẽ bá chủ hoàn cần, tiêu diệt mọi thứ tôn giáo mà ông cho là “Một thứ á phiện nguy hiểm” do bọn tư bản tạo ra. Mộng ước ngông cuồng của ông đã chẳng bao giờ thực hiện được. Lòng kiêu căng phạm thượng của ông thấu đến trời cao, đã bị uy quyền Thiên Chúa hủy diệt. Ông đã chết trong cơn hấp hối kinh hoàng, đau đớn dằm vặt đến tột độ, như chính lời Trosky, một người bạn thân tín của ông đã chứng kiến cảnh hấp hối hãi hùng đó đã quả quyết: “Nếu bọn ác quỉ có thể chết, thì tôi thiết tưởng: Chúng cũng chỉ chết cách ghê sợ đến thế là cùng!”

Kết Luận

Để dọn lòng xứng đáng đón mừng ngày kỷ niệm Chúa Giáng Sinh, chúng ta hãy thực thi sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa Kitô, bằng lời rao giảng sống động qua chính đời sống khiêm nhu thánh thiện của chúng ta, như Thánh Gioan Tiền Hô đã làm gương: “Chúa cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải được hạ xuống” (Jn 3:30).

Hoặc như người phu đổ rác George Cummings Dalas luôn làm vừa lòng mọi người, để mọi người phải thán phục quả quyết về ông: “Chúng tôi biết ông ta là một người Công Giáo đơn sơ, một công dân ái quốc, và là một người bạn thân tình”. Lại được ông Giám Đốc công ty vệ sinh công cộng để lời khen tặng: “Mọi người đều mến chuộng ông vì cách làm việc của ông thật đặc biệt”.[Mục Lục]

33. Có một người ở giữa anh em – An Phong

Trong mùa Vọng, ba nhân vật vẫn được nói đến luôn, đó là: Đức Maria, ngôn sứ Isaia và Gioan – người làm phép Rửa. Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến nhân vật thứ ba vừa nói ở trên, với một chứng từ rõ ràng về con người sa mạc ấy. Gioan loan báo Đấng đang đến, Gioan chỉ cho thấy Đấng ấy chính là Đức Giêsu; và một hệ luận tất nhiên: Gioan nhận ra mình không xứng đáng cởi xăng-đan cho Người.

Cùng với Gioan, mùa Vọng hẳn là mùa loan báo và là mùa chỉ cho thấy; đồng thời mùa Vọng là mùa nhận ra mình không xứng đáng.

Thiên Chúa vốn là một vị Thiên Chúa ẩn giấu. Người ta đã hao tổn biết bao giấy mực để cố khám phá vị Thiên Chúa ẩn giấu này. Gần 2000 năm lịch sử trước Chúa Giáng sinh, người ta mặc sức hình dung Ngài với những dung mạo khác nhau. Với Abraham, Ngài không có tên; Ngài là “sự sợ hãi của Isaác” (St 31,42), là “Đấng Tối Cao của Giacóp” (St 49,24)… Với Isaia, Ngài là “Người Tôi Tớ đau khổ”…

Như thế, Ngài luôn luôn và vẫn là một vị Thiên Chúa cần được loan báo và cần được chỉ cho thấy. Đôi lúc người ta phác họa chân dung một Thiên Chúa sai lạc, hoặc chỉ dò ý tưởng riêng của mình. Hẳn lúc đó, nguời ta sẽ nhận được một câu trả lời “tôi không phải như là các bạn nghĩ đâu”; hoặc “có một người ở giữa anh em mà anh em không nhận ra”.

Như thế, cùng với Gioan, chúng ta hẳn phải loan báo và chỉ cho người khác thấy một vị Thiên Chúa tình yêu; Loan báo và chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đến. Ngài đang ẩn giấu nơi người nghèo, người đau khổ, những phụ nữ “đứng đường”… bởi Ngài là tình yêu, là niềm cảm thông sâu xa thân phận con người.

Như Gioan, nhận ra mình không xứng đáng, đó là một sự không xứng đáng trước vị Thiên Chúa tình yêu bao la; ta đấm ngực “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”, nghĩa là dám nhận ra mình còn “những điều thiếu sót”, chưa làm những điều phải làm để gia tăng tình yêu. Victor Hugo đã có lần lên tiếng cảnh tỉnh: Ngày nào chúng ta không thắp lên ngọn lửa sưởi ấm, ngọn lửa tình yêu, chắc chắn sẽ có người chết rét”.

Như thế, cùng với Gioan, chúng ta cất tiếng cao rao tình yêu Thiên Chúa bao la và cố gắng sống bác ái với mọi người.

Lạy Chúa Giêsu,

Hẳn cũng có lần con đấm ngực, dằn vặt tâm hồn

và tha thiết mong Chúa giải thoát nỗi khốn cùng của con.

Hẳn cũng bao lần con đứng trước hang đá, cầu xin Chúa mau đến;

Nhưng hình như con chưa dám “đóng vai Chúa”

để đến với những người nghèo khó,

khổ đau chung quanh con.

Và hình như con chưa nhận ra Chúa là tình yêu,

Chúa đang mời gọi tình yêu nơi chính tâm hồn của con.

Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài trở nên tình yêu trong con

và đốt nóng tâm hồn của con bằng tình yêu của Chúa.[Mục Lục]

34. Tìm gặp Chúa trong vị thế của mình

(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)

Vào thời Chúa Giêsu tại thế, người ta đã chán ngấy tình trạng xã hội suy đồi bên đất Pa-lét-tin. Đời sống những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự thì truỵ lạc. Còn trên bình diện chính trị thì đất nước của họ bị phân chia và bị đế quốc La mã cai trị, nên họ mong đợi Đấng Cứu thế đến hơn bao giờ hết.

Và theo quan niệm của dân chúng, thì Đấng Cứu thế đến sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ người ngoại bang, khiến cho đất nước của họ trở nên giàu mạnh, và dân tộc họ vượt lên hàng bá chủ hoàn cầu. Vì thế sứ điệp rao giảng sám hối của Gioan tiền hô để dọn đường cho Đấng Cứu thế đến đã làm khơi dậy một niềm vui phấn khởi của dân Do thái. Sở dĩ có như vậy là vì qua bao nhiêu thế hệ, họ đã bị quyền lực ngoại bang áp đảo: dưới ách thống trị của đế quốc Ba tư, dưới ách nô lệ của người Ai cập, dưới ách đô hộ của dân Xyria và dưới ách cai trị của đế quốc La mã.

Một nhóm người, chán nản cảnh suy sụp và vô luân trong xã hội, rút lui vào sa mạc Qumran xứ Giuđê gần Biển Chết, tuyên thệ để tài sản làm của chung, sống đời cầu nguyện, chiêm niệm và học hỏi Thánh kinh. Theo suy đoán có căn cứ thì ông Gioan tiền hô thuộc nhóm người sống trong cộng đồng tu này vì khi rao giảng phép rửa thống hối, ông ta xuất hiện từ sa mạc xứ Giuđê. Như vậy nếu theo quan niệm của quần chúng về đấng cứu thế, thì ông Gioan tiền hô cũng có thể mạo nhận cho mình là đấng Cứu Thế, nhất là sứ điệp rao giảng của ông có sức lôi cuốn mãnh liệt. Tuy nhiên khi dân chúng cử một số thượng tế và các thầy Lêvi đến hỏi xem ông là ai, thì được ông trả lời: Tôi không phải là Đấng Kitô (Ga 1:20). Hay ông là ông Êlia chăng? Tôi không phải là Elia (Ga 1:21). Vậy ông có phải là vị một ngôn sứ không? Tôi cũng không phải (Ga 1:21). Và ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường ngay thẳng cho Đấng cứu thế đến như ngôn sứ Isaia đã loan báo (Ga 1:23).

Những người tư tế được cử đến hỏi Gioan hẳn phải biết ông Gioan không phải là nhân vật tầm thường bởi vì cha ông là Dacaria cũng là một tư tế được thấy hiện tượng lạ trong Đền thờ về ông Gioan. Thế mà ông Gioan chỉ trả lời cách trung thực và khiêm tốn như vậy. Rồi mấy người Pharisêu trong nhóm lại hỏi tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô. Gioan trả lời: Tôi làm phép rửa trong nước… Người sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1:26-27).

Tại sao dân chúng lại hỏi xem Gioan tiền hô có phải là Êlia không? Thưa lí do là thế này. Theo ngôn sứ Malakhi, thì ngôn sứ Êlia sẽ trở lại trước khi Đấng cứu thế xuất hiện (Ml 3:23). Nhiều người đương thời Chúa Giêsu cũng tin như vậy, chẳng hạn như các kinh sư (Mt 17:10; Mc 9:11). Họ tưởng rằng Gioan là Êlia tái xuất hiện vì ông cũng bận giống như ông Êlia: Mặc áo lông lạc là, thắt lưng bằng giây da (Mc 1:6; 2V 1:8) và khi rao giảng, giọng nói của ông cũng như thét ra lửa. Khi Chúa Giêsu nói Gioan chính là Êlia (Mt 11:14; 17:12-13, Mc 9:13), Chúa muốn nói Gioan đến trong tinh thần của Êlia. Đó chính là điều mà sứ thần của Chúa nói về Gioan tiền hô là con của ông Dacaria như sau: Cháu sẽ đi trước mặt Người, đầy thần khí và uy quyền của ngôn sứ Êlia (Lc 1:17). Và tại sao họ còn hỏi xem Gioan có phải là vị ngôn sứ không và họ ám chỉ về ngôn sứ nào? Thưa sự thể là thế này. Sách Đệ Nhị luật có bàn đến một vị ngôn sứ sẽ xuất hiện giữa họ để giúp họ (Đnl 18:15). Căn cứ vào đó mà họ mong đợi vị ngôn sứ đến giúp họ tham dự vào kỉ nguyên của Đấng Thiên sai.

Theo tông đồ thánh sử Gioan, thì ông Gioan tiền hô được sai đến làm chứng về ánh sáng (Ga 1:7, 8). Đó là ánh sáng cứu độ trần gian, ánh sáng ban sự sống và ánh sáng chân lí. Đó là ánh sáng giải thoát đã được ngôn sứ Isaia loan báo hơn năm trăm năm về trước cho dân chúng đang bị lưu đầy bên Babylon. Bấy giờ ngôn sứ Isaia có thấy rõ được ý nghĩa trọn vẹn và thực sự của cuộc giải thoát hay không, thì không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là khi mở đọc bài sách Isaia hôm nay (Is 60:1-2) trong hội đường Nadarét, Đấng cứu độ trần gian công bố là Người đến để hoàn tất lời tiên tri này. Còn Gioan tiền hô chỉ đến để làm chứng cho ánh sáng giảỉ thoát và cứu độ mà thôi.

Giả sử Gioan tiền hô qui công về cho mình, cũng khoe khoang, mạo nhận mình là Đấng cứu thế, thì ông đã mất hết công nghiệp trước mặt Thiên Chúa. Theo Thánh kinh ghi lại thì Gioan tiền hô đã nhận chân được vị thế của mình trước mặt Đấng tối cao. Ông chủ trương Đấng Kitô phải rạng rỡ thêm, còn ông phải lu mờ dần đi (Ga 3: 30) nghĩa là Đấng Kitô phải được vinh danh, còn ông phải lui vào bóng tối.

Bài học mà Gioan tiền hô dạy ta sửa soạn đón mừng Đấng cứu thế đến là biết chấp nhận: chấp nhận sự thật về mình, chấp nhận vị thế, thế đứng và giới hạn của mình, không giả tạo, không qui công về cho mình cái mà mình không có, điều mà mình không làm. Hôm nay Giáo hội dùng những bài Thánh kinh chứa đựng những lời lẽ khích lệ, bảo ta hãy vui lên, vì ngày giờ cứu rỗi đã gần. Còn Gioan tiền hô thì dạy ta làm sao để tạo cho mình niềm vui chấp nhận để dọn đường đón mừng Đấng cứu thế. Là người tín hữu ta phải học hỏi với Gioan tiền hô để nhận biết mình, chấp nhận bản thân và hoàn cảnh. Nếu không, ta có thể trở thành những người bất mãn. Thái độ bất mãn sẽ làm cản trở cho việc Chúa đến trong tâm hồn.

Vậy chỉ khi nào ta bằng lòng chấp nhận vị thế, chỗ đứng, giới hạn của mình trong tâm tình biết ơn Đấng tạo dựng, ta sẽ có được tâm hồn ai vui, không bận tâm về mình, để có thể mở rộng tâm hồn đón mừng Đấng Cứu thế.

Lời cầu nguyện xin cho được biết vị thế của mình:

Lạy Chúa, Chúa là Đấng sáng tạo muôn loài muôn vật.

Xin cho con nhận thức được rằng:

Con chỉ là đất sét, còn Chúa mới là thợ gốm.

Chúa muốn con thành dụng cụ gì,

là do bàn tay tác tạo của Chúa.

Như Gioan tiền hô, không mạo nhận,

xin dạy con biết sống trung thực với lòng mình,

để con cảm nghiệm được niềm vui

đón chờ Chúa đến. Amen.[Mục Lục]

35. Chúa nhật hồng – Niềm vui cứu độ

Chúa Nhật hôm nay được gọi là: “Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật Vui”. Đây là một niềm vui rất to lớn và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Niềm vui này chúng ta được nghe trong Lời Chúa hôm nay: “Anh chị em hãy vui lên trong Chúa.! Tôi nhắc lại một lần nữa: Anh chị em hãy vui lên vì Chúa đã đến gần!…”. Niềm vui này là một niềm vui được ơn Chúa cứu độ, niềm vui được an bình, niềm vui được hạnh phúc! Vậy thì chúng ta phải sống như thế nào trong Mùa Vọng này, để hưởng được trọn vẹn hạnh phúc Chúa ban?

Chuyện kể rằng: Có một Ông Vua kia lúc nào cũng lo âu, mặc dù sống trong quyền lực và nhung lụa sung sướng nhưng ông không có hạnh phúc, không biết cách nào để có được hạnh phúc. Nhà Vua gọi các nhà khôn ngoan lại bàn hỏi xem làm thế nào trút bỏ những âu lo đang đè nặng tâm trí Vua đến nỗi Vua không thể nào có được một cuộc sống hạnh phúc? Nhà thông thái trả lời: “Chỉ có một cách duy nhất để giúp nhà Vua. Đó là Vua phải mặc chiếc áo của người có hạnh phúc thật sự!”. Thế là các sứ giả được sai đi khắp nơi để tìm kiếm một người đang mặc chiếc áo hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào được hỏi đến cũng có lý do để đau khổ, buồn sầu,… một điều gì đó đã cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng thì họ cũng tìm một người, đúng hơn là một người ăn xin. Người ăn xin này ngồi mỉm cười ở giữa chợ và tự xưng mình là người hạnh phúc nhất, không có một điều gì buồn rầu, lo âu. Sứ giả của Nhà Vua nói với người ăn xin về điều Nhà Vua cần mặc chiếc áo hạnh phúc ấy, và hứa trả cho người ăn xin một món tiền thật lớn để mua chiếc áo hạnh phúc ấy. Chúng ta nghĩ sao? Anh chàng ăn xin này có đồng ý bán chiếc áo hạnh phúc của mình không? Chúng ta có biết phản ứng của người ăn xin ra sao không? Không nín được cười, người ăn xin bật cười to lên và nói rằng: ” Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài lòng Nhà Vua được. Vì tôi chẳng có chiếc áo nào cả!!!”. Vâng người hạnh phúc nhật trên đời lại là người không có một chiếc áo nào cả!!!

Bài Tin mừng hôm nay Ga 1, 6-8, 19-28 cho chúng ta thấy nhiều người kéo đến với Gioan Tiền Hô để tìm kiếm hạnh phúc. Và ông cũng đã vạch ra cho họ những con đường trong chính cách sống của ông để họ thực sự hạnh phúc khi họ biết tin vào Đấng Cứu Thế đang đến gần. Đó là những con đường như:

Con đường sống khổ hạnh: Gioan sống ần dật trong samạc. Sống trong samạc đồng nhĩa với sống khổ hạnh: sống trong sự khắc nghiệt của thời tiết, trong sự hoang vu cô tịch, sự đe dọa của thú dữ. Sống khó nghèo, đơn sơ đạm bạc: mặc áo bằng da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng.

Con đường sống khiêm nhường: Gioan từ chối vinh quang mà người ta ban tặng cho mình. Ông thành thật nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế. Ông chỉ là “tiếng kêu trong sa mạc”, không đáng cởi giây giày cho Đấng Cứu Thế.

Con đường sống trung thực: Gioan đến để làm chứng về ánh sáng. Trung thực với sứ mạng của mình, một mặc ông chỉ cho chúng ta thấy ánh sáng thật là ai, mặc khác khi có người lầm tưởng ông là ánh sáng ấy thì ông thẳng thắn phủ nhận. Trung thực về những lời nói về mình nên ông không nhận vinh quang mà người ta lầm tưởng ban tặng. Trung thực với lòng mình nên Ông sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối,… Trung thực trong phán đoán nên ông thẳng thắn khuyên Vua Hêrôđê không được lấy chị dâu

Con đường sống quên mình: nhìn nhận là người đưa tin nên ông quên mình để cho Đức Giêsu nổi bật lên. Ông tự hủy mình để Đấng Cứu Thế được nhận biết.

Tóm lại Gioan Tiền Hô là một chứng nhân tuyệt hảo, Ông là chứng nhân của ánh sáng, chứng nhân của hy vọng, của hạnh phúc. Ông là làm chứng cho sự sáng thật là Đức Kitô.

Mùa vọng này, mọi ngươì đang chờ Chúa đến, Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa cho người khác, Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa. Thế nhưng rất nhiều khi thay vì mở đường cho Chúa, chúng ta chỉ lo mở đường cho chúng ta. Hay thay vì làm chứng cho Chúa thì chúng ta làm chứng cho ta….

Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của Gioan Tiền Hô để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến bằng đời sống chứng tá là ” để Chúa lớn lên” và để cho chúng ta biết đường tìm đến hạnh phúc đích thực.

Xin Thánh Gioan giúp chúng ta sống trong ánh sáng của Chúa Cứu Thế để chúng ta được hưởng trọn vẹn hạnh phúc Chúa ban.[Mục Lục]

36. Niềm vui đang đến – Lm Lu-y Nguyễn Quang Vinh

Phụng vụ Chúa nhật thứ ba mùa Vọng ghi đậm nét vui tươi. Tiên tri Isaia sống trước Chúa Cứu Thế sáu trăm năm, loan báo tin mừng hồi hương cho dân đang bị lưu đày ở Babylon: “Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa … Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ cứu độ” (x. Bài Đọc 1. Is 61, 1-2a.10-11). Đây là niềm vui giải phóng, niềm vui hồi hương.

Tin vui cứu độ được Đức Maria cảm nghiệm cụ thể khi lời sấm của ngôn sứ Isaia trở thành hiện thực nơi cung lòng Mẹ, khi Mẹ thưa với sứ thần truyền tin “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”(Lc 1,38) và Mẹ diễn tả niềm vui sung mãn đó trong Kinh Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Chúa (Kinh Magnificat). Mẹ lên tiếng ca tụng Thiên Chúa đã đoái thương thân phận mọn hèn của Mẹ, niềm vui cá nhân của riêng Mẹ được tuyển chọn làm mẹ Thiên Chúa; và niềm vui của cộng đồng Do thái được cứu độ theo như Lời Chúa đã hứa từ ngàn xưa. Niềm vui hoàn vũ nầy này vọng lại trong thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Thêxalônica đang chờ mong Chúa Cứu Thế trở lại: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (x. Bài Đọc 2. 1Tx 5, 16-24). “Vì đã có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng” (x. Bài Tin Mừng. Ga 1, 6-8.19-28), làm chứng cho niềm vui cứu độ đã xuất hiện trên trần gian, đó là Chúa Giêsu. Đây là khởi đầu niềm vui Chúa Cứu Thế thực hiện bằng con đường nhập thể và nhập thế đi vào giữa nhân loại. Niềm vui Thiên Chúa làm người, định cư giữa nhân loại, để nhân loại biết đường về trời.

Niềm vui cảm nghiệm mình được Thiên Chúa cứu chuộc được tiên báo qua nụ cười của bà Sara, vợ ông Ápraham, khi được báo tin con đầu lòng Ixáac sẽ ra đời, cho đến sự nhảy mừng của thánh Gioan khi còn trong lòng bà Isave. Tất cả cho thấy niềm vui của buổi phụng vụ hôm nay như tô đậm nét sự hân hoan mà bà Isave cảm nghiệm khi đứa con thân yêu nhảy lên trong dạ mẹ, niềm sung sướng tràn trề của vị tiên tri cuối cùng Cựu Ước gặp được Chúa Cứu Thế thời Tân Ước. Niềm vui vỡ bờ hoành tráng hoàn vũ.

Niềm vui vĩ đại đòi cung cách diễn tả hòanh tráng. Tiền hô hậu ủng là phong cách nhân lọai của bất cứ đại vương nào khi hạ cố thăm thần dân của mình. Sự long trọng của người tiền hô càng làm sáng tỏ uy quyền cao cả của nhân vật chính yếu đến sau. Đây là cung cách của vị tiền hô: Lối sống tu rừng khắc khổ và đơn sơ, cách ăn mặc kỳ dị và mộc mạc, lời rao giảng nghiêm khắc và cứng rắn của vị tiền hô Gioan gây thắc mắc cho những người thời bấy giờ đến phỏng vấn ông. Tuy nhiên đứng trước niềm vui to lớn này vị tiền hô xóa mình đi. Ông khiêm hạ thẳng thắn khẳng định mình không phải là Đấng Kitô, không phải là Êlia, không phải là ngôn sứ mà truyền thống Do thái mong đợi. Ông khẳng định mình là tiếng kêu trong sa mạc, có sứ mạng dọn đường tâm linh, chỉnh đốn tâm đạo cho ngay thẳng để đón tiếp một nhân vật cao trọng âm thầm đang đến một cách bí bí ẩn: “ Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho người” (x. Bài Tin Mừng).

Con người bí ẩn đó là Chúa Giêsu, mà cho đến hôm nay, đối với các Kitô hữu, Người vẫn còn y nguyên là một mầu nhiệm cực lớn, đòi liên tục khám phá trong đời sống. Tất cả những gì diễn tả về Người đều là mầu nhiệm đòi khám phá, sự hiện hữu của Người, quyền năng vô biên của Người, tình yêu cứu chuộc của Người đối với nhân loại, sự đồng hóa của Người nơi anh em hèn mọn, cả đến sự chết và sự phục sinh vinh hiển của Người đều là bí ẩn đòi khám phá không ngừng trong cuộc sống.

Thật vậy mỗi ngày người Kitô phải liên tục khám phá niềm vui trong gặp gỡ tha nhân để phát hiện con người bí ẩn đó, vì “Ngài ở giữa các ông mà các ông không biết”. Không những khám phá niềm vui mà thôi, người Kitô hữu còn phải là tiền hô cho Chúa Cứu Thế nữa, sống vui tươi xây dựng xã hội trần thế, bởi vì Kitô hữu là người mang tin vui đến cho mọi người. Tuy nhiên Người mang tin vui mà chính mình không vui là phi lý, là phản tác dụng, là phản bội sứ điệp loan báo Tin mừng.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết khám phá con người bí ẩn mà thánh Gioan nói đến: “Ngài ở giữa anh em mà anh em không biết”, con người đó có thể là láng giềng khó tánh, là người đồng nghiệp gặp họan nạn, là bệnh nhân cần giúp đỡ, là người xa Chúa lâu ngày cần trở lại. Amen.[Mục Lục]

37. Tin mừng giải phóng – Như Hạ, OP

TIN MỪNG đem lại niềm vui cho toàn thể vũ trụ. Nghe lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ hiểu tại sao Kitô giáo là một đạo Tin Mừng, đem niềm vui đến cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu đã xuống trần gian để mạc khải tình Cha yêu thương hết mọi người, không trừ ai. Đúng hơn, “Ngôi Lời hằng hữu đời đời đã nhập thể làm người Á châu,” (ĐGH Gioan Phaolô II: VietCatholic- 8/12/1999) để đem TIN MỪNG giải phóng đến cho miền đầy cơ chế bất công nhất thế giới.

Dọn Đường Cho Chúa Đi

Cho đến hôm nay, Đức Giêsu vẫn còn là một bóng mờ trên miền đất bao la đó. Hơn khi nào, cần phải nhìn Đức Phật, Khổng Tử, Lão tử v.v. như những sứ giả dọn đường cho Chúa đến với dân Người. Nhưng hơn ai hết, Gioan Tẩy giả là vị tiền hô lớn nhất. Hôm nay “ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1:7). Lời chứng Gioan Tẩy giả thật là hùng hồn và ảnh hưởng. Ông ý thức rất rõ sứ mệnh và vai trò của mình. Ông chỉ là trung gian giới thiệu Đức Giêsu cho muôn dân, chứ không phải là người muôn dân trông đợi. Bởi vậy khi bị những người thuộc phái Pharisêu bắt bí, ông đã khẳng định: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (Ga 1:23; Is 40:3). Những người Pharisêu “cứ gặng hỏi xem Gioan Tẩy giả là ai, nhưng Gioan lại muốn cho họ biết Đức Giêsu là ai” (Life Application Study Bible:1991).

Dọn đường cho Chúa đi vào lòng người. Chúa là nguồn bình an và hoan lạc sẽ đem đến cho nhân loại một mùa xuân rực rỡ. Mấy ai phát hiện được mùa hồng ân đang đến? Bởi vậy Gioan mới nhắc nhở mọi người: “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1:26). Chính vì thế, vai trò Gioan cực kỳ quan trọng. Ngoài Gioan, không ai có thể thấy được Đức Giêsu là “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.” (Ga 1:29) Ông đã đến như một chứng nhân TIN MỪNG. Chính ông đã chỉ cho các môn đệ thấy TIN MỪNG đích thực là Đức Giêsu.

“Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1:8). Chính khi làm chứng như thế, ông mới giữ trọn được niềm vui cho mình và các môn đệ. Đức Giêsu đã không hề “dập tắt thần khí” (1Tx 5:19) nơi chứng từ Gioan Tẩy giả, ngay cả khi ông hoài nghi về sứ vụ của Người (Mt 11:2-6; Lc 7:18-23). Trái lại, nhiều lần Người còn ca ngợi ông cao trọng “hơn cả ngôn sứ” (Mt 11:9) và bất cứ “phàm nhân” nào (x. c.11). Dầu vậy, ông chỉ tự nhận như một tên nô lệ bất xứng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1:27).

