Báo chí chính thống, mạng xã hội và dư luận Việt Nam nói chung đang quan tâm rất nhiều đến Nhà thờ Chính tòa Giáo phận Bùi Chu ở Nam Định.
Một bản tin ngày 17/4 trên trang web của Giáo phận cho biết ngôi thánh đường 134 tuổi sẽ phải hạ giải vào ngày 13/5 này. Như bản tin này viết, quyết định hạ giải nhà thờ là một chuyện không dễ dàng đối với Giáo phận Bùi Chu vì “nhà thờ Chính Toà cổ kính, gắn chặt với những thăng trầm của đời sống đức tin giáo phận suốt trên 100 năm.”
Trả lời Báo Tiền Phong hôm 4/5, Đức Giám mục Giáo phận Bùi Chu Thomas Vũ Ðình Hiệu cho biết “nhà thờ đã xuống cấp nghiêm trọng”.
Ngài cũng nhấn mạnh: “Việc tụ họp hàng nghìn giáo dân để dâng lễ trong khi đó nguy cơ sụp đổ, mất an toàn rất dễ xảy ra. Chính vì thế việc chúng tôi đưa lên hàng đầu vẫn là đảm bảo an toàn, tiếp đó là mục đích thờ phượng, sau đó mới tính đến các giá trị khác như kiến trúc, di sản.”
‘Nhà thờ Bùi Chu: Công trình đặc sắc’
Nhưng vì coi đó là một công trình kiến trúc đặc sắc, là một di sản văn hóa, tinh thần quý, đáng trân trọng, nên được bảo tồn, trong mấy ngày qua nhiều nhân sỹ, trí thức đã gửi thư đến Chính phủ Việt Nam, Tòa thánh Vatican hay Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) xin can thiệp để duy trì, bảo tồn nó.
Chẳng hạn, một số kiến trúc sư, nhà bảo tồn di sản đã gửi đơn tới Thủ tướng, Bộ trưởng Văn hóa Thể thao và Du lịch (VH-TT-DL) và Chủ tịch UBND tỉnh Nam Định, đề nghị xem xét can thiệp giữ lại ngôi thánh đường. Đơn thư ấy viết ngôi nhà thờ được xây dựng từ năm 1885 “là di sản kiến trúc nghệ thuật và văn hóa, được cha ông từ đời trước dày công tạo dựng một tác phẩm kiến trúc độc đáo không nơi nào ở Việt Nam có được, thuộc hàng di sản văn hóa quốc gia”.
Nhóm Bảo vệ di sản Việt Nam (Save Heritage VietNam) cũng gửi thỉnh nguyện thư đến Đức Giáo hoàng Phanxicô, xin ngài giải cứu nhà thờ. Trong thư, nhóm cho rằng “không thể mô tả toàn diện vẻ đẹp với lối kiến trúc pha trộn Đông Dương bản địa và Ba Rốc (Tây Ban Nha) và trên hết là các giá trị phi vật thể trong lịch sử của ngôi thánh đường này”.
Trước sự quan tâm của dư luận nói chung và của các kiến trúc sư, nhà bảo tồn văn hóa, Bộ VH-TT-DL cũng đã vào cuộc. Hôm 7/5, một thứ trưởng của Bộ VH-TT-DL cũng đã dẫn đầu đoàn công tác của bộ này đi khảo sát thực tế tại nhà thờ Bùi Chu và làm việc với chủ tịch UBND tỉnh Nam Định.
Từ trước tới giờ ở Việt Nam hiếm khi, nếu không muốn nói là chưa bao giờ, có một sự quan tâm, phản ứng tích cực, rộng rãi như vậy về một công trình kiến trúc – hay một hoạt động, đóng góp nào đó – của Giáo Hội Công giáo ở Việt Nam.
Vì không phải là lĩnh vực chuyên môn, tôi không dám bàn đến chuyện nên hạ giải để xây dựng lại Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu hay đại trùng tu để bảo tồn ngôi thánh đường cổ kính này.
Nhưng là một người Công giáo, tôi vừa ngạc nhiên vừa cảm thấy vui vui về phản ứng đó vì xem ra những đóng góp của Giáo Hội – ít nhất về kiến trúc – đối với đất nước Việt Nam đang được ghi nhận, coi trọng.
Ngoài việc mang đức tin hay một nền văn minh (tình thương) đến Việt Nam, Kitô giáo cũng đem đến cho đất nước này nhiều thứ giá trị khác.
Những kiến trúc độc đáo
Nhà thơ Bùi Chu được bắt đầu xây dựng năm 1884 dưới thời Đức Giám mục Wenceslao Onate Thuận, một người Tây Ban Nha.
Ngoài Nhà thờ Bùi Chu, còn có nhiều công trình kiến trúc Công giáo có giá trị khác được khởi công xây dựng vào khoảng thời gian đó – như Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn (năm 1887) và Nhà thờ Chính tòa (hay còn gọi là nhà thờ đá) Phát Diệm ở Ninh Bình (năm 1892).
Dù ít được biết đến, ở Yên Thành, Nghệ An có nhà thờ đá Bảo Nham. Nhà thờ đá duy nhất ở Nghệ An và cũng là một công trình kiến trúc kiểu Gothic độc đáo này được cha Adolphe Klinglé, một linh mục người Pháp, còn được biết với cái tên Cố Thông, khởi công xây dựng năm 1888.
Nhưng những nhà thờ cổ kính – hay các công trình kiến trúc độc đáo mang đậm phong cách châu Âu hay kết hợp văn hóa Đông Tây rất có giá trị – chỉ là bề nổi và một phần nhỏ mà Kitô giáo đã và đang mang đến cho Việt Nam.