Đúng thế. Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa.”Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành” (Ga 1:3), trong đó có Gioan Tẩy giả. Một tạo vật làm sao có thể so sánh với Đấng Tạo hóa?! Nhưng “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (c.14). Nghĩa là “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (c. 11). Chính vì thế mới cần đến lời chứng Gioan Tẩy giả. Ông đã tìm được niềm vui trong sứ vụ làm chứng. Ông đã thành công rực rỡ tới mức đổ máu vì sự công chính, một nhân tố làm nên Nước Trời.

Nhận Diện

TIN MỪNG đã bắt đầu vang lên với chứng từ Gioan Tẩy giả. Nhưng TIN MỪNG chỉ thực sự có hiệu lực từ lúc Đức Giêsu xuất hiện trong quyền năng Thánh Linh, một sức mạnh giải thoát. Thực vậy chính Chúa đã công khai xác nhận “hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh” (Lc 4:21): “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố Cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, Cho người mù biết họ được sáng mắt, Trả lại tự do cho người bị áp bức, Công bố một năm hồng ân của Chúa.” (c.18-19; Is 61:1-2).

Từ nay TIN MỪNG đã trả lại cho tất cả những người cùng khổ nhất tất cả niềm vui ơn cứu độ. Như thế xã hội đã được Phúc Âm hóa. Không hiểu tại sao có người không đồng ý với việc “Phúc Âm hóa Á châu” trong thông điệp “Giáo hội tại Á châu” của Đức Giáo Hoàng? Nếu Phúc Âm hóa chỉ là đổ mấy giọt nước rửa tội trên đầu, quả thực Giáo hội đang đi ngược dòng. Nhưng nếu chỉ nhằm đem lại cho xã hội đời sống “công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17), Giáo hội đáp ứng những gì các dân tộc Á châu đang mong đợi nhất. “Giáo hội xác tín rằng trong lòng dân chúng, văn hóa và tôn giáo tại Á Châu, có một cơn khát “Nước Hằng sống” (x.Ga 4:10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo ra và chỉ có mình Chúa Giêsu Cứu thế mới có thể thỏa mãn đầy đủ” (Giáo hội tại Á châu:1999). Cơn khát vọng này lớn hơn nỗi mong chờ Đấng Messia của dân Do thái. Cơn khát vọng đó kéo dài cả mấy ngàn năm rồi. Giáo hội đã nêu lên được lý tưởng cao cả nhất của công cuộc Phúc Âm hóa. Giáo hội chỉ muốn phục vụ, chứ không muốn khống chế con người.

Thế nhưng, cho tới nay vẫn có những “chuyên viên” Phúc Âm hóa “lẫn lộn sứ vụ rao giảng Tin Mừng với khát vọng truyền bá các giá trị văn hóa và lối ứng xử kiểu Âu châu” (Cuộc tọa đàm về truyền giáo đại kết tại Hồng Kông, VietCatholic 8/12/1999). Lối khống chế đó đã làm cho công cuộc Phúc Âm hóa Á châu trì trệ và thất bại.

Tuy thế, vẫn chưa đến nỗi thất vọng. Thực tế “Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trên Á châu trong thời các Tổ Phụ và ngôn sứ, và hoạt động còn mãnh liệt hơn nữa trong thời Chúa Giêsu và Giáo hội lúc đầu, bây giờ vẫn hoạt động ở giữa các người Kitô hữu Á Châu, tăng cường bằng chứng đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo của lục địa” (Giáo hội tại Á châu:1999). Chỉ có Thánh Linh mới thấu hiểu và đáp ứng nổi tất cả những khát vọng lớn lao của các dân tộc.

Vậy các dân tộc Á châu đang mơ ước những gì? Chắc chắn sống dưới nhiều cơ chế bất công khác nhau, họ muốn thấy công lý ngự trị. Đây là một cơ hội lớn xây dựng Nước Chúa tại Á châu. Hơn lúc nào hết, chúng ta cố gắng “thiết lập lại công bằng và làm cho công bằng được triển nở ở mọi cấp bực xã hội” (ĐGH Gioan Phaolo II: VietCatholic- 8/12/1999). Nhưng muốn thực hiện được công cuộc đó, xin khắc tâm khắc cốt lý tưởng Kitô hữu sau đây:

TÌNH YÊU phục vụ tha nhân,

Sống là TIẾN BỘ, dấn thân suốt đời.

TÍN THÀNH sống đạo làm người,

Hồng ân thắp sáng bầu trời TỰ DO.

Hai vai TRÁCH NHIỆM ‘tiền hô’:

TIN MỪNG cứu độ, điểm tô Nước Trời.

Lý tưởng đó đã được Thần Khí khơi dậy nơi Kitô hữu. Nhưng bao lần lý tưởng tuổi trẻ đã bị vùi dập. Bởi vậy, thánh Phaolô cảnh cáo: “Anh em đừng dặp tắt Thần Khí.” (1 Tx 5:19) Đặc biệt, nơi giáo xứ Thần Khí đang hoạt động như “trung tâm đời sống phụng vụ” (ĐGH Gioan Phaolô II: CWNews 25/11/2002) và trung tâm đào luyện giáo lý và luân lý cho giới trẻ Kitô hữu. ĐGH cho thấy giáo xứ là tụ điểm quan trọng để giáo dân “uống tận nguồn suối Lời Chúa và truyền thống. Người cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong việc nuôi dưỡng đức tin, “bảo vệ chúng ta khỏi tội lỗi, kiện cường chúng ta trong tình thân ái, và duy trì nỗ lực chúng ta trên cuộc hành trình dương thế.” (CWNews 25/11/2002) Không có sức mạnh đó, tuổi trẻ không thể chống lại những ảnh hưởng văn hoá trần tục. Muốn tìm được hứng thú cho cuộc sống, giới trẻ “cần phải tiếp tục cuộc hành trình, khởi sự từ Đức Kitô, nghĩa là từ bí tích Thánh Thể.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) Hôm nay, Giáo hội cần giáo dân “ý thức về ơn gọi rao giảng Tin Mừng” và sẵn sàng đem sứ điệp Tin Mừng vào trần gian. Muốn “làm chứng về ánh sáng”(Ga 1:7.8) là Đức Kitô giữa thế giới chìm đắm trong bóng tối hôm nay, họ cần giáo xứ hỗ trợ mạnh mẽ (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) và trang bị đầy đủ sức mạnh Tin Mừng.[Mục Lục]

38. Đơn giản là như thế – G. Nguyễn Cao Luật

Tôi chẳng phải là ai cả

Câu chuyện xảy ra tại một địa điểm ở phía Bắc Biển Chết, có lẽ cũng là nơi xưa kia dân Do-thái đã vượt qua sông Gio-đan để tiến vào Đất Hứa. Ông Gioan Tẩy Giả đang có mặt tại đó và làm phép rửa bằng nước. Chỉ một nghi thức sám hối này cũng đủ để phân biệt phép rửa của ông với những cách thức thanh tẩy khác nhau vốn đang thịnh hành trong các nhóm thời bấy giờ. Con người này là ai vậy mà biết bao người đang ùn ùn kéo đến với ông để lãnh nhận phép rửa? Con người này có sứ mạng gì mà lời rao giảng của ông có âm giọng như tiếng kêu của các vị ngôn sứ, tính cho đến lúc này, đã im vắng được ba thế kỷ?

Người Do-thái, hay chính xác hơn, một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đã muốn xác định xem ông là ai. Họ đặt câu hỏi và muốn xếp ông vào một trong số những hiểu biết của mình. Họ muốn kiểm chứng, họ muốn tin chắc vào hiểu biết của mình.

Trước hết, họ muốn biết có phải là Đấng Mê-si-a không. Trong giai đoạn căng thẳng lúc bấy giờ, có rất nhiều người mong chờ vị sứ giả của Thiên Chúa đến. Họ đã mường tượng ra dung mạo của vị sứ giả, nhưng là một thứ hình ảnh cứng ngắc. Trong thực tế, họ đã có nhiều hình ảnh mẫu, tuỳ theo thái độ chờ đợi, tuỳ theo khát vọng của mỗi người. Trong khi đó, các vị lãnh đạo dân đang cố gắng kiểm chứng danh tính của những người đang có ảnh hưởng trên dân chúng. Chính họ cũng có quan niệm về dung mạo của con người phải đến. Do đó, họ đã nêu vấn đề với ông Gioan khi thấy đám đông kéo đến với ông để nghe giảng và đón nhận phép rửa.

Ông có phải là ngôn sứ Êlia không? Một nhân vật khác được nêu lên sau khi ông Gioan đã tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a. Từ trước đến nay, người Do-thái vẫn công nhận ngôn sứ Êlia là một chứng nhân vĩ đại về lòng tin. Ông đã được cất lên trời cách lạ lùng (2 V 2), và ông sẽ trở lại để dọn đường cho Đấng Mê-si-a đích thực. Lúc sinh thời, ngôn sứ Êlia đã bị mọi người loại bỏ. Nhưng giờ đây, người ta đã biết ông là ai. Con người xưa kia bị bách hại, nhưng giờ đây lại được tôn phong.

Người ta vẫn dựa trên những hình ảnh quá khứ để nhận định về hiện tại. Nhưng mỗi người có vai trò riêng của mình, và ông Gioan Tẩy Giả là một trường hợp rất đặc biệt.

Đơn giản là một chứng nhân

Câu trả lời của ông Gioan cho thấy một thái độ khiêm tốn cần ngạc nhiên.

Ông tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a, không phải là Ánh Sáng. Ông không phải là ngôn sứ Êlia trở lại, cũng không phải là vị Ngôn Sứ vĩ đại như người ta vẫn chờ đợi.

Ông chỉ là vị tiền hô, đơn giản là một chứng nhân, có vai trò hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng ông loan báo. Ông là ngọn đèn do Thiên Chúa thắp lên để soi đường cho Đức Kitô đến, là tiếng nói của Thiên Chúa. Đơn giản chỉ có thế. Tất cả chỉ có thế. Ngọn đèn để soi sáng, tiếng nói để cung cấp lời.

Cách trả lời của ông Gioan Tẩy Giả cho thấy ông không để cho người ta xác định về mình. Ông không lặp lại quá khứ, nhưng mở ra tương lai. Vì vậy, ông là người của bất ngờ. Người ta không thể đóng khung vào một loại nào. Ông khước từ quan niệm coi ông là điểm dừng, ông chỉ muốn mình là điểm cần đi qua. Ông làm chứng về ánh sáng, một loại ánh sáng luôn vuột khỏi tầm với con người, nhưng lại soi chiếu cho họ trên con đường của mình. Ông Gioan chỉ muốn mình là người chỉ đường và không muốn người ta chăm chú vào mình. Một thái độ tuyệt vời và chính điều này làm ông trở nên cao cả. Đây cũng là đặc tính của mọi ngôn sứ Ít-ra-en.

Đàng khác, câu trả lời của Gioan là một thứ tuyên bố về lý lịch cá nhân, nhưng hoàn toàn tiêu cực, làm cho những người chất vấn chưng hửng, thêm thắc mắc. Người ta không thể xác định về ông, nhưng ông vẫn rất cần thiết và quý giá để chỉ cho mọi người thấy rằng: có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”.

Tuy vậy, phải nói rằng chính ông Gioan Tẩy Giả cũng không biết rõ về Đức Giêsu. Đang khi ông dìm người khác trong nước để thức tỉnh và thanh tẩy họ, thì chính ông lại sống trong nghi nan. Ông biết rằng ông có sứ mạng dọn đường cho Đấng Mê-si-a đến. Ông cũng biết rằng Đấng Mê-si-a cao cả hơn ông nhiều: “Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”; “có người đến sau tôi nhưng trỗi hơn tôi, vì có trước tôi”; ông cũng cảm thấy một sự đứt đoạn, nhưng ông chưa thấy Người đến. Ông cũng không biết rằng Vị Sứ giả của Thiên Chúa, mà ông là người dọn đường, lại chẳng là ai khác hơn là người bà con của ông tại làng Na-da-rét, là ông Giêsu người thợ mộc.

Ông chỉ biết rằng chính ông không phải là Đấng Mê-si-a, và chỉ là kẻ dọn đường. Ông biết điều này rất rõ và ông sống đến tận cùng. Ông dấn thân trọn vẹn để thi hành sứ mạng ngôn sứ, giới thiệu Đức Kitô khi tới thời gian đã được ấn định. Ông biết rằng ông không phải là ánh sáng, nhưng ông có mặt để làm chứng về Ánh Sáng. Rồi đây, ông sẽ đưa tay ra để chỉ vào Đấng phải đến. Người là Đức Giêsu, Người đến và đem lại cho Thiên Chúa vô hình, Thiên Chúa không thể đụng chạm tới được một dung mạo, một thân thể.

Về một Thiên Chúa đã biết và chưa biết

Không ai thấy Thiên Chúa, không ai nghe được Thiên Chúa, và cũng không ai đụng chạm được Thiên Chúa.

Làm thế nào bây giờ trước một Thiên Chúa được gọi là Ánh Sáng nhưng không ai nhìn thấy được? Đấng tự nhận mình là Chân Lý tinh tuyền nhưng lại xuất hiện dưới khuôn mặt không thực, Người là ai? Đấng hiện diện ở khắp nơi nhưng dường như lại vắng mặt, Người là ai?

Các nhà thần học luôn tìm ra những lý luận rất hay, nào là Thiên Chúa ẩn mình để tôn trọng sự tự do của chúng ta, hay để tạo cho chúng ta nỗi ngạc nhiên khi chúng ta chết, v.v… Tuy vậy, chúng ta cảm thấy không thoả mãn với những giải thích như thế, và chúng ta có cảm tưởng rằng những giải thích này cũng chẳng làm cho những người đã đề ra chúng được thoả mãn.

Thiên Chúa là Đấng không thể hiểu thấu: chúng ta phải chấp nhận sự kiện đó, một sự kiện không thể khác được. Chấp nhận không phải để buông xuôi, nhưng là để nhìn rõ chỗ đứng của chúng ta và nhất là để đặt Thiên Chúa vào đúng chỗ của Người, tức là Người có mặt ở khắp nơi, ở bất cứ nơi nào chúng ta đang chờ đợi Người.

Như vậy, nếu Thiên Chúa không để cho cảm giác và lý luận của chúng ta đụng chạm tới Người, nếu Thiên Chúa không để cho chính lòng tin của chúng ta nắm bắt được Người, thế thì phải chăng chúng ta bị kết án phải tìm đến Người trong bóng đêm mịt mù? Phải chăng chúng ta đang có nguy cơ đi lạc đường hay là chỉ chạy theo một ảo ảnh?

Những câu hỏi như thế vẫn được đặt ra cho chúng ta và có lẽ không bao giờ chúng ta có được câu trả lời đầy đủ. Thiên Chúa vẫn luôn ở phía trước và mở ra những chân trời rộng lớn hơn. Người mời gọi chúng ta bước vào và trở thành nhân chứng cho Người.

Như ông Gioan Tẩy Giả, mỗi chúng ta cũng được mời gọi trở thành người loan báo về một Thiên Chúa đang ẩn mình nhưng vẫn đang đến. Mỗi chúng ta đang được mời gọi đóng vai trò rất khiêm tốn nhưng không thể thiếu: giới thiệu về Thiên Chúa đang đến. Nói một cách khác, chúng ta được trao phó trách nhiệm lôi kéo thêm nhiều người cùng gia nhập vào cộng đoàn những người tìm kiếm Thiên Chúa, tìm kiếm Chân Lý và Ánh Sáng, đang khi chính chúng ta phải trở thành ngọn đèn, thành tiếng nói. Đơn giản là như thế. Tất cả chỉ có thế.

* * *

Thiên Chúa của tôi vượt hẳn mọi thứ suy luận và mọi thứ đo lường.

Thiên Chúa của tôi là thế này: kỳ diệu, độc đáo và gây sững sờ.

Người là hữu thể, nhưng lại là chuyển biến,

Người là những gì đã có, hiện có và sẽ có,

Người là tất cả, nhưng không có gì là Người,

Chúa tôi gây sững sờ

là Đấng người ta tin nhưng không thấy,

người ta yêu mến nhưng không sờ được,

người ta trông chờ nhưng không nghe theo,

người ta chiếm hữu, nhưng không đáng được như thế.

(Juan Arias – Thiên Chúa mà tôi không tin, trang 32)[Mục Lục]

39. Làm chứng

Anh chị em thân mến,

Chị Rơ Châm H’Jưng, là người J’rai, đất Ialy, Kontum, giáo viên cấp I. Chị đang học Giáo lý tân tòng thì bị chính quyền xã gọi đến cấm đoán. Sau nhiều lần như thế, chị bị buộc phải chọn lựa: hoặc làm giáo viên, hoặc theo Chúa. Chị khẳng khái trả lời: “Tôi chọn theo đạo Chúa.” Thế là bị nghỉ việc. Chị kể lại: khi nhận tờ giấy thôi dạy, chị thấy tương lai của gia đình, con cái đều sụp đổ… Chị lại trở về bản làng làm lụng kiếm ăn. Bà con biết chị theo đạo đã đến xin chị dạy đạo cho họ. Lúc đầu chị từ chối, nghĩ rằng ngoài khả năng mình; nhưng sau vì thấy cần, chị chịu khó đọc Kinh thánh, cầu nguyện suy niệm Lời Chúa. Chị mạnh dạn nói về Chúa cho mọi người. Càng ngày bà con càng đến với chị đông hơn, có khi phải lội bộ 20, 30 cs, hay bị cấm đoán, phạt vạ, vì họ đến học đạo nơi chị. Từ đó, chị lại càng thấy rõ cái được, cái mất hơn nữa: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Cũng từ nay, chị nhận ra mình là sứ giả của Tin mừng cho người nghèo mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chị, không chỉ rao giảng Lời Chúa, mà còn để xoa dịu những tâm hồn tan nát, chữa lành người tật bệnh. (Vietcatholic news, 18.01.2003). Đây chính là hình ảnh của thánh Gioan nói trong TM hôm nay; ngài là chứng nhân sống cho Chúa Kitô. Kính mời cùng suy niệm…

a/. Gioan Tẩy giả, trước mắt người phàm:

Thánh Gioan Tẩy giả được kinh thánh tuyên xưng là vị đại Tiên tri, Đấng Tiền hô đi trước dọn đường cho Đấng Cứu thế, vậy mà cuộc đời của ngài vinh quang đâu chẳng thấy, chỉ thấy toàn là long đong, vất vả. Lớn lên nhận được ơn gọi làm chứng nhân, người tiền phong cho Chúa Cứu thế, thánh nhân đã vào sa mạc sống khắc khổ, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo bằng da lông thú. Chính Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “các ông vào sa mạc tìm gì? Có phải tìm cây sậy phất phơ trước gió không? – Không. Hay có phải tìm một người ăn mặc lụa là gấm vốc? Nhưng hạng người đó lại chỉ ở trong cung điện nhà vua. Vậy có phải các ông đi tìm một vị tiên tri không? Đúng và còn hơn một tiên tri nữa…”(Gn 11, 7-9)

Thánh Gioan là một tiên tri, một chứng nhân như thế, vì lời thẳng thắn đã không làm hài lòng nhóm tư tế, kinh sư do thái. Thánh Gioan còn làm phật ý cả vua Hêrôđê, đến nổi bị bà Hêrôđiađê dùng mưu mà chém đầu. Trước mặt thế gian, ai cũng cho là thất bại, là điên rồ. Cuộc đời của các thánh hiển tu, các vị tử đạo cũng thế. Các ngài bị chê là những kẻ khờ dại, mê lầm, những người không hiểu biết nên mới chối bỏ vinh hoa phú quí trần gian… Những con người bị chê; thả mồi bắt bóng… Có đúng như thế không?

b/. Gioan Tẩy giả, trước mặt Thiên Chúa, là một chứng nhân tận tụy và trung kiên:

“Có người hỏi: Ông là ai? Có phải là Đấng Cứu thế không? Gioan trả lời: Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc…”(Gn 1, 20-29)

“Tôi chỉ làm phép rửa cho anh em trong nước; Đấng đến sau tôi, sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lữa…”(Mt 3, 11)

“Khi Đức Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa, Gioan nói: chính tôi mói cần được ngài làm phép rửa.” (Mt 3, 14).

“Đấng đến sau tôi, cao trọng hơn tôi; tôi không đáng cởi quai dép cho Người…”(Gn 1, 27)

Thánh Gioan Tiền hô quả là một chứng nhân tận tụy và trung kiên. Dù là một đại Tiên tri đi trước mở đường cho Đấng Cứu thế, nhưng rõ ràng ngài khiêm tốn biết bao khi nói lên chính sự thật này: “tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.Tôi chỉ rửa anh em trong nước mà thôi…” Một con người sống sau thánh Gioan không bao lâu, nhỏ hơn ngài cũng không nhiều, cũng đã sống như một chứng nhân tận tụy và trung kiên như Gioan Tẩy giả, đó là Thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại.Thánh nhân cũng đã từng nói những lời không khác thánh Gioan là mấy:

“Tôi sống nhưng không còn phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gal 2, 20). “Tôi biết tôi đang tin vào ai…” (II Tim 1, 12)

“Ước gì tôi chẳng hảnh diện điều gì, ngoài thập giá Đức Kitô.”(Gal 6, 14)

“Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng phúc âm.”(I Cor 9, 16)

“Ai tự hào, hãy tự hào trong Chúa.” (I Cor 1, 31)

“Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng cho tôi được mạnh mẻ.” (Phil 4, 13)

Thánh Gioan TG, thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, họ là những chứng nhân tận tụy kiên cường như thế, làm sao chúng ta có thể nghỉ họ là người ngây dại mê muội, không khôn ngoan?

Câu chuyện: Mang thai đứa con thứ tư, bác sĩ Gianna Beretta Molla mới biết mình mang căn bệnh đe dọa mạng sống cả hai mẹ con, bà không hề do dự. Luôn tin tưởng vào sự Quan Phòng và Tình thương của Thiên Chúa, bà sẵn sàng dâng hiến mạng sống để cứu bào thai. Bà nghiêm trang nói với bác sĩ: Nếu quí vị phải đắn đo chọn lựa giữa tôi và đứa bé, xin đừng do dự, hãy cứu sống đứa bé, vì tôi mong muốn như vậy! Ngày 21-4-1962, bác sĩ Gianna Molla sinh một bé gái, đặt tên: Gianna Emanuela. Chỉ một tuần sau, bà trút hơi thở cuối cùng, miệng vẫn thiết tha lập đi lập lại: “Lạy Đức Chúa GIÊSU, con yêu mến Chúa”. Bà hưởng thọ 40 tuổi. Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã tôn phong bà là Mẹ các gia đình, lên hàng chân phước ngày 24-4-1994. Ngày 16-5-2004, bà lại được tôn lên hàng hiển thánh. Lễ kính ngày vào ngày 28-4 hàng năm. Con của bà là Gianna Emanuela, hiện nay 46 tuổi, hành nghề bác sĩ nối nghiệp hiền mẫu đáng kính của mình.

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thánh Gioan đã là vị đại tiên tri, vậy mà Gioan chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc, chứng nhân can trường đi trước dọn đường cho Chúa Cứu thế. Ta có tin nơi lời Gioan nói, tin vào việc ngài làm không? Nhất là ta có sẵn sàng sống như là chứng nhân cho Chúa Kitô ở giữa lòng thế giới hôm nay không?[Mục Lục]

40. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta – Guy Morin

Đây là thời gian của những chứng nhân.

Môi trường chúng ta đang sống hầu như hoàn toàn thiếu vắng những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Người ta loại khỏi các cơ sở những gì nhắc đến niềm tin Kitô. Không còn ảnh thánh giá trong các bệnh viện và trường học nữa; Lời chứng long trọng thay thế cho lời tuyên thệ; Hôn nhân dân sự đẩy lùi hôn nhân tôn giáo. Người ta không còn khả năng đưa ra những dấu chỉ này nữa: Nhiều trẻ em không biết làm dấu Thánh giá và việc dậy giáo lý làm cho nhiều nhà giáo phải lúng túng.

Dĩ nhiên các thành phố của chúng ta đầy dẫy nhà thờ và chuông còn reo vang. Ở thôn quê, đó đây người ta nhìn thấy những thập giá trên nóc thánh đường và những hang Đức Mẹ. Tuy nhiên xã hội chúng ta sống và được xây dựng như thể Thiên Chúa đã không hề lên tiếng nói với con người, như thể Ngài câm lặng và vắng mặt.

Chúng ta tin rằng Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử loài người chúng ta, nhưng bằng một sự hiện diện kín đáo và vô hình. Sự kín đáo của Thiên Chúa đòi hỏi phải có những chứng nhân. Thiên Chúa cần những chứng nhân trong thế giới này, nơi mà xem ra Ngài vắng bóng và sự hiện diện của Ngài thật kín đáo.

Gioan Tẩy Giả, vị chứng nhân gương mẫu.

Chính kinh nghiệm bản thân làm nên chứng nhân. Gioan Tẩy Giả kể lại cho chúng ta kinh nghiệm của ông: “Tôi không biết Ngài, nhưng Đấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước, chính Đấng ấy đã nói với tôi: Ngươi thấy Thánh Thần đậu xuống trên ai thì chính đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Và tôi đã thấy và làm chứng rằng Ngài là Con Thiên Chúa”. Chứng tá của Gioan dựa trên mặc khải của Thiên Chúa sau này được chứng thực trong một sự kiện mà ông đã thấy. Thánh Thần xuống trên Chúa Giêsu.

Từ kinh nghiệm bản thân này Gioan sẽ làm chứng về Chúa Giêsu bằng lời nói và việc làm. Việc rao giảng của ông gây xôn xao tại Israel: Người ta luôn đến nghe ông giảng và ông ban phép rửa thống hối. Vì ông là con vị thượng tế, tức là một nhân vật quan trọng, nên các chức trách tôn giáo đã được báo động và họ làm một cuộc điều tra: Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa? Ông tuyên bố: “Ở giữa các ông có một Đấng mà các ông không biết”.

Chứng nhân hoàn toàn hướng về một Đấng khác mà mình chỉ là tôi tớ khiêm tốn mà thôi. Gioan tuyên bố mình không đáng cởi dép cho Ngài, tức là làm công việc của một nô lệ.

Kinh nghiệm bản thân, dũng cảm trong lời nói và trong hành động, xóa mình đi, ba đức tính này của chứng nhân, Gioan Tẩy Giả đều có ở mức độ cao.

Người ta đòi hỏi những chứng nhân.

Các giám mục của chúng ta viết: “Kitô hữu có khuynh hướng khép kín về lãnh vực tôn giáo riêng tư nơi gia đình, ở học đường và trong phụng vụ. Họ thoải mái khi ở phòng thánh hơn là ngoài đường phố”.

Đây là một cách nói: Người ta đòi hỏi phải có những người làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô! Chúng ta phải làm gì đây? Mang kèn trống và biểu ngữ diễu hành ngoài đường chăng? Treo vào xe hơi của chúng ta một tấm bảng để tên Giêsu ư? Làm áp lực để tại học đường người ta treo ảnh thánh giá và cho đọc kinh ư? Hoặc là cho Giáo Hội nhiều ảnh hưởng hơn?

Những hành động này không xấu nhưng vẫn còn hời hợt và có nguy cơ áp đặt niềm tin của chúng ta trên kẻ khác.

Ngày nay chúng ta được mời gọi đào sâu kinh nghiệm của mình về Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô trong Tin Mừng. Nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên vừa cởi mở đối với những kẻ cảm thấy mình xa Giáo Hội vừa phê phán đối với những bất công và những điều vô nhân đạo của xã hội chúng ta.

Xin thánh Gioan Tẩy Giả cảm hứng cho chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa Giêsu và những kẻ phản chiếu ánh sáng của Ngài.[Mục Lục]

41. Khiêm nhường

Người ta thường ví Gioan Tẩy Giả như một ngọn đèn biết tỏa sáng và biết mờ đi một cách đúng lúc. Có những lúc ông tỏa sáng đến nỗi người ta hiểu lầm ông là Đấng Kitô màDân Do Thái đang trông chờ, cho đến ngày nay người ta vẫn đang trông đợi Đấng Kitô. Vì bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải phóng. Có người còn hy vọng Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Khi ông phủ nhận mình không phải là Đấng Kitô thì họ lại lầm tưởng là Eâlia. Đối với họ Ê-li-a phải đến trước Đấng Messia Người ta còn tin rằng chính Ê-li-a xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như tất cả các vua đã được xức dầu. Nhưng Gioan Tẩy Giả đã phủ nhận tất cả những vinh dự đó.

Vậy, Gioan Tẩy giả là ai? Ông chỉ là tiếng kêu trong hoang địa hay nói đúng hơn ông chỉ là người cởi giày cho Đấng đến sau ông mà thôi. Một mẫu người cho đi, một mẫu người lãnh đạo, một mẫu người với tinh thần phục vụ biết làm đúng công việc của mình. Có thể nói, Gioan Tẩy Giả là con người mà tất cả các nhà truyền đạo, các giáo sư đều phải nên như thế, ông chỉ là một tiếng nói, một ngón tay chỉ nhà vua. Ông muốn mọi người hãy quên ông, chỉ thấy Nhà Vua mà thôi.

Điều ngạc nhiên hơn nữa là phép rửa do tay người làm thì không dành cho Israen mà chỉ dành cho những người ngọai nhập vào Do Thái giáo, tức là những người vốn có đạo khác, mới tin theo đạo Do Thái. Một người Israen không bao giờ chịu phép rửa, họ đã thuộc về Chúa Giavê, nên không cần rửa sạch nữa. Nhưng những người ngoại bang đến gia nhập Do Thái giáo thì phải chịu rửa sạch bằng phép rửa. Gioan Tẩy Giả đã bắt dân Israen làm một việc mà chỉ có dân ngoại mới phải làm. Ông có ý nói tuyển dân phải được rửa sạch. Đó chính là điều Gioan tẩy Giả tin, nhưng ông đã không trả lời trực tiếp.

Ông nói: “về phần ta, ta làm phép rửa bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết, ta chẳng đáng cởi dây giày cho Ngài”. Gioan Tẩy Giả không nêu ra được một nghề nào hèn hạ hơn nữa, mở dây giày là công việc của một người nô lệ. Một ngạn ngữ của các ra-bi bảo rằng môn đệ có thể làm cho thầy mình bất cứ việc gì một đầy tớ phải làm ngoại trừ việc “cởi dây giày”. Việc đó quá hèn hạ ngay cả đối với một môn đệ. Dầu vậy, Gioan Tẩy Giả ngụ ý: “Với Đấng đang đến thì cả việc làm đầy tớ cho Ngài cũng không xứng đáng”.

Chúng ta phải hiểu là lúc đó Gioan đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu rồi, và ông đã nhận ra Chúa. Ở đây, ông nhắc lại ý đó một lần nữa, và ngụ ý: “Nhà Vua đang đến, để chuẩn bị đón Ngài, các ngươi phải được tẩy rửa y như bất cứ người ngoại bang nào. Hãy dọn mình sửa soạn để đi vào lịch sử của nhà vua”.

Chức vụ của Gioan Tẩy Giả là chức vụ dọn đường. Bất cứ sự cao trọng nào ông có được đều đến từ sự cao trọng của Đấng mà ông loan báo. Gioan tẩy Giả là tấm gương lớn về con người sẵn sàng xóa mình đi để người ta chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu. Ông nhận thấy mình là ngón tay chỉ cho thiên hạ thấy Chúa Cứu Thế.

Lạy Chúa, Nguyện Chúa ban cho chúng con ơn biết quên mình, chỉ nhớ đến Chúa Giêsu thôi. Và nhất là trong mùa vọng này chúng con luôn biết hướng về Ngài. Amen.[Mục Lục]

42. Hãy vui lên

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)

“Khi vui non nước cùng vui. Khi buồn sáo thổi kèn đôi cũng buồn”, “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cuộc đời giống như một tấm gương: mỉm cười với nó, nó sẽ mỉm cười lại; gắt gỏng với nó, nó sẽ hung bạo. Hãy thử đứng trước một cái gương xem, sẽ thấy: mỉm cười đáp lại mỉm cười, nhăn nhó đáp lại nhăn nhó. Trước cuộc đời cũng thế: tôi sống làm sao cuộc đời sẽ như vậy. Nếu tôi đón nhận những điều bất ngờ với một nụ cười, nó sẽ đáp lại tôi bằng một nụ cười. nếu tôi đến với nó với bộ mặt càu nhàu, nó sẽ đến cùng tôi với sát khí đằng đằng.

Ngày nay, người ta thường đề cập đến hai tiếng “bi quan” và “lạc quan”. Người bi quan là người tỏ vẻ buồn rầu khi nhìn thấy ly rượu đã vơi mất một nửa. Trái lại, người lạc quan là người tỏ vẻ vui mừng hay bình thản khi nhìn thấy ly rượu vẫn còn một nửa. Vậy Kinh Thánh của chúng ta bi quan hay lạc quan? Xét về một phương diện, Kinh Thánh rất bi quan, bởi vì Kinh Thánh có chứa đựng những lời lẽ thật đau xót về những nỗi khổ tâm mà con người đã gây nên cho nhau. Kinh Thánh đã nói rõ rằng: con người sống trong một thế giới đầy tội lỗi và đã gây nên biết bao điều ngang trái cho đồng loại. Nhưng nếu xét về một phương diện khác, thì Kinh Thánh lại rất lạc quan. Kinh Thánh đã từng đề cập đến một thời gian mà con người trông đợi, lúc mà mọi sự sẽ được điều chỉnh lại và được đổi mới hoàn toàn, lúc mà Thiên Chúa sẽ trở nên mọi sự cho mọi người.

Cụ thể như các đoạn Kinh Thánh của Chúa hôm nay: ngôn sứ I-sai-a đã loan báo về Đấng Cứu Thế và những công việc tràn đầy an ủi, phấn khởi. Thánh Phaolô đã khích lệ mọi người: Hãy vui lên. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan đã bảo đảm cho mọi người sẽ được hưởng niềm vui ấy. Vì thế, Chúa nhật hôm nay thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui và khích lệ chúng ta hãy vui lên. Niềm vui đó là Chúa đã gần đến, sắp đến rồi, chúng ta hãy vui lên. Ngài sẽ đem đến cho chúng ta một niềm vui vĩ đại: biết Ngài là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa – được sống trong cộng đồng Giáo Hội – được hưởng các ân sủng, và nhất là được Chúa ban phúc bình an vĩnh viễn trong nước trời. Đó là niềm vui chính yếu, niềm vui thâm trầm của những người thấu hiểu ý nghĩa cuộc đời.

Chúa Giêsu là niềm vui; và những lời Ngài giảng dạy là những tin vui. Vì thế, đạo của chúng ta là đạo Tin Mừng. Hai chữ “Tin Mừng” ấy sẽ trở thánh trống rỗng và vô nghĩa nếu cuộc sống của người tín hữu không sống trong niềm vui và thể hiện Tin Mừng. Như thế, chúng ta cũng không thể loan báo hay chia sẻ Tin Mừng cho người khác.

Vào khoảng thập niên 60, một số người chuyên nghiên cứu về tâm lý quần chúng tại Hoa Kỳ đã làm một cuộc thăm dò độc đáo. Đó là xem thử có bao nhiêu người nhặt được ví và đem trả lại. Nhóm người nghiên cứu đã chọn một khu phố để làm việc. Họ cho rải những chiếc ví dọc theo các đường phố. Chỉ vài ngày sau, họ nhận thấy hơn nửa số ví được mang trả lại. Nhưng tỉ lệ này chỉ kéo dài tới ngày bào huynh của cố tổng thống Ken-nơ-đy là Rô-bớc Ken-nơ-đy bị ám sát. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng trong ngày hôm đó, không một cái ví nào được đem trả lại. Họ đi đến kết luận: những tin buồn có ảnh hưởng sâu đậm đến con người và đời sống xã hội của con người.

Chúng ta không hoàn toàn nhất trí với kết luận đó, nhưng chúng ta có thể suy luận thêm: khi nghe một tin mừng, con người cảm thấy phấn khởi và mau mắn để thi hành điều thiện. Trái lại, khi nghe tin buồn, thì con người dễ bị cám dỗ chán nản, và từ đó trách nhiệm trong lãnh vực luân lý cũng bị giảm sút.

Chúng ta đang đứng trước một thách đố lớn. Cuộc sống xã hội chung quanh chúng ta là cả một hãng thông tấn chỉ tung ra những tin buồn. Qua các phương tiện truyền thông xã hội: báo chí, truyền thanh, truyền hình… đầy dẫy những tin buồn: tin buồn của dối trá lường gạt; tin buồn của phản bội xâu xé nhau; tin buồn của buông xuôi bỏ cuộc, tin buồn của không biết bao nhiêu đói khổ, chiến tranh, thiên tai, chết chóc…

Vì thế, chúng ta phải là những người loan báo Tin Mừng và đem lại niềm vui. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của thất vọng, chúng ta sẽ loan báo tin mừng của hân hoan, phó thác. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của dối trá, lường gạt, chúng ta phải loan báo tin mừng của lòng chân thật, vị tha. Giữa một xã hội chỉ loan báo tin buồn của ích kỷ, nhỏ nhen, chúng ta sẽ loan báo tin mừng của quảng đại, yêu thương, tha thứ và cảm thông. Nếu chúng ta biết sống theo tinh thần trên đây, chúng ta sẽ thấy đời mình có ý nghĩa và gieo rắc những hạt giống của niềm vui ra chung quanh trên mọi nẻo đường đời. Và cho dù hầu hết các hạt giống đó có mục nát đi, tôi vẫn tin rằng thế nào cũng có ít nhất một hạt nảy mầm lên cây, và nó sẽ đâm bông làm thơm tâm hồn chúng ta.

Chúng ta hãy nhớ một câu trong một bản nhạc rất hay của ông Bách, một nhạc sĩ nổi tiếng: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho niềm vui của con luôn tồn tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác”.[Mục Lục]

43. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG

Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:

Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một “tiếng kêu trong sa mạc”. Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.

Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Kitô mà ngài loan báo.

Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Kitô.

Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói: “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người” (Ga 1,27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên ngài nói: “Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).

Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.

Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.

Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.[Mục Lục]

44. Chứng nhân trung thực

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Tin mừng Ga 1: 6-8.19-28: Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến…

***

Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio đến Rubens…đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy giả…

Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất.

Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine. Dưới đây là ảnh tác phẩm. Bức tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.

Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan tẩy giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: “Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết”.

Dưới đây là icon thể hiện chủ đề “Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết” được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium.

Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: “Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng”. Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu. Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta. Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho sự sống.

Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên Hưng).

  1. Chứng nhân ánh sáng trung thực

Khởi đầu Phúc Âm Thánh Gioan đã viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.

Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “Đây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm về Gioan: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả” (Mt 11,11). Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.

Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Đấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.

Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.

Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.

  1. Thánh Gioan sống rất đẹp

Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.

Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.

Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông dân chúng, được dân chúng ngưỡng mộ, xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.

Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.(Ga 3,30)

  1. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng.

Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.

Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.

Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.

Người theo Đạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.

  1. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực

Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.

Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?

Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc… Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).

Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới là “Nói thẳng, nói thật”. Có chủ trương như thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.

Thôi xài chữ giả

Chữ nghĩa du di chả mấy hồi

Đói không nói đói, “thiếu ăn” thôi!

Học hành “hạn chế”: y chang dốt

Báo cáo “tuy nhiên”: ắt hẳn… tồi.

“Vượt mức chỉ tiêu”? Nên bớt nửa,

“Có phần sơ sót”? Hãy nhân đôi…

Mực đen gấy trắng đòi trung thực

Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)

Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một “giả thuyết làm việc”, như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học (hypothèse de travail)… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).

Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.

Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.

Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.[Mục Lục]

45. Sống niềm vui trong ân tình Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Lúc màn đêm bắt đầu buông xuống, trên các nẻo đường biết bao công nhân vệ sinh đang lao động miệt mài. Từng nhát chổi của họ như là một sự cộng tác với thiên nhiên trả lại cho thành phố một bầu không khí trong lành. Dù công việc của họ âm thầm, nhỏ bé nhưng họ luôn ý thức rất rõ về công việc mình làm, mục đích họ đang vươn tới, và do đó họ đã tìm được niềm vui, một niềm vui thanh khiết và đáng quý.

Bên cạnh đó, hằng đêm tại các vũ trường, quán bar biết bao nhiêu bạn trẻ đang tìm kiếm niềm vui quay cuồng trong những điệu nhạc, niềm vui miên man trong làn khói thuốc, niềm vui lâng lâng cùng với men rượu… Họ đang vui niềm vui của thế tục.

Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Sở dĩ Giáo hội chọn chủ đề cho Chúa nhật III này là Chúa nhật của niềm vui vì Chúa Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta sắp đến. Phẩm phục màu hồng của chủ tế trong cử hành Phụng vụ nói lên điều đó. Tuy nhiên niềm vui mà Giáo hội khuyến khích mời gọi chúng ta là niềm vui nào? Tìm kiếm ở đâu? Có phải là niềm vui của các bạn trẻ trong các vũ trường, quán bar hay không? Có phải là niềm vui của những tay anh chị khi gặp may mắn trong các trò đỏ đen hay không? Hay là niềm vui của những kẻ lừa gạt hoặc những kẻ làm ăn phi pháp khi thực hiện được những phi vụ trót lọt hay không? Chắc chắn không phải là những thứ niềm vui đó.

Vậy đâu là niềm vui mà Chúa và Giáo hội mong muốn con cái mình tìm kiếm trong Chúa nhật III Mùa Vọng?

Chúa Giêsu, ngay khi còn tại thế, Ngài luôn đặt cuộc đời mình trong bàn tay của Chúa Cha. Ngài đã luôn sống và hoạt động trong ân tình của Chúa Cha. Có thể nói cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc đời luôn tìm niềm vui trong Chúa Cha của Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm niềm vui đó như Ngài, tức là niềm vui trong Chúa. Nhưng làm sao chúng ta có được niềm vui trong Chúa? Chúng ta chỉ có được niềm vui trong Chúa khi chúng ta biết sống trong ân tình của Chúa.

Sống trong ân tình Chúa là ý thức sự hiện diện của mình là một hồng ân nhưng không phát xuất từ chính tình yêu Thiên Chúa. Một sự hiện diện ngoài sự mong đợi của một thụ tạo. Do đó, một khi ý thức về hồng ân hiện diện, chúng ta sẽ biết sống một đời tạ ơn. Và chính lúc sống đời tạ ơn đó, chúng ta sẽ tiếp tục được Thiên Chúa chăm sóc, nuôi dưỡng và đón nhận sự sống của Ngài, như một trẻ thơ luôn vui sống trong ánh mắt của cha mẹ mình, thì chắc chắn luôn được cha mẹ che chở, chăm sóc và nuôi dưỡng. Như thế, sự sống của chúng ta không chỉ được cắm rễ sâu trong sự sống của Thiên Chúa mà còn triển nở một cách tròn đầy trong Thiên Chúa nữa, và tâm hồn chúng ta chắc chắn sẽ có được niềm vui của Chúa, niềm vui của những người con thảo đối với Cha trên trời.

Sống trong ân tình của Chúa còn là gì nữa, nếu không phải là nhận ra và sử dụng những nén bạc Chúa trao một cách hiệu quả nhất theo ý Ngài. Niềm vui của cha mẹ là nhìn thấy con cái mình khôn lớn và thành đạt bằng những phương tiện do mình trợ giúp. Hay nói một cách khác, chính khi người con biết tận dụng những phương tiện cha mẹ cung cấp để thành đạt trong cuộc sống, ấy là lời tri ân đẹp nhất dâng lên cha mẹ mình. Vậy khi chúng ta biết tận dụng và phát huy mọi ân huệ và tài năng Chúa ban lại không phải là bài ca chúc tụng và tạ ơn đẹp lòng Thiên Chúa sao? Tất nhiên niềm vui đến từ đây là rất lớn.

Sống trong ân tình Chúa còn là chu toàn mọi công việc bổn phận theo ý Chúa muốn trong từng ngày sống. Điều này cũng cho thấy chúng ta không còn sống cho riêng mình, nhưng là sống cho Chúa và cho tha nhân nữa. Như là những đầy tớ trung tín, không chỉ chu toàn mọi công việc được trao, mà còn luôn khao khát đón chờ chủ về và luôn cảm thấy vui sướng, hạnh phúc khi được sống với chủ. Thông thường chúng ta vẫn thích làm theo ý mình hơn là ý Chúa, chúng ta vẫn thích chiều theo cái tôi của mình hơn là lề luật của Giáo hội, nên chúng ta vẫn sống ngoài ân tình của Chúa và dĩ nhiên là cũng không nhận được niềm vui thực sự trong tâm hồn.

Ước mong mỗi người chúng ta biết tận dụng thời gian Mùa Vọng này để luôn sống trong ân tình của Chúa, nhờ đó khi Chúa đến diện đối diện, thì tâm hồn chúng ta, cuộc đời của chúng ta luôn được chan chứa niềm vui và bình an, thứ niềm vui và bình an mà thế gian không ban được.[Mục Lục]

46. Người làm chứng

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ ‘làm chứng’ được dùng đến bốn lần.

Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để làm chứng (x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).

Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.

Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một phái đoàn đến tìm hiểu con người ông.

Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai? Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: “Tôi không phải là Đức Kitô” – “Không phải” – “Không”. Những tiếng ‘không’ dứt khoát và trung thực.

Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê. Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng ông giới thiệu bị che khuất.

Lần thứ hai được hỏi: Ông là ai?

Gioan đã định nghĩa mình là một tiếng hô trong hoang địa, là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô.

Ông biết rõ mình là người đến trước nhưng vị đến sau lại có trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng (Ga 1,30). “Tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” Làm đầy tớ cho Đức Kitô, ông nhận mình không xứng.

Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.

Gioan không ngại giới thiệu môn đệ mình theo Đức Giêsu, và ông bình an khi người ta đổ xô đến với Ngài để chịu phép rửa (Ga 3,26).

Có ai siêu thoát như Gioan?

Ông từ bỏ trong niềm vui hồn nhiên. Ông hạnh phúc vì mình đã hoàn thành sứ mạng. “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3,30).

Sự khiêm hạ làm cho lời chứng của Gioan đáng tin hơn.

“Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.”

Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ với nhiều người.

Con người vẫn khắc khoải đi tìm những nẻo đường cứu độ, trong khi Đấng Cứu Độ đã đến từ hơn 2000 năm.

Xin được làm người chứng như Gioan, giới thiệu cho bạn bè Đấng mà họ đang tìm kiếm.

Gợi Ý Chia Sẻ

Giới trẻ hôm nay say mê các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thể thao… Theo ý bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu có thể làm cho giới trẻ say mê? Đức Giêsu có phải là mẫu người lý tưởng của các bạn trẻ không?

Gioan là con người siêu thoát. Ông không tìm mình, ông vượt lên trên cái vòng danh lợi. Bạn có quen biết ai làm chứng tuyệt như Gioan không?

Cầu Nguyện

Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.

Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.

Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.

Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.

(R. Tagore)[Mục Lục]

47. Một nhân chứng dấn thân

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Để hiểu rõ đoạn mở đầu Phúc Âm theo thánh Gioan, chúng ta cần nhớ lại bầu khí mong đợi bao trùm sinh hoạt dân Do Thái khoảng thập niên 30. Một số những nhà lãnh đạo và nhất là khối dân chúng nóng nảy trông đợi Đấng Cứu thế, họ nghĩ rằng Người sẽ ngự đến và trục xuất quân La mã chiếm đóng đất nước họ, rồi tổ chức Israel thành vương quốc lý tưởng. Chính trong bầu khí đó, Gioan Tẩy giả xuất hiện. Sứ điệp của ông không phù hợp với ý niệm người Do Thái vốn có về Đấng Cứu Thế, tuy vậy ông vẫn là một trường hợp gây bối rối: ông lôi cuốn những đám đông, từ con người ông tỏa ra một sức mạnh tinh thần, ông thành vấn đề cho nhà đương cuộc, thuộc giới lãnh đạo dân tộc, những người biệt phái muốn biết rõ. Họ thắc mắc: không hiểu ông Gioan này, thường vẫn rửa tội cho dân chúng, ông là ai? Họ cử phái đoàn chính thức gồm những tư tế và phó tế đến gặp ông với nhiệm vụ điều tra lý lịch và ý nghĩa hoạt động của ông. Họ đặt ba câu hỏi phù hợp với luồng tư tưởng đương thời. Gioan có phải là Đấng Cứu thế không? Phải chăng ông là Elia, người đi trước Đấng Cứu thế, như mọi người thường nghĩ? Ông có phải là Ngôn sứ không? –nghĩa là ông có phục hồi những thời kỳ sấm ngôn, khi mà từ lâu rồi chẳng còn thấy các ngôn sứ nữa? Gioan trả lời một cách hơi khó hiểu, tuy nhiên câu đáp của ông lại là minh bạch đối với những ai muốn hiểu biết “Tôi là tiền hô của Đấng Cứu thế”. Một chi tiết: tuy ông nhận là kẻ đi trước Đấng Cứu thế, nhưng không nhận là Elia, vì lẽ ông tách rời con người Elia và sứ mạng người ta gán cho Elia là loan báo Đấng Cứu thế xuất hiện, sứ mạng này được Gioan hoàn tất tuy khônbg phải vì thế mà ông là Elia. Cho nên ông có thể trả lời: ông không phải là Elia, mà vẫn khẳng định ông là kẻ tiền hô. Chúng ta ghi nhận tầm quan trọng thánh chép sử đặt cho lời chứng.

1) Ông đến như một nhân chứng, để làm chứng cho ánh sáng. Đức tin của chúng ta ngày nay đặt nền móng trên 1 chứng từ. Nếu nhặt riêng ra từng chứng từ một thì chứng từ không có cùng 1 sức mạnh nhưng tập họp lại thì trở nên một lớp đất mầu đặc biệt phì nhiêu, trên đó trổi lên và tăng trưởng cây đại thụ Giáo Hội. Chứng từ của Gioan Tẩy giả ở vào khoảnh khắc bản lề, 1 khoảnh khắc trọng đại trong lịch sử dân Chúa. Gioan là vị Ngôn sứ cuối cùng vì tuy sống thời Cựu Ước, nhưng loan báo về Đấng Cứu thế. Ông cũng là nhân chứng vì khi sứ mạng kết thúc, ông nhìn thấy Đấng Cứu thế và tuyên cáo Người đã ngự đến. Sức mạnh của lời chứng của ông là ở cung cách ông đáp ứng đích thật đối với nhiệm vụ Chúa trao cho ông. Người ta hình dung dễ dàng quang cảnh một số người Do Thái khi họ thấy ông, nghe ông giảng dạy. Có thể họ đã nhận xét ông bằng thứ ngôn ngữ dân gian đậm chất thân mật: ông này đúng là 1 ngôn sứ “thứ thiệt” đây. Chúng ta giữ lại để suy niệm câu hỏi sau: phải chăng lời chứng của chúng ta về Đức Kitô căn cứ trên sự tiên quyết này, là chúng ta làm chứng về Người không phải vì đã tận mắt thấy Chúa, mà chỉ vì đã gặp Người trong thâm tâm chúng ta?

2) Gioan Tẩy giả được trình bay như một nhân chứng cho ánh sáng. Chủ đề ánh sáng bàng bạc khắp Phúc âm theo thánh chép sử Gioan. Ngay ở phần nhập, chủ đề đã đặt câu hỏi nghiêm trọng về sự đón tiếp con người dành cho sự thật. Óc thông minh con người được cấu tạo để hiểu biết chân lý, cho nên có khả năng hoặc tiếp nhận hoặc xua đuổi chân lý. Chúng ta nên nhớ, vấn đề này không chỉ là 1 vấn đề trí thức. Con người tiếp nhận sự thật bằng toàn bộ thể xác và tâm linh. Điều này dẫn đưa con người vào đường dấn thân. Tiếp nhận đức tin là dấn thân vì đức tin. Chừng nào đến lượt mình chúng ta cũng sẽ là những người làm chứng cho ánh sáng nếu chúng ta vì tin mà thừa nhận, gắn bó, chứ không phải chỉ vì hiểu biết, nếu chúng ta dùng cả cuộc đời để nghênh đón Chúa.[Mục Lục]

48. Tiếng kêu trong hoang địa

Niềm hy vọng sẽ không giá trị gì đối với những ai cứ khép chặt lòng mình không muốn đổi mới. Tiếng kêu cầu hay kêu cứu của con người sẽ chẳng ai nghe nếu cuộc đời vắng đi những tâm hồn biết sống cho người khác. Gioan Tẩy Giả thật khiêm nhường khi tự giới thiệu về mình “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa”. Tiếng kêu giữa phố xá thị thành may ra còn người đáp cứu. Tiếng kêu giữa nơi hoang vu thì mấy ai trả lời. Ấy vậy mà Gioan vẫn kêu mời mọi người dọn đường đón Chúa đến. Tôi nhìn thấy cuộc đời luôn có những tiếng kêu vang. Kêu trong niềm hạnh phúc đến tột cùng. Kêu trong nỗi đau buồn đến tuyệt vọng. Kêu trong nỗi ưu phiền cho phận người còn quá long đong.

Tiếng kêu trong niềm vui sướng

Loan báo niềm vui lúc nào cũng làm cho người ta mạnh miệng. Tiên tri Isaia đã mạnh dạn khi nói về thời gian mà Thiên Chúa thi ân cho con người. Ngày mà tù nhân được phóng thích, lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, những tấm lòng tan nát được Chúa băng bó vết thương. Đó là thời thịnh vượng, sung túc vì Thiên Chúa đến với con người.

Thật là oan ức khi có người cho rằng tiếng kêu trong vui mừng chẳng qua là “nổ”. Không, niềm vui khi được sẻ chia thì niềm vui nhân lên. “Nổ” là người nói quá sự thật, nhưng tiếng kêu trong vui mừng là nói sự thật để mọi người cùng vui. Đây lại là một niềm vui lớn: Thiên Chúa đã đến với con người.

Tiếng kêu trong sứ mệnh làm chứng

Nếu mình đóng vai trò là một bóng mờ để người khác vượt đúng là điều không dễ. Bởi nó đòi hỏi rất nhiều hy sinh. Sự hy sinh đến mức tự huỷ chính mình là điều không ai muốn. Aáy vậy mà Gioan xuất hiện để thực hiện sứ mệnh ấy. Ông chấp nhận lắng chìm để Chúa được nâng lên. Oâng tự nhận không xứng cởi day giày cho Người để tất cả mọi người hãy quên ông đi để tập trung hướng về Đấng Cứu Thế.

Ai cũng hiểu Gioan Tẩy Giả lúc bấy giờ thật có thế giá. Nhiều người tuôn đến chịu phép rửa của ông. Có lẽ có nhiều người rất thần tượng về ông. Thế nhưng ông không cố giữ những lời ca tụng của dân chúng nới bản thân. Tiếng “không” là một cách trả lời dứt khoát và đúng sự thật. Tôi không phải là Êlia, cũng không phải là Môisen, càng không phải là vị cứu tinh mà mọi người trông đợi.

Gioan xuất hiện như mẫu gương của sự khiêm nhường trong việc làm chứng cho sự thật. Sống giữa đời tôi cần phải biết mình, biết người và biết Chúa. Biết những giới hạn của mình để đón nhận và cố gắng vượt qua. Hiểu biết người để cùng đồng hành chia sẻ. Biết Chúa để phụng thờ và thiết lập một tương quan ngày càng xứng hợp. Khi nào ta dám xoá mình đi khi đó ta mới làm chứng cho người khác được.

Tiếng kêu để mời gọi đổi đời

Tiếng kêu trong hoang địa không phải là tiếng kêu cứu của kẻ cô đơn thất vọng nhưng là lời mời gọi mọi người đổi mới. Đổi mới cái nhìn bằng cách nhận ra Chúa đang hiện diện quanh đây. Đổi mới cánh sống bằng việc sám hối lỗi lầm. Đổi mới con người bằng việc thực thi công bằng bác ái. Gioan vào sa mạc tưởng đâu tách biệt nhưng thực ra ông đang sống rất gần. Bằng những lời kêu mời rất cụ thể, Gioan muốn giới thiệu về một Thiên Chúa cũng rất gần và đang đến.

Mỗi Kitô hữu giờ đây đến Chúa Giêsu không còn là một nhân vật trong quá khứ nhưng Ngài đang sống với ta, trong ta. Đừng để Ngaì đi qua cuộc đời mà chẳng một ai tiếp rước. Tiếng kêu của Gioan vẫn còn vang vọng để nhiều người nhận ra Ngài, đón nhận Ngài mà thay đổi đời sống.[Mục Lục]

49. Kitô hữu, bạn là ai?

(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)

Trên đường đi, cảnh sát giao thông chặn tôi lại, kiểm tra giấy tờ. Tôi xuất trình thẻ chứng minh nhân dân, trong đó có ghi sẵn họ và tên, địa chỉ, ngày và nơi sinh của tôi. Thế là cảnh sát hài lòng, vì đã biết được tôi là ai trong giấy tờ. Nhưng cảnh sát lại không biết tôi làm những việc gì, những mối quan hệ của tôi, những suy nghĩ của tôi, lý tưởng của tôi, niềm vui, nỗi buồn của tôi. Tất cả những điều đó ông không cần lưu tâm. Ông đã cầm được giấy chứng minh nhân dân chính thức của tôi và thế là đủ. Nếu có cần thì hỏi thêm giấy chủ quyền xe gắn máy và thuế lưu hành.

Ngày xưa, khi Gioan Tẩy Giả công khai xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, dân chúng tuôn đến với ông, khiến nhà cầm quyền đạo đời Do Thái phải thắc mắc: Ông ấy là ai? Và họ cử phái đoàn đến điều tra xét hỏi. Họ đã mở cuộc phỏng vấn: Ông là ai? Gioan Tẩy Giả đã không xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, địa chỉ, lý lịch của mình, nhưng ông nói rõ sứ mạng, lý tưởng của ông, sự dấn thân, ơn gọi và lẽ sống của ông: “Tôi là tiếng của người kêu trong sa mạc… Tôi đây làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Gioan Tẩy Giả hướng toàn bộ cuộc đời ông về Đức Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng ông, đam mê của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mặc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người Tin Mừng: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, là bình an và niềm vui cho nhân loại. Cho đến chết, Gioan Tẩy Giả là tiếng hô dọn đường cho Chúa đến.

Hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi cho chính mình: Kitô hữu, chúng ta là ai? Như người ta đã chất vấn Gioan Tẩy Giả: “Ông là ai? Ông nói gì về chính mình?”

Chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi “Thiên Chúa giáo” hoặc giấy rửa tội của chúng ta ra. Vấn đề là, như Gioan Tẩy Giả, chúng ta trả lời về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta, về động cơ bên trong thúc đẩy và chi phối cuộc đời chúng ta. Chắc chắn chúng ta còn nhớ câu chuyện sau đó, khi Gioan đang ở trong tù, ông đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu là ai. Chúa Giêsu đã trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng và phúc thay người nào không mất niềm tin vào tôi” (Lc 7,12-23). Chúng ta cũng hãy tự trả lời về chính mình bằng chính những việc làm của chúng ta, bằng chính cách sống của chúng ta. Cả cuộc đời chúng ta phải nói về Đức Giêsu, phải loan báo Đức Giêsu và sứ mạng của Ngài.

Kitô hữu là ai?

Là những người đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ, thiếu nhi, những người yêu mến Đức Giêsu. Nhưng không phải như người yêu thích một đồ vật hay một nhân vật đã đi qua, cũng không phải như người ta yêu thích một bài hát hay, hoặc một văn sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đã chết. Người Kitô hữu yêu mến Đức Giêsu như một người yêu, như một người bạn. Bởi vì, đối với chúng ta, Đức Giêsu chẳng phải là một nhân vật đã đi vào quá khứ, nhưng Ngài hiện đang sống với chúng ta, trong chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc cho Ngài và tiếp tục công việc của Ngài: đó là yêu thương những con người nghèo khổ, giải phóng những kẻ bị áp bức, bóc lột, chữa lành những tâm hồn tan vỡ, đem tự do đến cho những kẻ bị giam cầm, loan báo Tin Mừng cho những con người bất hạnh. Trong thời đại chúng ta, vẫn còn có Mẹ Têrêxa của cộng đoàn Thừa Sai Bác Ái, Sư Huynh Roger Schutz của cộng đoàn Taizé, cha Pierre của cộng đoàn Emmau, và còn biết bao tấm gương âm thầm khác nối tiếp bước chân Gioan Tẩy Giả.

Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên những con người của niềm vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng phải chỉ nói rằng: tôi là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này, giáo xứ nọ. Nhưng chính yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự chọn lựa của tôi như Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay chúng ta cần có nhiều người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Đức Kitô không những bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ nhận ra chúng ta là bạn của Đức Kitô, là Kitô hữu.

Vì thế, mỗi người Kitô hữu phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống thế nào để qua lời nói và hành động của chúng ta, những người khác có thể gặp được Chúa Cứu Thế: trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làm việc, chỗ giải trí, chúng ta phải sống ra sao để ai gặp được chúng ta là phần nào đã gặp được Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một ngọn đèn, một ngôi sao Giáng Sinh, một nhân chứng của ánh sáng. Noi gương Gioan Tiền Hô, hãy sống hết lòng với Chúa và do đó luôn thao thức làm cho người khác tìm gặp Chúa Giêsu và đón nhận ơn cứu độ của Ngài.[Mục Lục]

50. Niềm vui thật

Chúa nhật thứ ba mùa vọng được gọi là Chúa nhật hồng, Chúa nhật của sự vui mừng (Gaudete Sundae). Màu hồng của phẩm phục phụng vụ cho thấy sự vui mừng, yêu đời và hy vọng. Và quả thực tư tưởng lời Chúa hôm nay nói lên điều đó. Isaia loan báo: Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa và lòng tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Người đã sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó. Thánh Phaolo cũng kêu gọi tín hữu Thêxalônica: anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô. Và bài Tin mừng cho chúng ta thấy niềm vui ấy khi Gioan Tiền Hô loan báo Chúa Kitô là nguồn an ủi của mọi tâm hồn: Có một vị đến sau tôi và đang ngự giữa các ông mà các ông không biết.

Niềm vui, hy vọng hay hạnh phúc của chúng ta bắt nguồn từ đâu? Chúng ta phải sống niềm vui ấy như thế nào?

Niềm vui hay hạnh phúc là mục đích của con người sống trên trần gian. Vì con người được Thiên Chúa dựng nên để chia sẻ niềm vui, hạnh phúc và sự sống đời đời với Thiên Chúa. Pascal đã nói: Tất cả mọi người đều đi tìm kiếm hạnh phúc, ngay cả những người tự tử. Nhưng chúng ta không thể tìm kiếm niềm vui, hạnh phúc hay hy vọng ở ngoài Thiên Chúa.

Ngày nay có người đi tìm hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng “thăng hoa” của tình yêu đôi lứa. Nhưng hạnh phúc ấy chợt vụt tắt khi họ không còn cần đến nhau nữa. Có người tìm kiếm hạnh phúc nơi tiền bạc hay của cải, nhưng tiền tài của cải cũng chóng qua như khi nó đến. Cũng có người tìm kiếm niềm vui và hạnh phúc nơi sự nghiệp công danh. Nhưng công danh sự nghiệp thì kèm theo nước mắt và đoạ đày.

Niềm vui, hạnh phúc thật của con người không thấy được tìm thấy nơi khoái lạc trần gian, nơi vật chất mau qua chóng tan hay cuộc sống danh vọng nhiều ganh đua. Niềm vui và hạnh phúc thật chỉ có được khi con người sống trong vui tươi, tin tưởng, bất chấp mọi khổ đau vì con người tin rằng Chúa Giêsu đã đến và mang lại cho chúng ta niềm vui và sự sống: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một của Người xuống cho trần gian để nhờ Người Con một ấy chúng ta được sự sống của con Chúa, được trở nên con cái Thiên Chúa. Đó là niềm vui đích thực, đó là niềm phấn khởi bao la của chúng ta.

Nhưng để sống được trong niềm vui và hạnh phúc ấy chúng ta hãy tập sống như Gioan Tiền Hô trong bài Tin mừng hôm nay. Gioan xuất hiện trong khiêm tốn dù ông là một nhân vật rất quan trọng (Tiền Hô cho Chúa Cứu Thế). Ông từ chối hết tất cả những tước hiệu mà dân chúng gán cho ông (vì nó không phải là của ông). Hạnh phúc và niềm vui của Gioan là đến để làm chứng cho ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin và được cứu rỗi. Đối với Gioan, trở thành đầy tớ của Thiên Chúa và giúp mỗi người trở về với Thiên Chúa là niềm vui và hạnh phúc thật.

Trần Văn Điền định nghĩa hạnh phúc như sau: Hạnh phúc không phải là cái bạn cầm trong tay nhưng là cái bạn mang trong tim. Hạnh phúc là kêt quả của tình thương yêu đối với mọi người. Khi chúng ta mở một nụ cười với người đau buồn, khi chúng ta nói một lời an ủi, nâng đỡ đối với người tội lỗi; một hành vi giúp đỡ cho người thiếu thốn. Niềm vui và hạnh phúc là chia vui với người vui, là sớt chia nỗi buồn với người sầu khổ.

Niềm vui và hạnh phúc thật còn là bình an trong tâm hồn mình, là khiêm nhường chấp nhận thực tại của cuộc sống mặt dù cuộc sống này còn đó những khó khăn và thử thách.

Sự vui mừng hay hạnh phúc của chúng ta phải đến từ bên trong, từ hành động phục vụ tha nhân và ý thức rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện với chúng ta. Hạnh phúc và niềm vui là tin tưởng phó thác hoàn toàn cho Chúa vì chính Chúa là nguồn vui thật của chúng ta và sự sống của chúng ta ở nơi Đức Giêsu Kitô.[Mục Lục]

51. Niềm Vui – ĐGM. Nguyễn Sơn Lâm

“Hãy vui lên, hỡi anh em, hãy vui lên! Hãy cảm tạ Thiên Chúa trong mọi sự, vì đó là thánh ý Người về tất cả anh em trong Đức Kitô. Anh em đứng dập tắt tác động của Thánh Thần” (1Thes 5,16-17). Lời thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Thessalônikê ngày xưa, hôm nay Giáo hội lại công bố với chúng ta trong ngày Chúa nhật thứ III mùa Vọng này.

Trong lúc chờ đợi Đức Kitô đến, chúng ta phải tỉnh thức, phải lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi. Chính tiếng Người đem lại niềm vui cho ta, như Gioan Tẩy giả đã làm chứng, khi ông nói về vai trò tiền hô của mình đối với Đấng Cứu thế.

“Niềm vui của tôi là được nghe tiếng Ngài. Niềm vui của tôi đã sung mãn. Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ dần đi” (Gioan 3,29-30)

***

  1. Giáo Hội Kêu Gọi Chúng Ta Vui Lên. Nhưng Thế Nào Là Vui?

Theo kinh nghiệm thông thường, vui là khi một ước vọng của ta được toại nguyện; khi ta thành công trong một nỗ lực hoặc một dự tính; khi quyền lợi của ta bị tước đoạt mà nay được phục hồi; và vui nhất là khi ta được gặp lại những người thân yêu sau một thời gian xa vắng. Tắt một lời, ta vui khi lòng ta đang trống mà được lấp đầy.

  1. Niềm Vui, Theo Nghĩa Thánh Kinh, Chính Trị Là Trạng Thái Của Con Người Được Thiên Chúa Đổ Đầy Thánh Thần

Bài sách Isaia hôm nay (Is 61,1-2a.10-11) phác họa cho ta hình ảnh Đấng Thiên Sai được Thánh Thần xức cho dầu hoan lạc: “Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi… Ngài sai tôi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”.

Năm hồng ân trong Cựu Ước – mà Năm Thánh là điệp ảnh – quả là một sáng kiến độc đáo Thiên Chúa đề ra cho Dân Ngài. Nó là khoảng thời gian đặc biệt nhắc cho mọi người nhớ rằng: tất cả những gì mình có đều là do Thiên Chúa ban, và mọi người phải nghĩ đến quyền lợi của kẻ khác: bởi vì mọi người đều có quyền sống tự do và hưởng dùng tài nguyên trên mặt đất. Năm hồng ân làm nổi bật, nguyên tắc công bằng và quyền bình đẳng của mọi người trước mặt Thiên Chúa (Lêvi 25,1-55).

Mở đầu cuộc đời công khai, Đức Giêsu đã đọc cho mọi người nghe đoạn sách Isaia trên đây trong hội đường Nadarét. Và Ngài kết luận: “Hôm nay, đoạn sách thánh ấy đã thực sự ứng nghiệm cho anh em” (Lc 4,16-21). Và như thế, Ngài nhận lấy sứ mạng “loan báo Tin Mừng cho những người nghèo khổ, băng bó vết thương cho những tấm lòng tan nát, công bố ân xá cho những kẻ bị tù đày, trả tự do cho những người bị áp bức” (Is 61,1-2; cf Lc 4,18-19).

Đó là những quyền căn bản của con người: quyền được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình và được tôn trọng, quyền được hưởng niềm vui làm người tự do và bình đẳng. Nhưng hơn thế nữa, sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu Kitô còn nhằm biến đổi mọi người trở thành con cái Thiên Chúa. Điều quan trọng hơn cả trong Tin Mừng Ngài mang đến cho chúng ta là Thiên Chúa muốn sống giữa loài người liên đới với nhau như một cộng đoàn hợp nhất, thánh thiện và hòa bình. Sứ điệp đó thúc đẩy chúng ta nỗ lực xây dựng Nước Trời trong một xã hội công bình và huynh đệ, ở đó mọi thành phần đều được Thần Khí thánh hóa và quy tụ quanh Đức Giêsu Kitô, để cùng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha (Gal 3,16; Rm 8,14-17). Bài sách Isaia loan báo Thiên Chúa sẽ khoác cho dân Ngài một áo choàng công chính và cứu độ (Is 61,10) mà thánh Phaolô họa lại bằng lời nguyện cầu “xin Thiên Chúa bình an thánh hóa anh em” (1Thes 5,23).

Niềm vui Đức Giêsu Kitô mang tới cho ta, chính là niềm vui của người tự do được làm con Thiên Chúa.

  1. Sứ Điệp Tin Mừng Là Thế – Sứ Điệp Đấng Thiên Sai Là Thế

Nhưng người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để nhận được niềm vui đó? Thánh Phaolô trả lời: “Anh em đừng dập tắt tác động của Thánh Linh” (1Thes 5,19) vì chính Thánh Thần làm nảy sinh mọi sự tốt đẹp, mọi hoa quả nhân đức “bác ái, hoan lạc, bình an, cao thượng, tận tâm, nhân từ, tín thác, hiền lành, tự chủ” (Gal 5,22-23), và “đâu có Thánh Thần, đấy có tự do” (2Cr 3,7). Đặc điểm của thời đại Đấng Thiên Sai là Thiên Chúa phủ đầy Thần Khí trên nhân loại, làm cho mọi tâm hồn chan chứa niềm vui: niềm vui được Thiên Chúa viếng thăm, được Ngài chúc phúc và ban ơn cứu độ.

Nhưng hạng người được Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm là những người nghèo (xem Lc 2,24). Họ được, Ngài chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3) và Tin Mừng cũng được loan báo trước tiên cho họ (Lc 4,18). Họ được Thiên Chúa ban đầy hồng ân, vì lòng họ sẵn sàng và khiêm tốn đón nhận. Những người tiếp xúc với Đức Giêsu thuở Ngài còn thơ ấu; cũng như khi Ngài hoạt động công khai đều là những con người nghèo hèn bé mọn của Giavê: Giacaria, Isave, Maria, Giuse, đám mục đồng, Simêon, Anna, Gioan Tiền hô, nhóm môn đệ và đoàn dân nghèo theo Ngài để đi giảng. Đó là một xã hội nghèo của Ngài và từ đó phải trở thành Giáo hội của người nghèo; một Giáo hội nhẹ lòng với của cải trần gian, ít bận tâm về những điều vật chất, để được thanh thoát và mở rộng tâm hồn đón nhận tác động của Thần Khí Thiên Chúa biến đổi họ thành những con người tự do.

Hai tâm hồn tiêu biểu nhất trong mùa Vọng là Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy giả. Họ đều nghèo nhưng cả hai đều tràn đầy Thánh Thần và vì thế, lòng các ngài chan chứa niềm vui. Riêng niềm vui của Đấng Tiền hô thật là sung mãn: bởi đã nghe tiếng Chúa Cứu Thế, được làm người dọn đường cho Ngài, để chỉ Ngài cho thiên hạ thấy, rồi vui vẻ rút lui vào bóng tối; chấp nhận nhỏ dần đi để Ngài được lớn lên (Ga 3,29-30).

Người Kitô hữu cũng phải mang đầy niềm vui như Gioan Tiền hô, một niềm vui thâm thúy của con người ý thức trách nhiệm, trung thành chu toàn sứ mạng, đúng như ơn gọi Thiên Chúa đã dành cho.

Mà ơn gọi và sứ mạng đều phát xuất từ Thiên Chúa. Nhưng để sống đến cùng những đòi hỏi của ơn gọi mình, người Kitô hữu cũng phải như Đức Trinh Nữ Maria kết hiệp mật thiết với Đấng Cứu Thế. Bởi vậy, khi kêu gọi ta vui lên, thánh Phaolô cũng nói thêm: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng” (1Thes 5,16).

Đó là điều kiện cần thiết mang lại niềm vui sâu xa cho tâm hồn con người tràn đầy Thánh Linh Thiên Chúa. Và ai có những lần đã thực sự cầu nguyện, thì cũng đã cảm nghiệm được niềm vui thiêng liêng, niềm vui của người Kitô hữu.

***

BÀI GIẢNG

Thấy Gioan xuất hiện, dân Dothái ngày xưa đã hân hoan rồi. Nhưng khi nghe Gioan tuyên bố: sắp có Đấng cao trọng hơn ông đến, họ còn vui mừng hơn nữa. Vì thế, Chúa nhật thứ ba mùa Vọng là Chúa nhật hân hoan vui mừng.

Chúng ta hãy vui mừng, không phải chỉ vì đang được nghe lại tiếng kêu của Gioan. Ngày xưa dân Dothái đã hân hoan khi thấy Gioan xuất hiện. Tên ông đã gợi lên niềm tin rồi, vì Gioan có nghĩa là “Thiên Chúa đoái thương”. Ngài không còn ngoảnh mặt đi nữa, nhưng đã bắt đầu nhìn lại Dân Ngài, để ra tay cứu độ. Và quả thật, đang có nhiều hy vọng vươn lên. Người ta tuôn đến nghe Gioan giảng; người ta chen nhau lội xuống nước, thú nhận tội mình, để được ông rửa cho. Gioan này thật là vị tiên tri vĩ đại. Chúa gửi người đến cho dân, để sửa soạn gì đây. Dân Chúa cảm thấy phấn khởi vì sự hiện diện của Gioan Tẩy giả, với phong trào đạo đức mà ông đang khơi động.

Ngày nay chúng ta cũng có thể phần nào vui lên như thế. Ở trong Giáo hội toàn cầu cũng như ở nơi Giáo hội Việt Nam đang nổi lên biết bao phong trào đạo đức. Người ta đi lễ nhiều hơn trước, rước lễ đông hơn trước, say sưa học giáo lý và dường như thấy rõ niềm tin lúc này là nguồn an ủi sâu xa hơn khi nào khác. Ở nhiều nơi, người ta còn được chứng kiến nhiều buổi cầu nguyện Thánh Linh nữa. Các phong trào đạo đức đó như đang làm cho bộ mặt Giáo hội sáng ngời lên, khiến nhiều người có thể hân hoan nghĩ rằng: tất cả những gì đang xảy ra có thể là cơ hội thanh tẩy Giáo hội và giúp Giáo hội vươn lên trong sự công chính và thánh thiện thật.

Nhưng cũng như dân Dothái ngày xưa, chúng ta đừng chỉ vui với chừng ấy. Ngày xưa khi thấy Gioan xuất hiện, dân Chúa như đã muốn vui luôn trong ánh sáng của người. Nhưng Phúc Âm hôm nay cho ta thấy: Gioan bảo dân chúng phải nhìn xa hơn nữa. Ông chỉ rửa trong nước thôi; sắp có Đấng đến sau để rửa dân trong Thánh Thần. Chính Ngài mới là Đấng Kitô Cứu Thế và ông không đáng cởi dây giày cho Ngài… Chúng ta ngày nay cũng phải cẩn thận, đừng dừng lại ở những hiện tượng lạc quan như trên đã nói. Phải đi sâu hơn, xa hơn. Phải vượt qua mọi hình thức, cho dù rất đạo đức, để tìm gặp chính Chúa Kitô. Nhiều người trong ta có lẽ còn giống nhóm Biệt phái và Dothái. Các nhóm này, ngày xưa, chỉ muốn dừng lại ở Gioan, ngưỡng mộ ông và coi ông như Cứu Thế. Nhiều Kitô hữu ngày nay cũng thường chỉ muốn dừng lại ở những cái thấy được, ở các buổi phụng vụ sốt sắng và các buổi cầu nguyện sầm uất. Học giáo lý để thuộc chứa không để sống! Rước lễ để sốt sắng trong nhà thờ chứ không để thêm sức sống đạo ở giữa đời! Hôm nay, phụng vụ của Giáo hội thúc giục ta phải đi xa hơn, vượt qua những hành vi và tổ chức đạo đức, để gặp Chúa Kitô và sống với Ngài.

Chúa Kitô, theo bài đọc I hôm nay, là sứ giả của Thiên Chúa sai xuống trần gian. Ngài được xức dầu Thánh Thần, rồi được sai đem Tin Mừng cho người nghèo khó; và công bố khắp nơi năm hồng ân của Thiên Chúa… Ngày nay, Chúa cũng đang muốn tìm được những sứ giả như vậy ở giữa chúng ta. Ngài muốn cho cả Giáo hội của Ngài được xức dầu hoan lạc để luôn luôn công bố cho mọi người biết Tin Mừng Chúa đến cứu độ trần gian. Ngài muốn cứu mọi người từ tận căn, tận rễ, từ những người đang nghèo khổ, bất cứ về phương diện nào, để đời sống trở thành như năm hồng ân của Thiên Chúa.

Như vậy, tinh thần của ngày Chúa nhật hôm nay, đòi ta phải lột bỏ mọi vẻ mặt sầu bi, thiểu não. Phải đuổi xa mọi tâm tư hắc ám và buồn nản. Phải giải tỏa mọi nỗi lòng đau khổ và tội lỗi. Xưng tội từ hôm nay để tham dự vào mầu nhiệm Giáng sinh không phải là quá sớm đâu. Phải như mặc lấy áo phần rỗi và công chính để hoan hỷ đem tin vui đến cho mọi người.

Và tin vui của Đức Kitô là gì?

Như lời sách Isaia viết: Ngài muốn “đem hân hoan đến cho người nghèo, băng bó những tâm hồn đang đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ lưu đày”. Ngài muốn nhờ ta bây giờ làm những công việc ấy, để khắp nơi nổi lên một bầu khí hân hoan như được hồng ân của Chúa viếng thăm.

Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cũng vạch ra cho ta con đường thực tế để sống đạo theo tinh thần nói trên. Ngài bảo ta trước hết phải lạc quan: “Anh em hãy vui mừng luôn”. Rồi hãy có tinh thần cầu nguyện để nhìn thấy thánh ý Chúa trong mọi việc. Đừng dập tắt Thánh Thần của Chúa, đừng làm ngơ trước tiếng gọi của Chúa hằng vang lên trong mọi sự xảy đến hằng ngày cho ta, hãy duyệt lại tất cả: bỏ cái xấu đi, và giữ lấy cùng phát triển mọi điều tốt gặp được.

Như vậy chúng ta sẽ đi vào đường lối của Đức Kitô, sẽ sống như Ngài trong cuộc đời trần gian: Ngài đã mặc lấy thân phận y hệt như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhận mọi hoàn cảnh xảy ra, gạt bỏ điều xấu, xây dựng điều lành. Ngài cứ nhìn vào những người nghèo khó và khổ sở ở đời để tìm cách kéo gỡ họ ra khỏi thân phận đau thương. Chính vì vậy Ngài đã trở thành Cứu thế và ban ơn Cứu độ.

Giờ đây trên bàn thờ Ngài muốn cử hành mầu nhiệm cứu độ đó ở trước mắt chúng ta, để kêu gọi chúng ta đi vào, dâng mình kết hợp với Ngài, hầu Ngài có thể ngự vào lòng ta để tiếp tục làm những hành vi cứu độ trong đời sống và qua đời sống của ta. Ta hãy nhiệt tâm đi vào mầu nhiệm thánh lễ này.

Đức Giêsu Là Người Thực

Tôi dám nói rằng: Nếu tôi không nhận biết Chúa Kitô thì đối với tôi, “Thượng đế” sẽ là một danh từ vô nghĩa. Nếu không có ơn rất đặc biệt tôi sẽ không thể mường tượng một hữu thể vô hạn. Thiên Chúa của các triết gia và những nhà bác học sẽ không giữ vai trò nào trong đời sống luân lý của tôi. Thiên Chúa đã phải hạ mình xuống trong nhân loại, và trong một giờ khắc rõ rệt của lịch sử, tại một địa điểm xác định trên địa cầu, một người được tạo nên bằng huyết nhục, đã phải tuyên bố mấy lời và làm một vài cử chỉ thì tôi mới quỳ gối thờ lạy. Nếu Chúa Kitô đã không phán: “Lạy Cha chúng con…” thì không bao giờ tự mình tôi có ý niệm về tình nghĩa tử này. Lời kêu cầu ấy đã không khi nào tự đáy lòng tôi thốt ra trên môi. Tôi chỉ tin cái gì tôi đụng chạm và nom thấy, cái gì sát nhập vào bản thể tôi. Và chính vì thế, tôi đã tin Chúa Kitô. Tất cả những khuynh hướng muốn giảm bớt thân phận con người nơi Chúa Kitô sẽ đi ngược với một ý hướng sâu thẳm nhất của tôi. Có lẽ vì thế mà tôi vẫn không thích nhìn dung nhan Chúa Kitô Vua và Đấng Thiên Sai toàn thắng bằng hình ảnh khiêm tốn và tiều tụy của Con Người mà qua việc bẻ bánh trong quán trọ làng Emmau các lữ khách đã nhận ra. Người là người anh mang đầy thương tích và là Thiên Chúa của chúng ta. (Francois Mauriac Vie De Jésus)

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa – của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

[Mục Lục]

52. Làm chứng cho sự thật

Gioan Tẩy Giả có một vai trò rất đặc biệt trong kế hoạch của Thiên Chúa. Có lẽ vì thế mà Thánh sử Luca đã nói về Gioan ngay sau câu giới thiệu tóm tắt quyển Tin Mừng: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa: chiếu theo lời đã chép trong sách ngôn sứ Isaia: ‘Này ta sai sứ giả của ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa, hãy dọn đường…” (x. Mc 1, 1-4). Gioan Tẩy Giả đến để làm chứng cho sự thật về vai trò của mình, về tình thương của Thiên Chúa và về Đấng Cứu Độ đến trong trần gian.

  1. Làm chứng cho sự thật về mình:

Gioan rao giảng và làm phép rửa sám hối cho mọi người. Khi ông đã nổi danh, người ta thắc mắc về vai trò của ông. Ông có phải là một vị tiên tri như bao vị tiên tri đã qua đi hay là Đấng Cứu Độ phải đến trong trần gian. Những người đại diện tôn giáo muốn có tin chính xác về ông nên đã cử người đến gặp ông. Họ hỏi: “ông là ai?” Ông nói rõ: tôi không phải là Đấng Cứu Thế, cũng không phải là Êlia nhưng là “tiếng hô trong hoang địa”. Phái đoàn này gồm những luật sĩ và biệt phái chắc hẳn hiểu ngay là Gioan ám chỉ mình là Tiền hô cho Đấng Cứu Thế và phép rửa của ông chỉ là hình bóng cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu Thế.

  1. Làm chứng cho tình thương của Chúa:

Tên Gioan nghĩa là Chúa thương. Gioan sinh ra do tình thương của Chúa đối với gia đình: sinh ra trong hoàn cảnh cha mẹ già. Kể cả Giacaria cũng không tin nổi là mình còn có thể sinh con dù ông tha thiết muốn có con! Chính ông làm mọi người phải để tâm suy nghĩ về hồng ân Chúa ban cho gia đình, và xa hơn nữa là tình thương của Chúa đối với dân Israel. Mỗi lần kêu đến tên Gioan là mọi người nghĩ ngay đến tình thương Chúa.

  1. Làm chứng về Đấng Cứu Độ đã đến trong trần gian:

Gioan khẳng định mình là tiếng hô trong hoang địa, cũng là cách khẳng định về ơn cứu độ đang dành sẵn cho dân Israel. Thời kỳ cứu độ đã đến gần. Gioan nói rõ: Đấng đó đã đến, đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết. Đấng đó cao trọng hơn tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người. Đấng đó là Ngôi lời Thiên Chúa, là Sự Sáng, còn Gioan chỉ là người phàm được Chúa sai đến làm chứng cho Sự Sáng, giúp cho thiên hạ nhận biết Ngôi Lời và tin phục Người.

Gioan dọn đường cho Chúa bằng việc làm chứng cho sự thật về mình, về Đấng cứu thế. Đời sống khổ hạnh của Ngài là lời mời gọi chúng ta hôm nay hãy hoán cải tận đáy lòng, thể hiện đức tin của mình bằng những việc làm cụ thể như sống hòa thuận trong gia đình, hàng xóm láng giềng, bác ái với mọi người, biết tha thứ cho những người làm phiền lòng mình… lời rao giảng và bằng đời sống khổ hạnh. Chúng ta cũng hãy nối tiếp vai trò của Gioan nhắc nhở những người xung quanh bằng cuộc sống gương mẫu và lời khuyên để họ biết chuẩn bị đón Chúa đến luôn luôn.

Là con cái Chúa, chúng ta trả lời mạnh dạn cho mọi người về vai trò và niềm tin của chúng ta hiện nay trong thế giới, ý thức về bổn phận của mình đối với việc truyền giáo và sống đạo, để xứng đáng với tình thương của Chúa trên mỗi người chúng ta. Ngay khi làm được nhiều việc Chúa trao, chúng ta cũng hãy biết vai trò của mình chỉ là người dọn đường và biết nói như thánh Gioan Tiền Hô: để Chúa lớn lên còn tôi nhỏ đi.[Mục Lục]

53. Học sống trung thực với Gioan Tẩy Giả

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Ai cũng muốn tôn mình lên

Sống ở đời, ai cũng muốn tôn mình lên, ai cũng muốn nổi bật, muốn đứng lên “bệ cao”, để cho người khác nhận thấy mình cao lớn hơn, vĩ đại hơn, vinh quang hơn con người thật sự của mình.

Cầu thủ thì muốn nổi bật bằng những đường banh điêu luyện; Ca sĩ thì muốn nổi bật bằng lời ca tiếng hát làm rung động tâm hồn người nghe; Một số thanh niên muốn nổi bật bằng cách sắm những siêu xe đắt giá…

Nói chung, người ta đua nhau tìm kiếm và cố đứng trên những “bệ cao” đủ loại để tỏ cho người khác thấy mình có giá trị và đáng được trọng nể. Đối với người nầy, “bệ cao” có thể là những món trang sức xa hoa đắt giá; đối với người kia, “bệ cao” có thể là những biệt thự xa hoa, sang trọng … Và để có được những thứ “bệ cao” nầy, nhiều người sẵn sàng bán rẻ lương tâm, phẩm giá, danh dự của mình hoặc làm thiệt hại nặng nề cho người khác.

Ông Gioan tẩy giả, một mẫu người rất trung thực

Trong khi đó, Gioan tẩy giả từ khước mọi thứ “bệ cao”. Thay vì vui sống chốn phồn hoa đô hội thì ông lại thu mình vào nơi hoang địa khô cằn; Thay vì ăn mặc lụa là gấm vóc như các người quyền quý thì ông lại khoác bộ da thú lên người làm áo che thân; Thay vì ngày ngày thưởng thức cao lương mỹ vị thì ông chấp nhận ăn uống đạm bạc qua ngày bằng những thứ cào cào, châu chấu…

Gioan tẩy giả luôn luôn trung thực, trung thực với chính mình và với mọi người, có sao nói vậy và không cần bất cứ một thứ “bệ cao” nào để tôn mình lên.

Thời bấy giờ, danh tiếng của Gioan đang lên. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Ki-tô; Có những người khác tưởng lầm ông là ngôn sứ Ê-li-a vĩ đại giáng thế; Có người nghĩ rằng với tầm cỡ của ông, ít ra ông phải là một vị ngôn sứ cao cả nào đó…

Thế mà khi những người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử các thầy tư tế và Lê-vi đến hỏi cho biết ông là ai, ông không nhận vơ cho mình những danh hiệu cao đẹp mà người đương thời gán cho ông như là đấng Ki-tô, là ngôn sứ Ê-li-a… Ông thẳng thắn xác nhận: “Tôi không phải là đấng Kitô, tôi không phải là ngôn sứ Ê-li-a, tôi cũng chẳng phải là một ngôn sứ nào cả” (Gioan 1, 19-20).

Vậy họ hỏi ông: “Vậy ông là ai? Ông hãy trả lời cho chúng tôi biết ông là ai để chúng tôi còn phải tâu trình lại cho người người đã sai chúng tôi đến đây.” Bị ép quá, Gioan mới trả lời rằng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa.” Đó là một phát biểu rất trung thực và cũng rất khiêm tốn về bản thân mình (Gioan 1, 22-23).

Bấy giờ, đang khi nhiều người nghĩ rằng phép rửa của Gioan thiêng lắm, quan trọng lắm nên đổ xô đến cùng ông và nhận phép rửa bởi tay ông, thì chính Gioan lại cho rằng phép rửa ông cử hành chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng hơn, do một Đấng cao cả sẽ đến cử hành. Ông nói: “Tôi đây chỉ làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Ngài sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” (Gioan 1, 26-27). Người ấy sẽ rửa các ông trong Thánh Thần.

Như thế, khiêm nhường và trung thực là hai đức tính nổi bật của Gioan đáng cho chúng ta học hỏi và noi theo.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho con biết học với thánh Gioan tẩy giả để sống trung thực với mình và nhất là đừng cố tìm cho mình những thứ “bệ cao” phù phiếm đến nỗi phải bán rẻ danh dự, lương tâm.

Xin cho con hiểu rằng muốn trở nên cao cả thực sự, thì không phải là tìm cách đứng lên những chiếc “bệ” thật cao nhưng là trau dồi các nhân đức và đào luyện cho mình có những phẩm chất cao đẹp.[Mục Lục]

54. Trút bỏ hư danh để được rót đầy ân sủng

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)

Vào thời Minh Trị thiên hoàng tại Nhật Bản (1860-1912), Nan-in, một thiền sư Nhật, tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về thiền.

Nan-in mời trà. Ông châm trà đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm như một người đãng trí.

Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cả mặt bàn nên không kìm mình được nữa, liền thưa: “Thưa Thầy, đầy tràn cả rồi. Xin đừng rót nữa”.

Thiền sư Nan-in thản nhiên đáp: “Giống như tách trà nầy, đầu óc ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng. Làm sao tôi có thể giải bày thiền cho ông được, trừ khi ông cạn cái tách của ông trước.” (Trích: Góp nhặt cát đá của thiền sư Muju, Đỗ Đình Đồng dịch, Lá Bối xuất bản).

Một chiếc ly đã đầy tràn thì không thể rót gì thêm được. Một cái thùng đầy cát thì không thể đổ thêm gạo, bắp hay bất cứ thứ gì. Cũng thế, một tâm hồn đầy kiêu căng, tự mãn, tham lam… thì đâu còn chỗ trống cho Thiên Chúa rót thêm ân sủng vào.

Trang Tin Mừng hôm nay mời chúng ta hãy hướng về một nhân vật quan trọng của mùa vọng là Gioan Tẩy Giả, một con người sẵn sàng trút bỏ mọi tham vọng và hư danh, trở thành tách trà rỗng không; nhờ đó, ông đã được Thiên Chúa rót đầy.

* * *

Người đời bị cuốn hút bởi lợi danh và cố làm gia tăng giá trị mình bằng những lớp vỏ bên ngoài.

Tiêu biểu cho hạng người nầy là những biệt phái thời Chúa Giêsu. “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong các hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (Mt 23, 5-6).

Còn người thời nay thì tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng những đồ trang sức đắt giá, bằng xe hơi sang trọng, bằng dinh thự nguy nga.

Trong khi đó, Gioan chê bỏ những “lớp vỏ” hào nhoáng của người đời. Người chỉ cần cào cào châu chấu trong hoang mạc làm thức ăn; chỉ cần tấm da thú thô sơ làm áo mặc. (Mt 3,4).

Người đời khát khao danh vọng, muốn khoác cho mình nhiều danh hiệu cao sang; còn Gioan thì trái lại, ông tước bỏ hết mọi danh hiệu cao quý mà người đời khoác cho ngài.

Thời bấy giờ Gioan là người tiếng tăm lỗi lạc. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Kitô, một tước hiệu cao cả đầy vinh dự. Gioan trả lời với các tư tế và các thầy Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem rằng ông chẳng phải là Đấng Kitô. Ông đã không nhận vơ cho mình một danh hiệu rất cao quý.

Thế rồi có dư luận cho rằng ông là ngôn sứ Êlia vĩ đại giáng lâm, vì theo kinh thánh thì vị ngôn sứ nầy phải đến trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế; Gioan cũng từ chối tước hiệu nầy. Thế là ông lại trút bỏ thêm một vinh dự thứ hai.

Có một số khác nghĩ rằng nếu ông không là Đấng Kitô, không là ngôn sứ Êlia, ít nữa thì ông cũng là một vị ngôn sứ cao cả nào đó. (Ga 1, 21b). Gioan cũng từ khước luôn cả danh hiệu nầy.

Và đang khi nhiều người coi trọng phép rửa của Gioan, đã tuôn đến với ông đông đảo, xin ông làm phép rửa cho mình, thì Gioan khiêm tốn nói rằng phép rửa của ông chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng hơn, do một Đấng rất cao cả cử hành mà ông chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng ấy: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1, 26-27).

Và đang khi danh tiếng của Gioan vang dội, còn Chúa Giêsu chưa được nhiều người biết đến, thì Gioan đã tự xoá mình đi, để cho Chúa Giêsu được tỏa sáng. Gioan nói: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.” (Ga 3,30).

Thế là Gioan đã trút bỏ hết mọi vinh dự người ta gán cho mình, chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu. (Ga 1, 23).

Gioan đã hạ mình xuống, nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Gioan đã trút bỏ mọi thứ vinh quang và của cải, trở thành trần trụi rỗng không, nên Thiên Chúa đã đổ đầy ân sủng cho người. Nhờ đó, Gioan trở nên vị ngôn sứ rất cao cả. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận sự cao cả của ông. “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11, 11)

* * *

Gioan đã tự xoá mình đi nhưng người đã sáng bừng lên như một ngôi sao trên bầu trời Hội Thánh. Gioan luôn hạ mình xuống nhưng Giáo Hội vẫn hằng ngưỡng mộ người suốt dòng thời gian. Cuộc đời khiêm hạ của thánh nhân mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho bao thế hệ nối tiếp.

Lạy Chúa Giêsu,

Chiếc ly đời con chất chứa đầy tự mãn, kiêu căng, tham lam, ích kỷ và chúng con vẫn quyến luyến gắn bó với chúng cho đến mãn đời.

Xin thương giúp chúng con có đủ nghị lực và quyết tâm trút bỏ những thứ cặn bã đáng ghét đó đi cho tâm hồn được rỗng không.

Có làm được như thế, chúng con mới trở thành ống sáo rỗng để Chúa tấu lên những khúc hoan ca.

Chỉ khi đó, chúng con mới trở nên một chiếc ly, chiếc bình trống không để cho Chúa rót đầy tình yêu và ân sủng.[Mục Lục]

55. Suy niệm của Anmai, CSsR

CÓ MỘT VỊ ĐANG Ở GIỮA CÁC ÔNG MÀ CÁC ÔNG KHÔNG BIẾT!

Con người, khi sinh ra, cần phải học nhiều điều để biết cách hành xử trong cuộc sống hằng ngày. Cần thiết nhất con người cần có không phải là bằng này bằng nọ, cấp này cấp kia nhưng điều quan trọng đó chính là nhân bản. Dù cho làm ông này bà nọ, dù học cao hiểu rộng và dù cho có bao nhiêu bằng tiến sĩ đi chăng nữa nhưng không có nhân bản thì vẫn bị người ta coi thường. Một trong những bài học căn bản, nhân bản của con người đó là lòng biết ơn, đó là lòng tri ân. Khi nhận ơn mà không biết ghi ơn, không biết tri ân phải nói là quá tệ. Trong dòng chảy của con người, với lòng biết ơn, ghi ơn và tri ân Thiên Chúa đó chúng ta nhớ lại thái độ, tâm tình của Đức Maria. Sau khi đón nhận niềm vui lớn trong cuộc đời đó là cưu mang Đấng Cứu Thế, Mẹ Maria đã biết ơn, đã tri ân Thiên Chúa và bằng cách cụ thể nhất là Mẹ đã lên đường đến nhà bà chị họ Elisabeth để mà chia sẻ ân huệ mà Thiên Chúa đã thương ban cho Mẹ và khi gặp bà chị họ, Mẹ Maria đã không ngần ngại vang lên lời tán tụng Thiên Chúa. Lời tán tụng ấy chúng ta quá quen thuộc: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.” (Lc 1, 46-55).

Trở lại với những trang Thánh Kinh Cựu Ước, chúng ta cũng gặp đâu đó lời tán dương Thiên Chúa, lời tri ân Thiên Chúa vì biết bao nhiêu ân huệ mà Chúa thương ban cho mình. Hôm nay, qua sách ngôn sứ Isaia chúng ta nghe lời tán dương, lời tri ân ấy: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân”. (Is 61, 10-11)

Vì sao Isaia thốt lên lời ca ngợi như vậy? Vì lẽ Isaia đã cảm nhận, đã nói với dân về quyền năng, về vinh quang của Đức Chúa – Thiên Chúa của dân chiếu sáng trên dân: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”. (Is 60, 1-3).

Đức Trinh Nữ Maria cũng như Isaia, Mẹ đã cảm nhận cũng như xác tín rằng quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa đã đến và ở lại trên cuộc đời của Mẹ nên Mẹ đã cao rao tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời của Mẹ thôi.

Mẹ không như những người Do Thái đương thời, Mẹ khác họ, Mẹ nhìn, Mẹ đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian một cách khác họ. Những người Do Thái đương thời của Mẹ đón nhận, nhìn nhận Đấng Mêsia – Đấng Cứu Độ trần gian phải đến trong vinh quang hoành tráng, đến một cách uy lực và làm cho cuộc đời của họ vinh quang theo. Khi Đấng Mêsia đến sẽ giải thoát họ khỏi những khổ cực của vật chất, của tiền bạc theo kiểu trần gian. Vì họ quan niệm Đấng Mêsia đến cách thế như thế nên làm sao họ nhận ra được sự hiện diện của Đấng Cứu Độ đến được.

Như trang tin mừng ngắn ngủi mà chúng ta vừa nghe Thánh Gioan công bố đấy. Ông nói rõ rằng ông là người được Thiên Chúa sai đến để làm chứng, để minh chứng về ánh sáng đã đến trong trần gian này. Gioan đã làm chứng về ánh sáng, làm chứng về Đấng Mêsia. Và chúng ta thấy thái độ tranh cãi, nghi ngờ của những người thuộc nhóm Pharisêu. Chúng ta thấy thái độ chất vấn của những người Pharisêu và chúng ta thấy lộ bên dưới lời những chất vấn ấy là lòng cứng tin vào Đấng Cứu Độ trần gian. Không phải khi ấy người ta mới tranh cãi với Gioan nhưng mà ngay từ ngày Chúa Giêsu sinh ra nơi hang đá Belem họ đã ngờ vực, họ đã dò xét rồi.

Hôm nay, Gioan như là sứ giả của Thiên Chúa, dọn đường cho Chúa Giêsu đã công bố sự thật có Người sẽ đến sau ông và Người đến sau ông đấy ông không xứng đáng cởi quai dép cho Ngài. Đáng tiếc thay từ ngày Chúa Giêsu cất tiếng khóc chào đời cho đến ngày Chúa Giêsu công khai sứ vụ của mình vẫn bị người Do Thái không tin và tìm đủ mọi cách để mà sát hại, để mà tố cáo.

Chúng ta cũng thế thôi, nhiều lần nhiều lúc chúng ta cũng đi tìm Đấng Mêsia, tìm Đấng cứu độ trần gian của chúng ta là một Đấng đến trong vinh quang, đến trong quyền lực theo kiểu người đời vậy. Tệ hơn thế nữa đó chính là Thiên Chúa là Chúa, là Chủ của cuộc đời chúng ta vậy mà chúng ta nỡ lòng nào đẩy Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Chuyện quan trọng, chuyện căn cốt của cuộc đời chúng ta đó là chúng ta không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta như thánh Gioan Tẩy Giả cảnh báo chúng ta: Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết!

Tưởng chừng câu đó là câu mà Gioan nhắc nhở những người Do Thái ngày xưa nhưng nào ngờ Gioan nhắc nhở chính mỗi người chúng ta đây. Chúa ở trong ta, Chúa yêu thương ta, Chúa quan phòng cuộc đời ta mà ta không hay biết đó thôi. Chúng ta không giống Đức Maria, Đức Maria đã nhìn thấy tình thương và sự quan phòng của Chúa trên cuộc đời của Mẹ nên Mẹ chẳng còn bận tâm chuyện gì khác là lắng nghe và thực thi những gì mà Chúa nói với Mẹ. Hình như giữa cuộc đời phát triển nhiều về tiền bạc, về vật chất để rồi chúng ta cứ loay hoay mãi trong tiền bạc, trong vật chất, trong danh vọng và trong dục vọng. Tất cả những thứ làm cho chúng ta không còn nhận ra sự hiện diện của Chúa nữa.

Chúng ta nên nhớ Chúa đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta là Chúa vẫn hiện diện nơi những con người nghèo khổ, tất bạt, bất hạnh, bỏ rơi… Chúa vẫn dùng những biến cố mà đôi khi dưới con mắt người đời là khắc nghiệt để tỏ tình yêu thương, sự quan phòng của Chúa. Chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh của một Abraham phải đau lòng để mà sát tế đứa con yêu quý nhất của mình cho Thiên Chúa. Chúng ta còn nhớ hình ảnh của một ông Giob quá đớn đau với những chứng bệnh của thể xác, quá khắc nghiệt của cuộc đời chìm xuống bùn đen của sự chết chóc của con cái cũng như đàn gia súc mà ông đang có. Thế đấy! Thiên Chúa vẫn thử thách lòng tin của con người để xem con người còn tin Chúa hiện diện trên cuộc đời này hay không? Và qua cơn thử thách ấy, chúng ta thấy được ân huệ mà Chúa tuôn đổ trên cuộc đời của Abraham, của Giob như thế nào? Lửa thử vàng, gian nan thử sức! Đó là câu nói mà chúng ta vẫn thường nghe và vẫn thường nói với nhau. Ấy vậy mà đôi khi Chúa mới thử chúng ta một chút thôi thì chúng ta lại ngã lòng và chúng ta hình như không còn tin vào Chúa nữa, chúng ta lại đi tìm đến các thần ngoại bang như dân Do Thái ngày xưa vậy.

Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi cho giáo đoàn Thessalônia thật là hay. Ngài bảo giáo đoàn cũng như ngài bảo mỗi người chúng ta là: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giêsu. (1 Thes 5, 18.19). Phải nói đây là tâm tình tuyệt vời của Thánh Phaolô: Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Đúng như tâm tình của Đức Maria, trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, dù vui dù buồn, dù sướng dù khổ Mẹ luôn luôn vui mừng, Mẹ luôn luôn tạ ơn Chúa và kết hiệp mật thiết với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Đây là tâm tình, đây là mẫu gương mà mỗi người chúng ta cần học và noi gương Mẹ vì thật ra chúng ta thấy đó. Nhìn lên với cuộc đời này thì chúng ta thấy chúng ta không bằng ai nhưng nhìn xuống chúng ta được Thiên Chúa ban cho quá nhiều ơn lành để rồi tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Ngài cũng không quên xin ơn Chúa để mà Chúa thánh hoá con người chúng ta “Nguyện xin chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó. (1 Thes 5, 23.24.).

Ngài dặn dò mỗi người chúng ta là cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa và rồi Ngài cũng mời gọi mỗi người chúng ta nhờ ơn Chúa xin Chúa giữ gìn chúng ta được vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Chúa đến.

Như Đức Trinh Nữ Maria, như ngôn sứ Isaia cảm nhận được Thiên Chúa Đấng Cứu Độ thương mình thì mình sẽ chỉ biết ca tụng Chúa và tin tưởng Chúa mà thôi.

Hôm nay, như là cơ hội để chúng ta dừng lại, nhìn lại cuộc đời của mình. Nếu không được, chúng ta xin Mẹ ban thêm ơn, giúp sức cho chúng ta để chúng ta khám phá ra rằng Thiên Chúa đã quá yêu thương ta. Từ sự khám phá đó ta sẽ ca tụng Chúa và ta sẽ sống sao cho đẹp lòng Chúa.

Như Đức Trinh Nữ Maria, khi có ơn Chúa thì Mẹ đi chia sẻ, chúng ta có ơn rồi chúng ta có biết chia sẻ như Mẹ hay không?

Như ngôn sứ Isaia nói ở bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe: “Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA” (Is 61, 1-2a). Chúng ta được Thần Khí của Đức Chúa ngự trên chúng ta, được Ngài tấn phong chúng ta cũng phải lên đường để loan báo tin mừng Tình yêu cho anh chị em đồng loại như Đức Trinh Nữ Maria đi chia sẻ niềm vui cho bà chị họ trong lúc sinh nở khó khăn.

Nguyện xin Chúa Giêsu đến và ở lại với mỗi người chúng ta và ban ơn cho chúng ta để chúng ta nhận ra tình yêu Chúa trên cuộc đời chúng ta như Mẹ nhận ra tình yêu của Chúa vậy. Và cũng xin Chúa ban thêm ơn, ban thêm sức cho chúng ta để chúng ta công bố tin mừng Tình yêu của Chúa giữa cuộc đời đầy gian lao khốn khó này.[Mục Lục]

56. Nghề của tôi

Cách đây ít năm, một người làm nghề hốt rác tại thành phố Dallas, thuộc bang Texas, đã được dân chúng tuyên dương. Mười bảy cư dân đã viết thư cho ông giám đốc sở vệ sinh công cộng để ca ngợi nụ cười đầm ấm, thân hữu và lịch thiệp của bác Cummings, người hốt rác của họ:

– Chúng tôi sống trên con đường này công nhận bác là một Kitô hữu trung kiên, một công dân yêu nước và một người bạn chân tình. Bác đã giúp họ mua hàng, trả lại cho họ những vật họ đánh rơi ngoài đường hay vì lầm lẫn mà vứt đi.

Và ông giám đốc đã gửi cho bác một bức thư với những lời lẽ như sau:

– Chúng tôi tin rằng người ta có thể hoàn thành những công việc phi thường trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, không kể gì đến địa vị hay trách nhiệm. Việc làm của bác đã cho thấy ý nghĩa thực sự của niềm tin ấy.

Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay, người ta đã hỏi Gioan Tiền hô:

– Ông có phải là Đức Kitô hay không?

Họ không cần biết tên tuổi hay lý lịch của ông, họ chỉ muốn biết việc ông làm, chức vụ ông giữ và nghề nghiệp ông sống. Và rồi Gioan đã xác quyết với họ:

– Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa đến.

Nghề nghiệp của ông đó chính là loan báo, giới thiệu Đức Kitô. Chính ông đã nói cho thế giới biết rằng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại. Và Gioan đã dành tất cả cho nghề nghiệp của ông. Ông đã thực hiện mọi cố gắng, chấp nhận mọi hy sinh để loan báo Đức Kitô. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì?

Thật đơn giản, đó là mỗi người trong chúng ta đều có một nghề trong nước trời. Nói cách khác, mỗi người chúng ta đều có một cái gì quan trọng cần phải làm cho gia đình nhân loại. Nghề nghiệp của chúng ta đều quan trọng, mặc dù công việc của chúng ta có nhỏ bé và khiêm tốn. Bác hốt rác đã ý thức điều đó. Bác đã thực hiện hết mình cái nghề hốt rác của bác.

Tất cả chúng ta cũng cần phải ý thức rằng: Mỗi nghề nghiệp trên trần gian đều đáng quý trọng. Cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán, nếu xã hội chỉ gồm toàn những người đứng đầu mà không có cấp dưới, toàn là giám đốc mà chẳng có nhân viên, toàn là cấp tướng mà chẳng có binh lính, toàn là những nhân vật nổi tiếng mà chẳng có kẻ âm thầm làm việc.

Tuy nhiên, đôi lúc húng ta đã than phiền:

– Tôi chỉ là một người nội trợ, suốt ngày làm những việc vặt vãnh như thổi cơm, quét nhà, giặt quần áo… Hay tôi chỉ là bác nông phu, suốt ngày đổ mồ hôi trên miếng ruộng thần nông…

Chúng ta thử phác họa xem một cuộc sống, mà không có những người làm những công việc tầm thường đó sẽ như thế nào. Mọi nghề đều đáng quí đáng trọng. Không có nghề nghiệp nào xấu mà chỉ có con người xấu mà thôi. Nghề nghiệp không phải chỉ quan trọng đối với nhân loại mà còn quan trọng cả trước mặt Thiên Chúa.

Khi chuẩn bị đón mừng Chúa đến, chúng ta hãy nhớ lại rằng: Hài nhi Giêsu đã lớn lên và trở thành một bác phó mộc. Ngài không bao giờ nhàm chán cái cưa, cái búa, cái đục. Ngài hân hoan làm công việc Chúa Cha đã trao phó: cưa một khúc cây hay chết trên một khúc cây khác để cứu chuộc mọi người…

Chúng ta cũng vậy, bằng cách chu toàn bổn phận nghề nghiệp của đấng bậc mình, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vinh quang cho cuộc sống hiện tại cũng như cho cuộc sống mai hậu sau này.[Mục Lục]

57. Gioan

Như chúng ta đã biết Gioan mở mắt chào đời đã được Chúa trao cho một sứ mạng, đó là giới thiệu Chúa cho đồng bào của mình, và làm chứng Ngài chính là Con Chiên vô tội, đã gánh lấy những lầm lỗi của loài người.

Sứ mạng này, Gioan đã làm đầy đủ và hễ có dịp Gioan liền chỉ cho công chúng biết Đức Kitô. Khi thấy mọi người vây quanh mình và tưởng rằng mình là Đấng Cứu Thế, Gioan liền mạnh dạn cải chính, mặc dù đến sau nhưng Chúa Giêsu vẫn cao trọng hơn nhiều, mình chẳng xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Chúa.

Khi Chúa đến xin ông làm phép rửa, ông đã nhìn thấy trời mở ra và chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần đỗ xuống trên đầu và từ trời cao có tiếng phán:

– Này là Con Ta rất yêu dấu.

Đồng thời Gioan còn có nhiệm vụ bảo dân phải sửa đường cho Chúa đến, nơi cao phải bạt xuống, chỗ trũng phải lấp cho đầy, đường gập ghềnh quanh co phải uốn cho thẳng.

Với người quyền thế, Gioan vẫn mạnh dạn nói lên sự thực, chẳng hạn với Hêrôđê, Gioan đã can ngăn:

– Vua không được cướp vợ của em mình.

Bổn phận làm chứng cho Chúa cũng là bổn phận của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Nhìn vào giòng lịch sử chúng ta cũng thấy được như vậy.

Trước hết là các Tông đồ.

Tuân theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã đi khắp thế gian giảng dạy và làm chứng về Ngài. Mặc dầu biết trước sẽ gặp phải nhiều khó khăn và chống đối, nhưng các ông vẫn cứ ra đi, để rồi đã bị bắt bớ, cầm tù và sau cùng đã lấy mạng sống của mình để làm chứng tá cho Tin Mừng Phúc âm.

Thánh Giacôbê thì bị đưa lên nóc đền thờ và bị xô xuống cho chết. Thánh Bartôlômêô thì bị lột da sống, thánh Andrê và Phêrô thì bị đóng đinh ngược, duy chỉ có thánh Gioan là đã chết già tại Công đồng Ephêsô mà thôi.

Tiếp đến là Giáo hội.

Giáo hội nối tiếp các Tông đồ. Trong số 33 vị Giáo Hoàng đầu tiên, thì đã có tới 30 vị bị giết. Rồi trong 4 thế kỷ đầu, các tín hữu đã gặp phải những cơn bách hại khủng khiếp. Nhưng các ngài đã anh dũng tuyên xưng đức tin của mình để làm chứng cho Chúa.

Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy.

Chúng ta không phải chỉ làm chứng cho Chúa bằng lời nói mà còn phải làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Bởi vì chính gương sáng của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn và hấp dẫn những người khác trở về cùng Chúa, như người xưa đã nói:

– Lời nói như gió lung lay,

Việc làm như tay lôi kéo.

Ngày kia vua Tấn văn Công đi săn và bị lạc ở trong rừng, may thay gặp một người câu cá tên là Ích Ngư, vua nói:

– Ta đây là vua, chú đưa ta ra, ta sẽ ban thưởng.

Người câu cá hèn hạ nói:

– Nếu được phép thì tôi xin hỏi một đôi lời.

Nhà vua bằng lòng. Người câu cá bèn nói tiếp:

– Chim hồng sống ở bờ biển, chán biển đến sống ở chỗ ao tù sẽ sa vào bẫy. Ba ba sống ở đáy vực sâu, chán vực sâu lên sống ở bãi sẽ bị chài lưới. Nhà vua ở đền sao lại đi săn và lạc vào rừng sâu thế này.

Nhà vua khen:

– Chú nói hay quá.

Sau đó, nhà vua bảo người tùy tùng ghi địa chỉ để khi về sẽ gửi quà tặng. Người câu cá bèn trả lời:

– Đức vua ghi địa chỉ làm chi. Xin đức vua hãy tôn kính trời đất, bảo vệ bờ cõi, thương yêu dân chúng là tức khắc bầy tôi này đã được trọng thưởng. Bằng không thì dù nhà vua có ban phần thưởng thế nào, bày tôi cũng sẽ không thể an tâm mà hưởng dùng.

Cũng vậy, mỗi người chúng ta hãy lo sống đạo và chu toàn bổn phận của mình, thì dù không giảng giải, không nói năng, chúng ta cũng đã làm chứng cho Chúa.

Bởi vì, đời sống đạo đức của chúng ta chính là một thứ ánh sáng chiếu tỏa, để những người chung quanh sẽ nhận biết Chúa.[Mục Lục]

58. Hãy vui lên

“Khi vui non nước cùng vui. Khi buồn sáo thổi kèn đôi cũng buồn”, “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cuộc đời giống như một tấm gương: mỉm cười với nó, nó sẽ mỉm cười lại; gắt gỏng với nó, nó sẽ hung bạo. Hãy thử đứng trước một cái gương, sẽ thấy: mỉm cười đáp lại mỉm cười, nhăn nhó đáp lại nhăn nhó. Trước cuộc đời cũng thế: tôi sống làm sao cuộc đời sẽ như vậy. Nếu tôi đón nhận những điều bất ngờ với một nụ cười, nó sẽ đáp lại tôi bằng một nụ cười. Nếu tôi đến với nó với bộ mặt cầu nhàu, nó sẽ đến cùng tôi với sát khí đằng đằng.

Ngày nay, người ta thường đề cập đến hai tiếng “bi quan”“lạc quan”. Người bi quan là người tỏ vẻ buồn rầu khi nhìn thấy ly rượu đã vơi mất một nửa. Trái lại, người lạc quan là người tỏ vẻ vui mừng hay bình thản khi nhìn thấy ly rượu vẫn còn một nửa. Vậy Kinh thánh của chúng ta bi quan hay lạc quan? Xét về một phương diện. Kinh thánh rất bi quan, bởi vì Kinh thánh có chứa đựng những lời lẽ thật đau xót về những nỗi khổ tâm mà con người đã gây nên cho nhau. Kinh thánh đã nói rõ rằng: con người sống trong một thế giới đầy dẫy tội lỗi và đã gây nên biết bao điều ngang trái cho đồng loại. Nhưng nếu xét về một phương diện khác, thì Kinh thánh lại rất lạc quan. Kinh thánh đã từng đề cập đến một thời gian mà con người trông đợi, lúc mà mọi sự sẽ được điều chỉnh lại và được đổi mới hoàn toàn, lúc mà Thiên Chúa sẽ trở nên mọi sự cho mọi người.

Cụ thể như các đoạn Kinh thánh của Chúa nhật hôm nay: ngôn sứ Isaia đã loan báo về Đấng Cứu thế và những công việc tràn đầy an ủi, phấn khởi. Thánh Phaolô đã khích lệ mọi người: Hãy vui lên. Trong bài Tin mừng, thánh Gioan đã bảo đảm cho mọi người sẽ được hưởng niềm vui ấy. Vì thế, Chúa nhật hôm nay thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui và khích lệ chúng ta hãy vui lên. Niềm vui đó là Chúa đã gần đến, sắp đến rồi, chúng ta hãy vui lên. Ngài sẽ đem đến cho chúng ta một niềm vui vĩ đại: biết Ngài là Đấng Cứu thế, là Con Thiên Chúa – được sống trong cộng đồng Giáo Hội – được hưởng các ân sủng, và nhất là được Chúa ban phúc bình an vĩnh viễn trong Nước Trời. Đó là niềm vui chính yếu, niềm vui thâm trầm của những người thấu hiểu ý nghĩa cuộc đời.

Chúa Giêsu là niềm vui; và những lời Ngài giảng dạy là những tin vui. Vì thế, đạo của chúng ta là đạo Tin Mừng. Hai chữ “Tin Mừng “ ấy sẽ trở thành trống rỗng và vô nghĩa nếu cuộc sống của người tín hữu không sống trong niềm vui và thể hiện Tin mừng. Như thế, chúng ta không thể loan báo hay chia sẻ Tin mừng cho người khác.

Vào khoảng thập niên 60, một số người chuyên nghiên cứu về tâm lý quần chúng tại Hoa kỳ đã làm một cuộc thăm dò độc đáo. Đó là xem thử có bao nhiêu người nhặt được ví và đem trả lại. Nhóm nghiên cứu đã chọn một khu phố để làm việc. Họ cho rải những chiếc ví dọc theo các đường phố. Chỉ vài ngày sau, họ nhận thấy hơn nửa số ví được mang trả lại. Nhưng tỉ lệ này chỉ kéo dài tới ngày bào huynh của cố tổng thống Kenneđy là Rô-bóc Kenneđy bị ám sát. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng trong ngày hôm đó, không một cái ví nào được đem trả lại. Họ đi đến kết luận: những tin buồn có ảnh hưởng sâu đậm đến con người và đời sống xã hội của con người.

Chúng ta không hoàn toàn nhất trí với kết luận đó, nhưng chúng ta có thể suy luận thêm: khi nghe một tin mừng, con người cảm thấy phấn khởi và mau mắn để thi hành điều thiện. Trái lại, khi nghe tin buồn, thì con người dễ bị cám dỗ chán nản, và từ đó trách nhiệm trong lãnh vực luân lý cũng bị giảm sút.

Chúng ta đang đứng trước một thách đố lớn. Cuộc sống xã hội chung quanh chúng ta là cả một hãng thông tấn chỉ tung ra những tin buồn. Qua các phương tiện truyền thông xã hội; báo chí, truyền thanh, truyền hình… đầy dẫy những tin buồn: tin buồn của dối trá lường gạt; tin buồn của phản bội xâu xé nhau; tin buồn của buông xuôi bỏ cuộc; tin buồn của không biết bao nhiêu đói khổ, chiến tranh, thiên tai, chết chóc…

Vì thế, chúng ta phải là những người loan báo Tin mừng và đem lại niềm vui. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của thất vọng, chúng ta sẽ loan báo tin mừng của hân hoan, phó thác. Giữa một xã hội chỉ có tin buồn của dối trá, lường gạt, chúng ta phải loan báo tin mừng của lòng chân thật, vị tha. Giữa một xã hội chỉ loan báo tin buồn của ích kỷ, nhỏ nhen, chúng ta loan báo tin mừng của quảng đại, yêu thương, tha thứ và cảm thông. Nếu chúng ta biết sống theo tinh thần trên đây, chúng ta sẽ thấy đời mình có ý nghĩa và gieo rắc những hạt giống của niềm vui ra chung quanh trên mọi nẻo đường đời. Và cho dù hầu hết các hạt giống đó có mục nát đi, tôi vẫn tin rằng thế nào cũng có ít nhất một hạt nẩy mầm lên cây, và nó sẽ đâm bông kết trái làm thơm tâm hồn chúng ta.

Chúng ta hãy nhớ một câu trong một bản nhạc rất hay của ông Bách, một nhạc sĩ nổi tiếng: ”Lạy Chúa Giêsu, xin cho niềm vui của con luôn tồn tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác”.[Mục Lục]

59. Những lời chứng

Thánh Gioan Tẩy giả đóng một vai trò trung tâm trong việc Đấng Cứu Độ sẽ đến. Theo bài Tin mừng hôm nay, vai trò của ngài là “chứng nhân để nói về ánh sáng”. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu.

Thánh Gioan đã chứng tỏ mình là một chứng nhân can đảm và có hiệu quả. Ngài có nhân cách mạnh mẽ và là người sống theo nguyên tắc. Ngài không sống theo một lối sống thoải mái, không sống trong cung điện, nhưng sống nơi sa mạc. Lối sống của ngài, cũng như sự chính trực của cá nhân ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài. Ngài là một gương mẫu sống động cho điều mà ngài rao giảng. Và khi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình, ngài bước sang một bên để nhường lối cho Đức Giêsu.

Đức Giêsu vẫn cần đến những lời chứng. May thay, vẫn còn những người trung thành làm chứng cho Người, và coi bản thân mình như không có giá trị gì.

Một vị linh mục nói với tôi về cuộc thăm viếng của ông tại Trung quốc cách đây vài năm. Trong thời gian ở đó, ông đã gặp hai vợ chồng già, cả hai đều là bác sĩ. Họ học chung tại trường y, yêu nhau và kết hôn với nhau, bà là người Công giáo, còn ông thì ngoại đạo. Bà mong muốn thuyết phục ông nên gia nhập Giáo Hội, nhưng ông không muốn chịu phép rửa tội. Một thời gian ngắn sau, họ có một đứa con.

Suốt thời gian diễn ra một trong những phong trào chính trị ở Trung quốc, cùng với một số nhà trí thức khác, người chồng bị bắt đi làm việc trong quân đội. Sự xa cách gây ra rất nhiều khó khăn cho người vợ, do bà vừa phải cả ngày làm việc nhiều giờ tại bệnh viện, vừa phải làm ban đêm chăm sóc đứa con trai. Ngoài nỗi cô đơn ra, người vợ còn phải chịu sức ép từ phía chính phủ, hối thúc bà li dị với chồng và bỏ đạo, để đạt được những lợi thế về mặt chính trị. Nhưng bà đã từ chối. Mỗi đêm, sau khi trở về nhà, bà và con trai đều quì gối cầu nguyện, xin Thiên Chúa ban sức mạnh để chịu đựng những khó khăn.

Vào cuối thập niên 1970, bà nghe nói rằng chồng bà và một số nhà trí thức khác được phép trở về nhà. Khi đến ngày đó, bà và con trai ra sân ga, họ là những thành viên trong gia đình duy nhất có mặt ở sân ga để đón tiếp những người đàn ông, bởi vì tất cả những người phụ nữ khác đều đã li dị và tái kết hôn, do không chịu đựng được cảnh chia ly lâu dài. Do cảm động sâu sắc, chồng bà đã chịu đi học đạo và lãnh nhận phép rửa tội.

Người phụ nữ đó đã thực sự mang lời chứng cho ánh sáng, giống như thánh Gioan Tẩy giả đã thực hiện. Bây giờ, đến lượt chúng ta. Đối với nhiều người trong thế giới ngày nay, Đức Kitô đã trở nên một khuôn mặt rất mờ nhạt và xa cách. Những lời trong bài Tin mừng hôm nay đúng từng chữ một “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Đức Kitô vẫn còn cần đến những chứng nhân, đó là những người có thể làm cho Người hiện diện đối với người khác một cách có hiệu quả.

Chúng ta không thể làm chứng cho ánh sáng, nếu chúng ta sống trong tối tăm. Chúng ta phải sống trong ánh sáng. Một đời sống tốt đẹp là một lời chứng mạnh mẽ và có hiệu quả, và tự thân, đó là một lời loan báo Tin mừng. Khi người ta không còn thực hành đạo trong cuộc sống nữa, thì họ đã đánh mất đi một yếu tố quan trọng. Nhưng khi việc thực hành đạo đưa dẫn đến những hành động cụ thể, thì người ta đã thực hành được một lời chứng rất có hiệu quả. Không có một lời chứng nào đến được với những người cùng thời của chúng ta một cách đầy sức thuyết phục, cho bằng lời chứng của những người thực hiện những lời giảng dạy của Đức Giêsu.

Nếu không có lời chứng của các Kitô hữu, thì gương mặt của Đức Kitô, vốn đã bị mờ nhạt, sẽ tiếp tục lu mờ trong thế giới của chúng ta. Người sẽ tiếp tục ở giữa chúng ta, dù chúng ta không biết và không nhận ra, và tâm hồn con người vẫn sẽ bị tan nát, người ta sẽ còn bị cầm tù trong cảnh tối tăm, và Tin mừng sẽ không được rao giảng cho người nghèo.

Đây không phải là một trách nhiệm chỉ dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu nữa. Khi là thành viên của một cộng đồng nâng đỡ nhau, thì việc làm chứng cho Đức Kitô sẽ dễ dàng hơn.[Mục Lục]

60. Ẩn mặt

Thánh Gioan Tẩy giả nói với dân chúng “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Vị mà ngài đang nói đến chính là Đức Giêsu Thiên Chúa thường được ám chỉ như là một Thiên Chúa “ẩn mặt”. Về phương diện này, có thể so sánh Thiên Chúa như một người viết tiểu sử. Công việc của người viết tiểu sử là tránh mặt trong khi kể chuyện. Một người viết tiểu sử giỏi luôn sẵn sàng có mặt ở bất cứ chỗ nào, nhưng không ai nhìn thấy họ cả. Thiên Chúa hiện diện ở tất cả mọi nơi trong các tạo vật của Người, nhưng không ai nhìn thấy Người.

Có câu chuyện về một người đàn ông kia khi trở về nhà, anh phát hiện ra đứa con gái bé bỏng của anh đang khóc rống lên. Anh hỏi cháu bé về chuyện gì xảy ra. Cháu bé nói rằng cháu đang chơi trò chơi trốn tìm với các bạn của cháu. Nhưng khi đến phiên cháu đi trốn, cháu bé đã trốn quá kỹ, đến nỗi các bạn của cháu đã bỏ đi chơi trò khác, không chịu tìm kiếm cháu nữa. Cháu bé cứ chờ đợi các bạn tìm thấy mình, nhưng chúng không thể nào làm được như vậy. Cuối cùng, khi đi ra khỏi chỗ ẩn núp, thì cháu bé phát hiện ra rằng chỉ còn có một mình cháu thôi.

Đôi khi, có lẽ Thiên Chúa cảm thấy cô độc. Người đã tự trú ẩn trong các tạo vật của Người một cách quá tài tình, đến nỗi một số người không thể tìm thấy Người. Và cuối cùng, họ đã bỏ không tìm kiếm Người nữa, rồi rẽ sang các hướng khác.

Cuối cùng, khi Con của Người đến thế gian này, hầu hết cuộc đời của Người đều không được người ta nhận ra. Ngay cả khi Người xuất hiện ở nơi công cộng, không phải tất cả mọi người đều tin tưởng nơi Người. Và thánh Gioan tẩy giả đã nói “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết – một Đấng đến sau tôi”. Và trong phần mở đầu cuốn sách Tin mừng của mình, thánh sử Gioan đã nói một cách buồn rầu “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.

Ở đây, khi ngày Giáng sinh đến hỗ trợ chúng ta, trong ngày đó, chúng ta cảm thấy lòng đầy thắc mắc về sự gần gũi của Thiên Chúa. Trong biến cố Nhập Thể, Thiên Chúa ẩn náu một cách tài tình, và được mặc khải một cách hoàn hảo. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đến với chúng ta, mặc lấy thân phận nhân loại của chúng ta. Khi thấy Người là thấy Chúa Cha.

Trước khi Đức Giêsu đến, người ta coi như Thiên Chúa là Đấng xa cách và tách biệt của con người, không thể quan tâm gì đến chúng ta và những nỗi đau khổ của chúng ta. Tệ hơn nữa, người ta còn nhìn vào Người như một quan tòa hoặc một điệp viên, sẵn sàng vồ chụp và trừng phạt con người. Nhưng từ khi Đức Giêsu đến, chúng ta không còn nhìn vào Thiên Chúa như một người nào đó xa cách nữa, mà rất gần gũi với chúng ta, quan tâm đến mỗi người chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái của Người.

Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha như một người Cha đầy tình yêu, lòng thương xót và luôn sẵn sàng tha thứ. Đó là một Thiên Chúa không ở xa chúng ta, nhưng sống giữa chúng ta, và rất say mê quan tâm đến chúng ta. Mối quan tâm của Thiên Chúa không phải là phê phán và kết án, nhưng là chữa lành và cứu thoát. Đó là một Thiên Chúa đặc biệt gần gũi với những người yếu đuối, nghèo khổ và quá nặng gánh,

Thiên Chúa giống như một giòng suối ở bên chúng ta, mà chúng ta có thể say sưa uống lấy và làm cho bản thân mình được tươi mát. Nhận biết về Thiên Chúa theo cách thức này, là nguyên nhân đưa đến niềm vui lớn lao. Đây chính là niềm vui đã được loan báo cho các mục đồng trong ngày Chúa Giáng sinh, và bây giờ, cũng đang được loan báo cả cho chúng ta nữa.[Mục Lục]

61. Sứ giả tin mừng

Thuở nước Mỹ chưa có bưu điện và những phương tiện liên lạc tối tân, người ta tổ chức thành những trạm. Mỗi trạm cách nhau chừng 25 Km. Tại mỗi trạm lúc nào cũng có sẵn những con ngựa khỏe.

Những kỵ sĩ sẽ chở thư từ trên lưng ngựa. Họ phóng nước đại, chạy hết tốc lực từ trạm này tới trạm kia và ở đó họ sẽ thay ngựa, rồi lại tiếp tục lên đường. Mỗi ngày một người phải chạy chừng 100 cây số.

Bình thường họ phải đem theo hai cây súng để đề phòng mọi da đỏ. Họ chạy ngày và đêm, bất kể mọi thời tiết, để hoàn thành cuộc hành trình dài tới ba ngàn cây số trong vòng một tuần lễ hay mười ngày là cùng.

Việc hoàn thành mạng lưới điện thoại nối liền hai bờ biển đông và tây đã chấm dứt vai trò của những con ngựa tốc hành. Tuy nhiên, câu chuyện về những chàng kỵ sĩ gan dạ này vẫn còn làm cho chúng ta khâm phục.

Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy Thiên Chúa cũng đã sai phái vị sứ giả của Ngài đến với chúng ta và chuyển giao cho chúng ta một sứ điệp quan trọng, đó là hãy dọn đường Chúa đến.

Vị sứ giả đưa tin nàychính là Gioan Tiền hô. Ông đến để đem lại cho chúng ta tin vui về Đấng Cứu thế. Kể từ đó, hàng triệu người không phân biệt màu da và tiếng nói, thuộc đủ mọi dân tộc đã đi theo dấu chân của ông và đã trở nên những người đem tin mùng của Chúa. Họ loan báo và dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn mọi người.

Và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, đó là có những nhà truyền giáo đã đem chân lý của Chúa xuyên qua các núi đồi, các ghềnh thác, đến với những bộ lạc, những sắc dân còn man di mọi rợ.

Kể từ các tông đồ, biết bao nhiêu người đã rảo bước trên khắp mọi nẻo đường và đã có mặt khắp mọi nơi, từ thành thị đến những hang cùng ngõ hẻm. Và hơn thế nữa, còn dám hy sinh cả mạng sống để loan truyền cái tin quan trọng, đó là

– Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng ta.

Tin mừng sự sống này cần phải được loan báo, cần phải được đem đến cho từng người sống trên mặt đất.

Các nhà truyền giáo không thể hành động đơn độc. Trái lại, chúng ta phải cộng tác với họ trong khả năng và phạm vi của mình.

Có nhiều cách để thi hành điều đó. Chúng ta cộng tác bằng lời cầu nguyện, xin Chúa luôn nâng đỡ để công cuộc rao giảng Tin mừng của những nhà truyền giáo gặt hái được những thành quả tốt đẹp.

Chúng ta cộng tác bằng cách giúp tiền bạc vật chất để tài trợ, nhờ đó những nhà truyền giáo sẽ có được những phương tiện để họat động.

Chúng ta cộng tác bằng chính cuộc sống thường ngày của chúng ta. Thực vậy, cuộc sống thường ngày của chúng ta phải là một tin mừng. Mỗi lời nói, mỗi việc làm của bản thân, của gia đình, của giáo xứ chúng ta cũng phải là một tin mừng, bởi vì qua đó chúng ta nói cho mọi người biết được rằng:

– Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng ta.

Hãy sống thế nào để mỗi người chúng ta cũng trở nên một Gioan Tiền hô, một tông đồ nhiệt thành, đem Chúa đến cho những người chung quanh.[Mục Lục]

62. Chứng nhân

Gioan Tẩy giả là một nhân vật quan trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, vì ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện đời sống. Bài Tin Mừng cho chúng ta tấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô của ngài, đó là làm chứng cho Chúa Kitô, Ngài đã sống và chết cho vai trò chứng nhân của mình. Ngay những trang đầu tiên sách Tin Mừng của thánh Gioan Tông đồ đã cho chúng ta biết mục đích cuộc đời trần thế của Gioan Tẩy giả là làm chứng cho Đấng Cứu Thế: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng”. Sự sáng đây là Đấng Cứu Thế và Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành nhất, bất vụ lợi nhất, kiên trì nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đã làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng máu.

Gioan Tiền Hô đã làm chứng bằng lời nói: chúng ta biết vai trò hay sứ mạng của một ngôn sứ là phát loa, là thuyết giảng, là loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan Tiền Hô đã đóng vai trò đó, ngài đã nói những gì? Ngài bảo cho mọi người biết: “Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn bị đường đi cho Đấng Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đã có trước tôi, cao trọng hơn tôi nhiều, và tôi không đáng xách dép cho Ngài”. Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian”, nghĩa là đây là Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ là nạn nhân hiến tế để cứu chuộc mọi người. Bài Tin Mừng Gioan còn cho mọi người biết Chúa Giêsu là Đấng thánh hóa các linh hồn, Ngài sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa, đồng thời cũng là Đấng xét xử mọi người: thưởng phạt mỗi người tùy theo công nghiệp của họ. Tóm lại, như một người phát ngôn trung thành, Gioan loan báo cho mọi người biết: Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế.

Không những làm chứng bằng lời nói, Gioan còn làm chứng bằng hành động và gương sáng. Chúng ta biết Gioan là một người rao giảng đầy uy quyền, kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Lời giảng của ngài được mọi người đương thời chú ý, tại sao vậy? Bởi vì ngài chỉ nói sau khi đã làm hay đã sống, đã kinh nghiệm rồi mới nói, bí quyết thành công của ngài là làm rồi mới nói, hoặc nói và làm đi đôi với nhau. Thực vậy, ngài đã lấy cuộc đời khổ hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Giavê, ngài đã sống khó nghèo để làm chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Thi hành chức vụ tiền hô ngài cũng có một số môn đệ, nhưng ngài rất vui mừng nhường số môn đệ ấy cho Chúa Giêsu, không một chút ghen tương, không một chút luyến tiếc, bởi vì ngài biết Chúa Giêsu mới là vị tân lang của họ, còn ngài chỉ là bạn hữu đến sửa soạn tiệc cưới mà thôi. Nói rõ hơn, Gioan không thể kêu gọi người ta sám hối nếu ngài không sám hối trước, Gioan không thể kêu gọi người ta khiêm nhường nếu ngài không quên cái tôi của mình, Gioan không thể kêu gọi người ta thực hành bác ái nếu ngài không thực sự mến Chúa yêu người, Gioan không thể kêu gọi người ta hy sinh nếu ngài chưa sống khắc khổ và hy sinh vì người khác. Tóm lại, ngài được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là vì ngài chỉ nói những gì ngài đã sống, đã làm, đã kinh nghiệm: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, lời nói của Gioan đã làm chuyển biến lòng người, nhưng đời sống và gương sáng của ngài đã thuyết phục được mọi người.

Sau hết, bởi vì Gioan luôn sống với tư cách là chứng nhân của Đấng Cứu Thế, nên sau khi đã làm chứng cho Chúa bằng lời nói và hành động, ngài còn muốn làm chứng bằng chính máu của mình nữa. Ngài tố cáo cuộc hôn nhân bất chính của vua Hêrôđê với bà Hêrôđia, vợ của anh vua, nên ngài đã bị tống giam vào ngục. Bà Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở cho hành động ngang trái của bà, bà tìm cách giết cho được Gioan, chính vì thế mà trong bữa tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê, lợi dụng lúc ông đã ngà ngà say, bà xúi con gái là Salômê xin chiếc đầu của Gioan, vì Hêrôđê vui thú trước những điệu múa của Salômê và hứa cho cô bé bất cứ thứ gì dù là nửa nước. Thế là Gioan đã phải chết, ngài đã chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo lý bị chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của ngài. Cuộc đời chứng nhân của Gioan Tiền Hô là một bài học sáng giá cho chúng ta. Đời sống của một Kitô hữu phải bắt chước đời sống của ngài, là làm chứng nhân cho Chúa trong mọi hoàn cảnh: thuận cảnh cũng như nghịch cảnh. Hẳn là Chúa không đòi chúng ta phải sống khắc khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đòi chúng ta phải là chứng nhân, sống như Gioan trong đời sống hiện tại của mình, nghĩa là chúng ta phải là ánh sáng, là muối, là men của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy, như bông huệ giữa bụi gai, đặc biệt là sống anh hùng như ngài, ngài là một anh hùng của sự thật: suốt đời ngài chỉ sống theo sự thật và nói sự thật, điều gì có ngài chân nhận, điều gì không có ngài nói không. Chúng ta hãy kiểm điểm và suy nghĩ: chúng ta có bao giờ nói dối không? Chúng ta phải nhìn nhận rằng không những chúng ta có nói dối mà còn nói dối nhiều hơn nữa, rồi nhiều khi chúng ta còn ém nhẹm, giấu diếm, chua ngoa, thề thốt, phân bua cho là mình thật thà, thẳng thắn, vô vị lợi… để lấp đầy đi cái thiếu thành thật của mình. Nếu chúng ta đã sống như thế, chúng ta phải sửa lại, phải sống thành thật, có nói có, không nói không, đừng thêm thắt, bịa đặt. Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận, vì sự thật dễ mất lòng. Chúng ta phải sống thành thật, đó là điều tất nhiên, nhưng sống thật thà không có nghĩa là buộc chúng ta phải nói tất cả những gì mình nghĩ, mình biết, đức tính này buộc chúng ta suy nghĩ cẩn thận, chín chắn rồi hãy nói, mà đã nói thì không bao giờ nói sai, nói thừa nói thiếu, nói dối để khỏi gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin Chúa cho chúng ta quyết tâm sống được như thế luôn mãi.[Mục Lục]

63. Vui mừng

Chuyện kể về một ông vua đang băn khoăn bằng cách nào để có hạnh phúc. Nhà vua bèn mời một nhà khôn ngoan lại để bàn hỏi xem làm thế nào vứt bỏ được những lo âu buồn rầu đang đè nặng tâm trí ông đến nỗi phát bệnh. Làm thế nào để có hạnh phúc thực sự? Nhà thông thái trả lời: “Chỉ có một cách duy nhất để chữa nhà vua. Đó là nhà vua phải nằm ngủ một đêm trong cái áo của một người có hạnh phúc thực sự”.

Các sứ giả được sai đi khắp quốc gia để tìm kiếm một người thực sự đang hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào khi hỏi đến cũng có lý do để đau khổ buồn rầu. Một điều gì đó đã cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng họ tìm thấy một người, đúng hơn là một gã ăn xin. Hắn ngồi mỉm cười ở giữa chợ đời. Hắn tự xưng là người hạnh phúc thực sự, không có một mảy may gì buồn rầu lo âu. Người ta nói với hắn về điều nhà vua đang tìm kiếm. Nhà vua cần phải ngủ một đêm trong cái áo của người có hạnh phúc thực sự, và cho anh ta một số tiền rất lớn đền bù vào chiếc áo hạnh phúc đó.

Bạn nghĩ sao? Anh chàng ăn xin này có đồng ý bán chiếc áo của anh đang mặc cho nhà vua không? Các bạn có biết phản ứng của hắn ra sao không? Không nín được cười! Gã ăn xin bật cười lên hô hố mà rằng: “Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài lòng nhà vua được. Tôi chẳng có chiếc áo nào cả!” Người hạnh phúc nhất trên đời không có ngay cả một chiếc áo!

Trước Công Đồng Vaticanô II, Chúa nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay được gọi là “Gaudete Sundae”. “Gaudete” tiếng La tinh có nghĩa là “vui mừng”. Trong nhà thờ, đốt lên cây nến hồng ở Vòng Lá Mùa Vọng – Advent Wreath. Mầu hồng biểu tượng cho sự vui tươi, yêu đời và hy vọng, vì Thiên Chúa đã gần đến rồi!

Quả vậy, con người đã được Thiên Chúa tạo dựng nên là để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đời đời với Người. Vì thế, Pascal đã nói rằng: “Tất cả mọi người đều đi tìm kiếm hạnh phúc hết, ngay cả những người treo cổ tự tử”. Niềm vui và hạnh phúc là mục đích của con người sống trên trần đời. Nó cần thiết cho chúng ta như dưỡng khí cần cho tim phổi, lương thực cần cho thân xác. Tuy nhiên, càng tìm kiếm nó, nó lại càng vuột khỏi tay ta, như nước trôi qua các kẽ ngón tay. Ta nghĩ về hạnh phúc theo quan niệm của ta. Ta long đong vất vả đi tìm nó ở nơi ta muốn tìm, ở nơi nó không có.

Đi tìm hạnh phúc không đúng chỗ:

Trong “Tiếng Chim Ca” của cha Anthony de Mello có truyện “Tìm Sai Chỗ” được kể như sau. Một người thấy ông bạn láng giềng cứ lom khom cúi tìm mãi một cái gì dưới ánh đèn đường nên hỏi: “Ông bạn đang tìm gì vậy?” Người láng giềng trả lời: “Tôi tìm chìa khoá đánh rơi”. Thế rồi cả hai cùng chăm chú, lom khom tìm mãi. Một hồi lâu người này chợt nhận ra một điều gì nên hỏi người láng giềng: “Mà ông bạn đánh rơi nó ở đâu vậy?” “Ở trong nhà thì phải!” người láng giềng trả lời. “Nhưng tại sao ông bạn lại tìm ở đây?” “Vì ở đây có đèn đường sáng hơn!!!”

Chỗ ngã ba đèn đường chiếu sáng nhất mà người đời vẫn thường đến tìm kiếm hạnh phúc là “ngã ba chữ T”: tình, tiền, tài.

Có những bạn trẻ bước vào đời với lăng kính màu hồng, hăm hở tìm hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng của tình dục mà họ nghĩ là tình yêu, họ đồng ý với Xuân Diệu rằng: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt. Còn hơn le lói suốt trăm năm”.

Có người lao mình vào việc tìm kiếm tiền bạc bằng mọi cách. Họ bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh giành với người, để rồi cuối cùng như nhà thơ Quốc Nghệ đã diễn tả sự thật chua cay bằng những lời thơ châm biếm:

Bạc ác chi mi lắm rứa tiền,

Mi làm nhân loại hoá ra điên.

Mi tô mặt nạ đen ra trắng,

Mi xé ân tình thẳng hoá xiên.

Mi gác luân thường vào một xó,

Mi đưa nhân nghĩa xếp hai bên.

Mi làm nhân loại đua tranh mãi,

Bạc ác chi mi lắm rứa tiền?

Có người dùng tài ba để tìm kiếm công danh sự nghiệp hầu mang lại hạnh phúc. Thế nhưng danh vọng cũng kèm theo cuồng phong bão tố, nước mắt và đoạ đày, như Nguyễn Công Trứ đã cảm nghiệm: “Ra trường danh lợi vinh tiền nhục, vào cuộc trần ai khóc lẫn cười”.

Điều lầm lẫn lớn nhất của chúng ta là đã đồng hóa niềm vui hạnh phúc với khoái lạc thế trần, rồi đi tìm thỏa mãn nơi thể xác, vật chất và cuộc sống ở bên ngoài. Chúng ta có thể đạt được khoái lạc bằng dục vọng, danh tiếng và tiền bạc, nhưng tất cả những thứ này không thể nào mang lại cho con người niềm vui và hạnh phúc thật sự.[Mục Lục]

64. Vui mừng

Hạnh phúc ở đâu? Bài Phúc âm hôm nay, nói đến một nhân vật rất quan trọng nhưng khiêm tốn, dạy chúng ta cách đi tìm hạnh phúc đích thật. Đó là Gioan tẩy Giả: “Ông đến để làm chứng”, “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”. Gioan chối từ tất cả những tước hiệu được dân chúng gán cho mình. Đối với Gioan tẩy giả, hạnh phúc của ông là trở nên đầy tớ của Thiên Chúa, là con người giúp cho mọi người quy hướng về Thiên Chúa.

Trong bài đáp ca, Đức Maria cũng đóng vai trò này: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa… vì Chúa đã đoái nhìn phận hèn tớ nữ của Chúa”. Hạnh phúc của Đức Maria là được làm nữ tì của Thiên Chúa.

Sách Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Sự ao ước Thiên Chúa đã được ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì con người đã được sáng tạo bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người lại với Ngài, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm thấy chân lý và hạnh phúc mà con người không ngừng tìm kiếm”.

Công Đồng Vatican II cũng dạy: “Khía cạnh cao siêu nhất của phẩm chức con người là ở chỗ con người được ơn gọi hãy hiệp thông với Thiên Chúa. Lời mời gọi con người đối thoại đã được Thiên Chúa gửi tới con người từ khi có loài người. Bởi vì nếu có con người, thì cũng tại Thiên Chúa đã tác tạo nên con người vì tình yêu, và vì tình yêu, Ngài không ngừng ban cho con người hiện hữu. Và con người chỉ sống đầy đủ theo chân lý nếu con người tự do công nhận tình yêu này và phú mình cho Đấng tác tạo nên mình.

Linh mục Dominicô Đỗ Minh Trí trong cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi”, trang 41-44 đã kể câu chuyện “Con Mèo Già và Con Mèo Trẻ” với hai đề nghị về hạnh phúc như sau:

Một con mèo già, đầy kinh nghiệm và khôn ngoan thấy một con mèo trẻ, đang đuổi theo cái đuôi của chính nó. Tò mò, nó hỏi con mèo trẻ: “Này con, con làm gì vậy? Tại sao con lại đuổi theo cái đuôi của con như vậy?”Mèo trẻ trả lời: “Con nghe nói rằng cái tốt nhất đối với một con mèo là hạnh phúc và hạnh phúc của con mèo ở trong cái đuôi của nó. Vì vậy mà con đuổi theo cái đuôi của con. Khi nào con bắt được, con sẽ có hạnh phúc!”

Mèo già trả lời: “Này con, ta đã suy gẫm rất nhiều về vấn đề hạnh phúc. Và ta cũng đã đi đến kết luận rằng hạnh phúc của ta là ở trong cái đuôi của ta. Nhưng ta cũng nhận rằng mỗi khi ta đuổi theo cái đuôi, thì không thể nào ta bắt được. Trong khi đó, nếu ta làm một việc khác nhất là khi ta lo lắng cho con mèo khác, thì cái đuôi của ta đi theo ta bất cứ nơi đâu!”

  1. “Hạnh phúc ở trong cái đuôi của ta”, con mèo già nói: Cái đuôi ở đằng sau, con mèo không nhìn thấy được. Điều này diễn tả điều kiện đầu tiên của hạnh phúc: Không bao giờ nắm được. Hạnh phúc không phải là mục đích, mà là một kết quả! Đó là một thực tại đi theo một thực tại khác. Hạnh phúc là kết quả của tình thương yêu đối với loài người. Cái cần phải nhắm tới là tình thương yêu đối với đồng loại, hạnh phúc sẽ đi theo một cách tất yếu.
  2. Người ta tìm thấy hạnh phúc của chính mình khi làm việc vì hạnh phúc của người khác. Bằng cách tranh đấu cho sự an vui của đất nước mình hay giúp đỡ người đồng loại, giải quyết các vấn đề của họ. Lấy tình thương yêu đồng loại, tình thương yêu xã hội làm căn bản của cuộc sống của mình. Đặt cơ sở đời sống của mình trên tình thương yêu để nhìn các thiếu thốn của người khác như các thiếu thốn của chính mình, quyền lợi của người khác như quyền lợi của chính mình. Hãy thoát ra khỏi bản thân mình, thoát ra khỏi sự tìm kiếm hạnh phúc riêng tư của mình để làm việc vì hạnh phúc của người khác.

Hạnh phúc hay nguồn vui Kitô giáo đem lại khác xa với khoái lạc. Nó phong phú và sâu xa hơn cả nụ cười tươi nở trên một khuôn mặt vui vẻ. Nó đến từ bên trong, từ hành động phục vụ tha nhân và ý thức rằng Thiên Chúa hiện diện với chúng ta sẽ làm chúng ta hạnh phúc. Một sự bình an nội tại không có gì có thể lấy mất khỏi chúng ta. Phục vụ Thiên Chúa là cội nguồn của niềm vui Kitô giáo. Đó là tình trạng của ân sủng không vướng mắc tội lỗi. Chúa ở cùng ta, ta sống trong Chúa, như Đức Maria diễn đạt trong kinh Ngợi Khen ở bài đáp ca hôm nay: “Linh hồn tôi nhảy mừng trong Chúa”

“Lúc nào cũng lo tìm hạnh phúc, ta sẽ chẳng bao giờ thấy hạnh phúc.

Hạnh phúc phải được tạo thành thay vì tìm thấy”.

“Hạnh phúc không phải là cái bạn cầm trong tay, nhưng là cái bạn mang trong tim”.

“Muốn được hạnh phúc, đừng cộng thêm của cải, nhưng hãy trừ bớt ham muốn”.

(Định nghĩa Cuộc Đời của Trần văn Điền).[Mục Lục]

65. Hãy sửa đường… – Lm. Nguyễn Minh Hùng

“Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”. Thánh Gioan Tẩy giả tự trả lời về mình như thế cho những người Do-thái chất vấn ông.

“Tiếng kêu trong hoang địa”. Nói đến hoang địa là nói đến một môi trường chưa được sử dụng, chưa được khai phá. Môi trường đó còn âm u, đầy dẫy nguy hiểm. “Tiếng kêu trong hoang địa” là tiếng kêu giữa mênh mông, giữa những âm u nguy hiểm đó.

Nhưng dù nói là kêu trong hoang địa, và bản thân thánh Gioan đã từng sống trong hoang địa, nhưng ngài đã không hô to một lời nào trong suốt những năm tháng sống một mình ở nơi ấy. Ngược lại, bây giờ, để thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, thánh Gioan đã rời hoang địa, đi vào làng mạc và cất tiếng rao giảng kêu gọi lòng sám hối ăn năn. Hóa ra hoang địa nhưng không là hoang địa thiên nhiên, không là một môi trường nào đó mà thánh Gioan đã từng sống. Bởi thế, khi áp dụng hình ảnh tiếng kêu trong hoang địa của Ngôn Sứ I-sai-a đã loan báo trong Cựu Ước để nói về chính mình, điều mà thánh Gioan nhắm đến chính là tâm hồn con người. Nếu hoang địa là mênh mông, là âm u, nguy hiểm, thì hoang địa tâm hồn còn đáng sợ, và nguy hiểm hơn.

Cách đây vài năm, một lần kênh truyền hình HTV7 chiếu bộ phim Hòn Đá Lăn Tròn do Mê-hi-cô sản xuất. Có thể nói nhân vật chính trong phim, luật sư Prado, là đại diện của một thứ hoang địa tâm hồn. Đúng là hòn đá lăn tròn. Địa vị, tiền bạc đã làm cho luật sư lăn theo nó quay tít như một hòn đá tuột dốc. Ông là kẻ kiêu căng, ích kỷ, tính toán và đầy tham vọng. Tất cả những tính xấu đó lớn trong ông đến nỗi biến ông thành một kẻ thủ đoạn không thể tả. Ông bất chấp tất cả dù người đó là vợ ông, con ông, quảng gia của ông, hoặc những người cùng làm việc với ông, miễn sao đạt được quyền cao chức trọn, đem lại danh vọng cho ông. Có những lần ông nhắc tới Chúa. Nhưng Chúa không còn ở trong tâm hồn ông nữa. Có nhắc tới Chúa chẳng qua chỉ là để ông gây lòng tin cho ai đó, để rồi biến Chúa trở thành phương tiện phục vụ chính ông, phục vụ con người đầy thủ đoạn của ông…

Cám dỗ của địa vị, tiền bạc đã làm cho mảnh đất tâm hồn trở thành hoang địa. Một thứ hoang địa mà ở phần cuối bộ phim, đã biến một luật sư như luật sư Prado uy quyền là thế, tiếng tăm là thế, đã từng được mọi người nể phục, vậy mà cuối cùng ông đã phải cô đơn đến mức tuyệt vọng. Ông đã muốn lấp đầy cho nỗi cô đơn, cho sự tuyệt vọng của mình bằng những tiếng hét, tiếng rú kinh hồn. Càng cố rú lên bao nhiêu, thì không chỉ tiếng rú, mà là cả con người ông, cả mạng sống của ông càng rơi vào mênh mông bao la bấy nhiêu.

Bạn có thấy, hoang địa tâm hồn thật nguy hiểm bởi nó chỉ toàn là hận thù, là thủ đoạn. Đã là hoang địa cho nên rất cần những “tiếng kêu trong hoang địa” giúp ta “sửa lại cho ngay đường Chúa đi”, nghĩa là chỉnh đốn tâm hồn mình. Sửa lại tâm hồn mình để ta trở thành người ngay chính, đừng như nhân vật Prado trong phim Hòn Đá Lăn Tròn, cứ mải miết chạy theo “cơm áo gạo tiền”. Tệ hại hơn, mãi chạy theo thủ đoạn để tìm danh vọng, tìm của cải, để thăng quan tiến chức, để làm giàu… mà quyên đi hay cố tình quên đi các bổn phận đạo đức, bổn phận Xưng Tội, Rước Lễ, nghe Lời Chúa…

Trên tất cả, bạn và tôi hãy khắc ghi lời thánh Gioan Tẩy Giả: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”. Đó là lời kêu gọi của một thời đã xa. Nhưng cũng là lời mà hôm nay thánh Gioan mời gọi “Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”, sửa cho ngay tâm hồn của bạn và cả tôi.[Mục Lục]

66. Lời chứng của ông Gioan – JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Thời nay, Thiên Chúa có cần người làm chứng cho Ngài không? Nếu Ngài cần và mời gọi bạn, bạn có sẵn sàng chấp nhận lời mời ấy không?
  2. Rao giảng và làm chứng có khác nhau không? Cái nào cần thiết hơn?
  3. Làm chứng có cần phải nói sự thật không? Có thể lấy cớ bảo vệ Giáo Hội, bảo vệ tôn giáo để làm chứng dối, để phản lại sự thật không? Tại sao?

CHIA SẺ

  1. Thiên Chúa cần người làm chứng cho Ngài

Qua bài Tin Mừng, ta thấy khi Đức Giêsu đến trần gian, Thiên Chúa cần một người làm chứng cho Con của Ngài, và người ấy là Gioan Tẩy giả. Ông này được kêu gọi để làm công việc ấy. Suốt lịch sử Giáo Hội, thời nào ta cũng thấy Thiên Chúa cần những người làm chứng cho Ngài, cho sự thật, cho công lý, và cho tình thương của Ngài. Có thể nói lịch sử của Giáo Hội là một lịch sử của “làm chứng” và “rao giảng”. Rao giảng là để giúp người ta hiểu, nắm vững, còn làm chứng là để giúp người ta tin.

Hiểu và tin là hai chuyện rất khác nhau. Nhiều người hiểu rất rõ mà vẫn không tin, chẳng hạn: nhiều người tìm hiểu Kitô giáo không phải để tin theo, mà để bài bác một cách “nói có sách, mách có chứng”. Ngay trong số những người rao giảng Tin Mừng, nhiều người có đời sống thực tế chứng tỏ rằng họ không tin, thậm chí không tin một chút nào điều họ vẫn rao giảng một cách thật hùng hồn, mạnh mẽ. Trường hợp đánh động nhất là trường hợp của Mahatma Gandhi, người giải phóng dân tộc Ấn Độ.

Gandhi rất hiểu, rất yêu mến, rất đồng cảm với Đức Giêsu, thậm chí ông còn sống tinh thần quên mình, từ bỏ và yêu thương của Đức Giêsu một cách gương mẫu (có thể hơn rất nhiều Kitô hữu), nhưng ông hoàn toàn không tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế. Ông đã lên tiếng có vẻ như thách thức người Kitô hữu, cụ thể là những người Anh đô hộ dân tộc ông: “Nếu những người Kitô hữu tại Ấn Độ thật sự sống đúng tinh thần của Đức Kitô, thì chẳng cần phải mất công rao giảng, toàn Ấn độ sẽ trở thành Kitô hữu hết”. Trước mắt ông, người Kitô hữu – cụ thể là người Anh – cũng tham lam, bất công và tàn bạo không kém gì những kẻ xâm lăng khác. Chắc hẳn ông đã từng tự hỏi: sự siêu việt của Kitô giáo – như các Kitô hữu thường tự hào – nằm ở đâu? Sự siêu việt đó chẳng lẽ chỉ có thể tin chứ không thể chứng tỏ cụ thể bằng thực tế hay bằng hành động được sao?

  1. Ngày nay, nhiều giáo hội rao giảng nhiều hơn làm chứng

Để được cứu rỗi, đức tin là một yếu tố tối cần thiết: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16; x. Cv 16,31; Rm 10,9). Nhưng làm sao tin được một chuyện mình không biết, không thấy, nếu không có ai nói cho biết. Nhưng làm sao tin được người nói cho biết ấy, nếu người ấy không có bằng chứng hay không có đủ uy tín để bảo đảm? Làm sao tin được người nói hay rao giảng thật là hay, nhưng đời sống hay việc làm của họ thì lại hoàn toàn đi ngược lại điều họ rao giảng?

Ngày xưa, thời Giáo Hội sơ khai, Kitô giáo lan truyền rất nhanh, vì thời ấy, các tông đồ làm chứng nhiều hơn là rao giảng. Còn ngày nay, Kitô giáo lan truyền rất chậm, rất nhiều nơi bị giảm sút, tại sao? Vì những người làm tông đồ ngày nay quá chú trọng tới rao giảng, mà coi rất nhẹ việc làm chứng! Đó là một sự thật mà người Kitô hữu cần nhận chân một lần cho sâu sắc, để chỉnh trang lại cách truyền giáo hay làm tông đồ của mình, đặc biệt nhân dịp kỷ niệm lần thứ 2002 ngày Đức Giêsu đến trần gian.

  1. Tại sao phải làm chứng? Để người ta tin

Ngày nay, để tìm hiểu Kitô giáo, người ta chỉ có cách là tìm hiểu trong sách vở, hoặc nghe một người Kitô hữu nào đó trình bày. Nhưng từ hiểu đến tin theo là cả một quá trình khó vượt qua nếu không có một động lực mạnh thúc đầy! Ngày nay, không còn có những nhân chứng đã tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu sống, nói, hành xử, làm phép lạ, chết và sống lại như thời Giáo Hội sơ khai nữa. Những chuyện kể về Đức Giêsu phần nào cũng tương tự như bao chuyện kể khác, về Lạc Long Quân, Thánh Gióng, Đức Phật, Đức Khổng, v.v… Làm sao người ta có thể tin vào Đức Giêsu nhiều hơn là tin vào các vị giáo chủ khác? Người thời nay chịu ảnh hưởng tinh thần khoa học thực nghiệm, lời nói suông không còn dễ dàng được nhận là đúng. Muốn họ tin hay chấp nhận phải có bằng chứng. Vì thế, làm tông đồ thời nay cần làm chứng hơn là rao giảng.

Rao giảng thì chỉ cần một mớ kiến thức, một chút suy luận; còn làm chứng đòi hỏi một sự dấn thân thật sự, nó huy động cả một cuộc đời, cuộc đời toàn diện. Rao giảng mà không làm chứng chỉ là nói lên những lời nói rẻ tiền, đương nhiên ít tác dụng. Còn làm chứng là nói lên những lời nói có giá trị sống động vì người nói dám lấy cả cuộc đời, cả mạng sống để bảo chứng cho lời nói ấy. Nhờ thế mà người nghe mới dám đặt niềm tin.

Những người ngoài Kitô giáo phải dựa vào đâu để biết Kitô giáo là chính đạo? để tin Đức Kitô là Đấng cứu độ, thậm chí là Đấng cứu độ duy nhất? Làm sao họ tin được, khi mà đời sống của người Kitô hữu chẳng khác gì và chẳng hơn gì của họ? khi mà người Kitô hữu chẳng chứng tỏ được một cách cụ thể mình đã được cứu độ ở chỗ nào? Nếu được cứu độ, ít ra người Kitô hữu chúng ta phải tự nhiên có một lối sống nào đó chứng tỏ mình được cứu độ, chẳng hạn người khác có thể thấy nơi chúng ta nét vui tươi, hạnh phúc và tình yêu thương nhau được biểu lộ hồn nhiên trong đời sống, bất chấp thuận cảnh hay nghịch cảnh. Sống như thế chính là làm chứng!

  1. Hãy xem Gioan Tẩy giả làm chứng thế nào

Chính vì nói thế nào sống như vậy, nên Gioan Tẩy giả đã thu hút được quần chúng đến với ông và làm theo những gì ông yêu cầu: “Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan” (Mc 1,5). Gioan là một khuôn mẫu điển hình cho hạng người làm chứng hơn rao giảng: “Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1,7). Còn giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái là điển hình cho hạng rao giảng hơn làm chứng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3). Điều đó được thể hiện qua một số chi tiết:.Gioan ăn mặc đơn giản: “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da” (Mc 1,6), khác hẳn với cách ăn mặc của các kinh sư: “đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài” (Mt 23,5); “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng” (Mc 12,38). Gioan sống khó nghèo, thanh đạm, “ăn châu chấu và mật ong rừng”, còn các kinh sư thì giàu sang phần nào nhờ “nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mt 23,14). Gioan thì khiêm nhường tự hạ: “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,27), còn các kinh sư thì thích tự đưa mình lên: “Họ thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” (Mc 12,38-39).

Ta thấy khi làm chứng, Gioan không màng tiếng khen, không tìm vinh quang cho mình, đang khi nhiều người mang danh làm chứng cho Thiên Chúa, nhưng thực tế là đang tự làm chứng cho mình, để mình được khen ngợi, vinh danh, hầu có quyền lực, tiền bạc địa vị… Nhưng điều quan trọng nhất của người làm chứng là phải dám nói sự thật.

  1. Người làm chứng phải dám nói sự thật

Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Ông không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ông không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi, nhưng ông lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ông không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.

Không thể lấy cớ bảo vệ tôn giáo để nói sai sự thật, để hùa theo những kẻ sai trái. Tôn giáo mà cần dối trá hay hùa theo quyền lực để tồn tại là thứ tôn giáo bỏ đi, không giá trị. Đức Giêsu không hề bảo vệ uy tín cho giới lãnh đạo tôn giáo khi họ vẫn ngoan cố với những điều sai trái (x. Mt 23). Gioan Tẩy Giả cũng không bảo vệ uy tín của nhà vua khi nhà vua cố tình làm điều sai trái (x. Mt 14,3-12). Chính vì thế, Gioan đã bị trảm quyết, còn Đức Giêsu đã bị coi là kẻ phá hoại tôn giáo! Ngài đã coi sự thật cao trọng hơn chính tôn giáo! Theo Ngài, bảo vệ sự thật mới chính là bảo vệ tôn giáo. Còn bảo vệ tôn giáo bằng cách nói sai sự thật, hay hùa theo quyền lực sai trái chính là phá hoại tôn giáo từ bản chất!

Khi ta làm chứng cho chân lý, chắc chắn sẽ có những người bạn khuyên ta: “Anh thật là dại dột, can gì phải làm cho người ta ghét mình như vậy?” Nói như thế, họ mặc nhiên cho rằng những người như Đức Giêsu hay Gioan Tẩy giả chính là phường dại dột! Thế mà họ vẫn tuyên xưng Đức Giêsu là Thầy của họ. Thật mâu thuẫn!

CẦU NGUYỆN

Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Thời nào cũng có vô số người sẵn sàng rao giảng sự thật, nhưng rất hiếm người sẵn sàng làm chứng cho sự thật. Nhưng sự thật chỉ có thể tin khi có người dám làm chứng. Làm chứng thì phải trả giá, đôi khi rất mắc. Con có sẵn sàng làm chứng không?”[Mục Lục]

67. Gặp Chúa ở đâu?

Chúa Nhật hôm nay được gọi là “Chúa Nhật Vui”. Đó là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Niềm vui này được tiên tri Isai, Đức Maria và thánh Phaolô diễn tả trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay. Thật vậy, còn niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui được cứu độ. Do đó, Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Anh em hãy vui lên trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên vì Chúa đã gần đến”. (Phil. 4, 5-5 – Ca nhập lễ).

Tuy nhiên, sự vui mừng và hy vọng này vẫn không trọn vẹn và có thể trở thành mây khói, nếu nhân loại không nhận ra Đấng Cứu Thế thực sự là ai và phải làm gì để gặp Ngài. Đó chính là lý do tại sao nhiều tổ chức đã cử người đến gặp Gioan để hiểu rõ và đúng về Đấng Cứu Thế. Qua cuộc đối thoại với họ, Gioan đã giúp họ tránh được những hiểu lầm, đồng thời giới thiệu cho họ Đấng Cứu Thế đích thực mà các tiên tri đã loan báo. Gioan nói rằng: Ông không phải là Đấng Cứu Thế họ đang mong đợi; nhưng Đấng Cứu Thế sẽ đến sau ông dù Ngài vẫn hiện diện từ muôn thủa; Đấng ấy rất quyền năng và cao sang, đến nỗi Gioan dù làm một tiên tri cũng không đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Ngài. Nhưng có điều lạ, là Đấng Cứu Thế cao cả đó lại đang ở giữa nhân loại mà nhân loại không nhận ra Ngài.

“Có Đấng ở giữa anh em mà anh em không biết”. Câu nói của Gioan cho thấy rằng, Đấng Cứu Thế đã thực sự giáng sinh làm người qua thân phận một bé thơ đơn sơ, yếu đuối, trong một gia đình nghèo nàn tại vùng quê Nagiarét. Chính Ngài đang chia sẻ kiếp phàm nhân qua các biến cố vui buồn của từng người. Do đó, nhân loại không thể phác vẽ Ngài như một vị tướng hùng mạnh bách chiến bách thắng, như một hoàng đế trên ngai báu với muôn ngàn kẻ hầu người hạ. Tạo ra một hình ảnh như thế về Đấng Cứu Thế, chúng ta sẽ thất vọng và chẳng bao giờ gặp được Ngài. Chính các nhà đạo sĩ đã cho chúng ta một bài học: các ông tưởng rằng Vị Vua của Do Thái đã hạ sinh tại hoàng cung, nên tìm đến vua Hêrôđê, nhưng các ông đã chỉ gặp được Ngài trong một căn nhà nhỏ bé nghèo nàn tại miền quê. Như vậy, theo sự loan báo của các tiên tri và sự hướng dẫn của Gioan, chúng ta chỉ gặp được Đấng Cứu Độ khi chúng ta biết trở về với cuộc sống đơn sơ nhỏ bé, khi biết gạt bỏ ra khỏi tâm hồn những ý nghĩ kiêu căng, những tư tưởng tự cao tự đại, đồng thời biết khám phá ra sự hiện diện của Ngài qua các biến cố hằng ngày và trong cuộc sống của tha nhân, nhất là cuộc sống của những anh em nghèo nàn khổ đau. Chính Đức Maria đã dạy chúng ta một bài học cụ thể trong kinh Ngợi Khen (Magnificat) qua phần đáp ca của thánh lễ hôm nay: Thiên Chúa chỉ nhìn đến những người nhỏ bé đơn sơ và cứu độ họ; còn người quyền quý kiêu căng, Chúa sẽ loại bỏ.

Như vậy niềm vui cứu độ chỉ có ý nghĩa và mang lại kết quả khi chúng ta biết tìm kiếm Đức Kitô bằng đời sống đơn sơ nhỏ bé. Ngược lại, với tâm hồn kiêu căng tự đắc, hoặc hình dung ra một Đấng Cứu Thế theo quan niệm nhân loại, chúng ta sẽ không bao giờ gặp được Ngài, dù Ngài đang ở giữa chúng ta, trong gia đình và xã hội chúng ta.[Mục Lục]

68. Tiếng kêu nơi sa mạc

Trước đây ít năm, tại Dallas, Texas có một nhân viên trong công ty đổ rác thành phố, được dân chúng ca tụng khắp các nẻo đường ông đi. Mười bảy người viết thư cho ông Giám Đốc vệ sinh công cộng Jach Davis, để ca ngợi người phu đổ rác George Cummings là một người hiền lành, niềm nở và lịch thiệp với hết mọi người. Họ còn viết quả quyết rằng: “Chúng tôi đều biết ông ta là một người Công Giáo đơn thành, một công dân ái quốc và là một người bạn thân tình”. Họ cũng nhắc lại việc Cummings đã giúp họ mua hoa khi có người hàng xóm qua đời, việc ông nhặt được một chiếc đồng hồ, rồi cố tìm ra chủ nhân để trao trả lại, hoặc một món đồ mà ông cho là chủ của nó vì lầm mà vứt đi, ông cũng tìm hết cách để hoàn lại.

Ông Giám Đốc Davis đã gởi cho Cummings bức thư với những hàng chữ này: “Mọi người đều mến chuộng ông, vì cách làm việc của ông thật đặc biệt”.

  1. GIOAN LÀM CHỨNG CHO CHÚA

Bài Tin Mừng hôm nay, cũng thuật truyện một người thật mộc mạc, chất phác quê mùa nghèo nàn, chay tịnh khổ hạnh như một ẩn sĩ từ rừng thẳm đi ra, nhưng lại được nhiều người mến chuộng đến nỗi, từng đoàn lũ đông đảo, gồm đủ mọi thành phần xã hội, từ khắp nơi tuôn đến, say mê nghe lời ông giảng, đấm ngực sám hối cải thiện và cúi đầu chịu Phép Rửa Sám Hối do tay ông tại sông Jordan.

Danh tiếng ông đồn thổi đến tai những vị vọng trong dân; do đó, các ngài đã sai các vị Tư Tế và các thầy Levi đến hỏi xem ông có phải là Đấng Kitô, Thiên Chúa sai đến, Đấng mà muôn dân đang mong đợi không?

Khi họ hỏi: “Ông là ai?” Ông đã thẳng thắn tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại nghi ông là đại tiên tri Elia, cũng được ông quả quyết: “Tôi không phải là Elia”. Sau cùng, họ lại nghĩ ông là một vị tiên tri Thiên Chúa sai đến, cũng được ông dứt khoát trả lời: “Tôi đâu có đáng là một tiên tri”.

Thế rồi họ năn nỉ ông: “Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời lại cho những người đã sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?”

Gioan khiêm tốn đáp lại: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay thẳng đường Chúa đi”. Câu trả lời khiêm tốn này, tuy vắn tắt nhưng đã nói lên tất cả sứ mạng của Gioan, là làm chứng nhân cho Chúa Kitô.

  1. LÀM CHỨNG CHO CHÚA CÁCH NÀO

Gioan là một vị tiên tri cao trọng và diễm phúc nhất trong các tiên tri từ trước đến nay, đã được Chúa tuyển chọn đặc biệt, được vui sướng nhảy mừng khi Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm, được thánh hóa ngay từ khi còn trong thai mẫu, để xứng đáng là vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế. Ngài được Thiên Chúa sai đến chuẩn bị cho Chúa Cứu Thế một dân tộc thánh thiện, bằng việc rao giảng Phép Rửa Sám Hối, kêu gọi mọi người cải thiện đời sống, để được xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế và Ơn Cứu Độ của Người.

Sứ mạng và địa vị của Gioan cao trọng đến nỗi, chính Chúa Kitô đã phải khen thưởng trước mặt mọi người: “Trong các nam nhân do phụ nữ sinh ra không một ai cao trọng hơn Gioan Tiền Hô” (Lc 7:28). Mặc dầu được vinh dự trước mọi người, được muôn người ngưỡng mộ, ngài không hề tự đắc kiêu căng; trái lại, ngài càng hạ mình xuống thẳm sâu trước nhan Thiên Chúa và trước mặt mọi người. Ngài đã công khai thú nhận địa vị thấp hèn của mình, khi đáp lại nhóm biệt phái được sai đến hỏi ngài: “Tôi đến làm Phép Rửa trong nước; nhưng ở giữa các ông có Đấng mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi, nhưng Ngài có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài”.

Lời rao giảng chân thành, đi đôi với cuộc sống khổ hạnh và khiêm nhu, đã đáng cho mọi người khâm phục và tin theo; bởi lẽ ngài luôn tôn cao Đấng ngài rao giảng, còn riêng bản thân ngài, ngài chỉ tự nhận thân phận tôi tá của Chúa, chỉ là người được sai đến để dọn đường cho Chúa.

Đời sống khiêm nhu thánh thiện đó, được chứa đựng tất cả ý nghĩa trong lời châm ngôn, chính Thánh Nhân đã tuyên bố trước mặt mọi người về Chúa Cứu Thế: “Người cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải hạ thấp xuống” (Ga 3:30).

III. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA LÀ GÌ

Cũng như Gioan, mỗi người chúng ta đều đã được Chúa tuyển chọn và ủy thác sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa Kitô, ngày chúng ta được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy. Cũng ngày đó, chúng ta được Thánh Thần Chúa xức dầu hoan lạc, ban cho chúng ta được diễm phúc trở nên con cái Chúa, phong chúng ta làm tiên tri và sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó, an ủi những tâm hồn đau thương buồn tủi, thăm viếng những tù nhân trong ngục thất, giúp đỡ chia sẻ với những người cùng khổ, những người mang số phận hẩm hiu bị đời quên lãng.

Mỗi người trong chúng ta tùy theo địa vị, chức phận mình trong xã hội, đều phải làm chứng nhân cho Chúa, rao giảng Chúa Kitô bằng chính đời sống thánh thiện gương mẫu của mình.

Để chu toàn sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa, chúng ta cũng không thể dùng phương thế nào khác, ngoài phương thế Thánh Gioan Tiền Hô đã dùng, là luôn đề cao Đấng mình rao giảng: “Người cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải hạ xuống”. Chúng ta cần phải đi ngược lại tâm tính tự nhiên của con người là kiêu căng, luôn thích đưa mình lên trên mọi người, đã bị lưu truyền do nguyên tội, vì: “Chúa thường chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho kẻ khiêm hạ” (Gc 4,6), như chính lời Chúa Kitô đã dạy: “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14,11).

Lênin, ông tổ đảng cộng sản quốc tế, chủ trương chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, với tham vọng sẽ bá chủ hoàn cần, tiêu diệt mọi thứ tôn giáo mà ông cho là “Một thứ á phiện nguy hiểm” do bọn tư bản tạo ra. Mộng ước ngông cuồng của ông đã chẳng bao giờ thực hiện được. Lòng kiêu căng phạm thượng của ông thấu đến trời cao, đã bị uy quyền Thiên Chúa hủy diệt. Ông đã chết trong cơn hấp hối kinh hoàng, đau đớn dằm vặt đến tột độ, như chính lời Trosky, một người bạn thân tín của ông đã chứng kiến cảnh hấp hối hãi hùng đó đã quả quyết: “Nếu bọn ác quỉ có thể chết, thì tôi thiết tưởng: Chúng cũng chỉ chết cách ghê sợ đến thế là cùng!”

Kết Luận

Để dọn lòng xứng đáng đón mừng ngày kỷ niệm Chúa Giáng Sinh, chúng ta hãy thực thi sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa Kitô, bằng lời rao giảng sống động qua chính đời sống khiêm nhu thánh thiện của chúng ta, như Thánh Gioan Tiền Hô đã làm gương: “Chúa cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải được hạ xuống” (Ga 3:30).

Hoặc như người phu đổ rác George Cummings Dalas luôn làm vừa lòng mọi người, để mọi người phải thán phục quả quyết về ông: “Chúng tôi biết ông ta là một người Công Giáo đơn sơ, một công dân ái quốc, và là một người bạn thân tình”. Lại được ông Giám Đốc công ty vệ sinh công cộng để lời khen tặng: “Mọi người đều mến chuộng ông vì cách làm việc của ông thật đặc biệt”.[Mục Lục]

69. Dấu chỉ Đấng Messia – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Nhân loại qua mọi thời đại luôn ngưỡng mộ những con người sống phục vụ, sống dấn thân vì lợi ích đồng loại, nhưng đáng tiếc lại rất ít người dám cúi mình phục vụ tha nhân. Bản tính con người thường ham sướng sợ khổ. Con người luôn thích lánh nặng tìm nhẹ. Người ta sợ hy sinh. Người ta tìm hưởng thụ và sự an nhàn cho bản thân nên có mấy ai dám hiến dâng cuộc đời cho hạnh phúc tha nhân.

Dầu vậy, thế giới ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay vẫn còn đó những con chim én đang tìm đàn để tạo nên muà xuân tô thắm cho nhân loại. Đâu đó vẫn còn đó những người đơn độc một mình nhặt những cái đinh đang rải rác trên đường do bọn đinh tặc mất tính người rải ra. Đâu đó vẫn còn đó những người đang âm thầm đi đến phục vụ những bệnh nhân đang nằm thoi thóp trên giường bệnh mà thiếu người thân chăm sóc. Đâu đó vẫn còn đó những con người tình nguyện đem ánh sáng văn hoá cho các trẻ em nông thôn vùng miền núi xa xôi. Và đâu đó vẫn còn đó những con người đang cúi mình tắm rửa cho các bệnh nhân Sida hay các bệnh nhân tại các trại phong…

Tất cả những con người đó đang làm cho thế giới này đẹp hơn về tình người, ấm áp hơn tình đồng loại. Người ta kể rằng: có một cha già cố cả đời sống thanh bần để lo cho giáo dân. Ngài chẳng giữ lại cho mình cái gì. Ngài luôn cho đi tất cả. Ngài luôn chia sẻ cho người nghèo trong xứ cái ăn, cái mặc mà quên đi cả bản thân. Cho tới ngày ngài nhắm mắt xuôi tay, người ta muốn tìm một bộ đồ đẹp để thay cho ngài nhưng không tìm thấy. Lúc đó, người giúp việc bên ngài mới kể lại: Cha già đã cho đi tất cả, chỉ còn một bộ mặc trên mình và một số đồ cũ kỹ mà thôi. Đây chính là một mẫu gương sống đơn sơ và nghèo khó. Đây là một dấu chỉ của cuộc sống người môn đệ của Chúa. Một cuộc sống yêu thương, hiến dâng. Một cuộc sống không cần lo cho bản thân. Vì “cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu”.

Đức Giêsu khi tỏ dấu hiệu cho muôn dân nhận thấy Ngài là Đấng Messia, Ngài đã tỏ mình ra trong thân phận một người tôi tớ phục vụ. Ngài đến trần gian trong thân phận một hài nhi yếu đuối. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo nàn trong thân phận bác thợ mộc làng quê Nagiaret. Dấu chỉ duy nhất mà Ngài đã tỏ bày về thân phận Đấng Messia chính là: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.

Cuộc đời chúng ta là một mùa vọng. Ngày nào Chúa cũng có thể đến với chúng ta. Lúc nào Chúa cũng có thể ngỏ lời cùng chúng ta. Vì vậy, hãy tỉnh thức. Vì Chúa sẽ không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một ánh mắt cảm thông. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Hãy tạ ơn Chúa qua những con người đang sống với chúng ta, đang hy sinh vì chúng ta. Hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta luôn được sống trong tình nghĩa thằm thiết của những người thân bên cạnh chúng ta. Họ chính là hiện thân của Chúa để yêu thương và phục vụ chúng ta.

Bên cạnh đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta cũng trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Đó chính là lòng bác ái, là tình yêu thương. Đây là hiệu kỳ của người ky-tô hữu, là căn tính của người môn đệ Chúa Kitô, vì “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy. Đó là các con hãy thương yêu nhau”. Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Vâng, lễ giáng sinh chính là lễ của tình yêu. Thiên Chúa mang lấy thân phận một hài nhi yếu đuối đang cần chúng ta chăm sóc. Ngài đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.

Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu người ta sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giêsu. Amen.[Mục Lục]

70. Để con nên hình bóng Ngài

(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

Con người thời đại nào cũng cần chứng nhân. Một đời sống chứng nhân đích thực không dừng lại ở lời nói hoa mỹ mà ở chính cung cách sống phù hợp với lời rao giảng của mình. Có ai đó nói rằng: người ta chỉ thán phục những người nói hay nhưng họ sẽ kính phục những ai thực thi điều mình nói.

Đây chính là lời chứng hùng hồn của thánh Gioan B. Ngài đã sống trọn cuộc đời thanh thoát với chốn bụi trần để tâm hồn chỉ còn một niềm vui là ra đi làm chứng cho Đấng Cứu Thế giữa dòng đời. Lời rao giảng và kèm theo cách sống thanh thoát của ngài đã khơi gợi lên cho dân chúng một niềm vui của thời đại Messia đã đến. Niềm vui đó đã khiến hàng ngàn người thay đổi đời sống bằng sám hối và canh tân.

Trên dòng sông Jourdan năm đó người ta tuôn đến rất đông không chỉ để mong được nghe Gioan rao giảng mà quan yếu được gột rửa mình trong sông Jourdan. Dòng nước sông Jourdan được gột rửa với lòng sám hối đã mang lại niềm vui hoan lạc cho tâm hồn con người.

Xem ra dòng đời hôm nay rất cần những chứng nhân của Đức Ky-tô. Một đời sống chứng nhân có thể thay đổi lòng người và mang lại niềm vui nội tại cho những người mà ta đang sống. Một đời sống chứng nhân bằng bác ái, bằng dấn thân phục vụ cho người nghèo, người bệnh tật, già nua chính là phương thức hữu hiệu để dọn đường cho Chúa đến với thế gian.

Cám ơn Chúa trong dòng đời hôm nay ta vẫn thấy thấp thoáng những chứng nhân của Đức Ky-tô đang dấn thân trong mọi môi trường. Họ chính là những con chim én đang tìm đàn để tạo nên mùa xuân tô thắm cho nhân loại. Đâu đó ta vẫn thấy những người đơn độc một mình nhặt những cái đinh đang rải rác trên quốc lộ do người xấu rải ra. Đâu đó ta vẫn thấy những người đang âm thầm đi đến phục vụ những bệnh nhân nằm thoi thóp trên giường bệnh mà thiếu người thân chăm sóc. Đâu đó ta vẫn thấy những con người tình nguyện đem ánh sáng văn hoá cho các trẻ em nông thôn vùng miền núi xa xôi. Và đâu đó ta vẫn thấy những con người đang cúi mình tắm rửa cho các bệnh nhân Sida hay các bệnh nhân tại các trại phong . . .

Tất cả những con người đó đang làm cho thế giới này đẹp hơn về tình người, ấm áp hơn tình đồng loại. Đây cũng chính là dấu chỉ về thời đại Messia mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài mang tình thương đến cho muôn người.

Ngày 19.11 vừa qua Đức Thánh Cha Phanxico phát động ngày vì người nghèo, với chủ đề “tình yêu không bằng môi miệng mà phải hành động cụ thể”. Và chính ngài cũng mời người nghèo vào trong quảng trường dùng cơm với ngài trong tinh thần hòa đồng yêu thương. Phải chăng Đức Thánh Cha đang mời gọi chúng ta hãy trở nên dấu chỉ cho tình yêu Chúa bằng những công việc cụ thể “chia cơm sẻ áo”? Tình thương và lòng bác ái vốn dĩ là dấu chỉ về người môn đệ Chúa Ky-tô. Vì khi ta sống tình yêu ấy là ta đang họa lại chân dung về Đấng Messia cho nhân loại hôm nay.

Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Lễ giáng sinh cũng chính là lễ của tình yêu. Đấng Messia đã đến để mang lại niềm vui cho con người khi Ngài băng bó, chữa lành mọi tật nguyền cho dân. Khi Ngài dám chết cho người mình yêu. Chính cuộc đời của Ngài trở thành Tin mừng cho nhân thế.

Hôm nay Đấng Messia vẫn đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.

Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu muôn dân sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giêsu. Amen.[Mục Lục]