Ngôn ngữ
Một đóng góp rất ý nghĩa, to lớn khác của người Công giáo – mà đến giờ nhiều người ở Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ vẫn không biết – là chữ quốc ngữ.
Nếu không có cha Alexandre de Rhodes và các giáo sỹ phương Tây khác, chắc nhiều người Việt đã, đang và sẽ phải mù chữ vì chữ Hán hay chữ Nôm rất khó học. Và nếu không có Tiếng Việt, một ngôn ngữ riêng cho chính mình, chắc chắn Việt Nam còn lệ thuộc nhiều vào Trung Quốc và như vậy vấn đề thoát Trung đối với Việt Nam đã khó lại càng khó.
Nhưng, phần lớn vì hiềm khích hay nghi kỵ, vai trò, đóng góp của Giáo Hội tại Việt Nam thường bị xem nhẹ, lãng quên.
Có những giai đoạn, đạo Công giáo bị coi là đạo của người Tây, là tà giáo, tả đạo và tất cả những gì liên quan đến Giáo Hội đều bị coi là ngoại lai và bị khinh bỉ, loại bỏ.
Trong ba thế kỷ (từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX), đặc biệt dưới thời vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Ðức (1848-1883), nhiều người Công giáo đã bị bắt bớ, giam cầm, giết hại tàn nhẫn.
Năm 1988, Đức Giáo hoàng – và nay là Thánh – Gioan Phaolô II, phong Thánh cho 117 vị tử đạo Việt Nam, trong đó có 96 vị là người Việt Nam, 10 vị thuộc Hội Thừa sai Paris, Pháp và 11 vị thuộc dòng Ða minh Tây Ban Nha. Trong số 96 người Việt, có đến 32 vị thuộc tỉnh Nam Định.
Dù giờ không còn bị bắt bớ, bách hại như trước, người Công giáo và những cống hiến của họ cũng chưa được hoàn toàn ghi nhận, coi trọng.
Tại một buổi tọa đàm ở Hà Nội Đầu tháng Tư vừa rồi, Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, đại học Liège, Vương quốc Bỉ, đã đưa ra một số đề xuất nhằm vinh danh linh mục Alexandre de Rhodes và chữ quốc ngữ – như chọn ngày 5/11 (ngày mất của cha Alexandre de Rhodes) làm ngày “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” hay xây dựng một không gian để bảo tồn chữ quốc ngữ.
Không biết những đề xuất, ý nguyện ấy có được lắng nghe, thực hiện hay không. Nhưng đáng lẽ ra những việc làm như vậy phải được Chính phủ hay cơ quan, tổ chức nhà nước của Việt Nam tiến hành từ lâu. Nhưng vì nghi kỵ, những đóng góp to lớn của cha Alexandre de Rhodes vẫn chưa được công nhận.
Giáo dục
Một thế mạnh, ưu tiên và cũng là lĩnh vực khác Giáo Hội được mời gọi dấn thân là giáo dục – không chỉ về đức tin, nhân bản, luân lý mà còn về nhiều lĩnh vực khác nhằm thăng tiến con người, phát triển xã hội, đất nước.
Cũng vì vậy, trước đây ở Việt Nam, ngoài các nhà trẻ, có đến cả ngàn trường Công giáo đủ mọi cấp (từ tiểu học đến đại học), thuộc đủ loại, đủ ngành (như từ trường y, trường dạy nghề đến trường dành cho người khiếm thị khiếm thính, trường miễn phí cho sinh viên, học sinh nghèo), và tiếp nhận học sinh, sinh viên từ mọi thành phần trong xã hội, không phân biệt tôn giáo.
Chẳng hạn, một tổng kết về tình hình Giáo Hội Việt Nam năm 1962-1963 cho thấy lúc đó Giáo Hội có đến 93 trường trung học (với hơn 60 ngàn học sinh) và 1122 trường tiểu học (với gần 235 ngàn học sinh).
Theo một thống kê khác, trước 1975 ở miền Nam có đến 145 trường trung học và 1060 trường tiểu học Công giáo. Ngoài ra, còn có những đại học Công giáo, như Giáo hoàng Học viện ở Đà Lạt, Viện Đại học Minh Đức, Đại học Thành Nhân và Đại học La San ở Sài Gòn.
Nhưng sau 1954 ở miền Bắc và sau 1975 tại miền Nam, các trường Công giáo lần lượt đều phải đóng cửa. Hầu hết trường học, cơ sở giáo dục bị tịch thu và Giáo Hội không còn được tham gia vào lĩnh vực giáo dục.
Thậm chí, sau này, khi chính quyền Việt Nam không còn ‘độc quyền’ giáo dục và ‘xã hội hóa’ lĩnh vực này, cho phép ‘tư nhân, thậm chí người nước ngoài, có quyền mở trường tư thục’ – như Thư Chung về Giáo dục Kitô của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2007 nêu – Giáo Hội Công giáo vẫn phải ‘đứng bên lề sự nghiệp giáo dục của xã hội Việt Nam’.
Mãi tới năm 2016, một Học viện Công giáo mới được chính thức mở cửa. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1975, một trường Công giáo ở cấp trung học hay đại học được thành lập và công khai hoạt động.
Vì luôn muốn thông phần vào việc mở mang và phát huy nền giáo dục, không ngạc nhiên tại những quốc gia tự do, dân chủ, Giáo Hội Công giáo luôn tham gia rất tích cực vào lĩnh vực này.
Các nước châu Á – như Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Philippines – đều có nhiều trường đại học Công giáo. Nhiều trường – như Catholic University of Korea ở Nam Hàn, Fu Jen Catholic University ở Đài Loan hay De la Salle University ở Philippines – được xếp hạng cao tại những quốc gia đó.
Nếu Giáo Hội được tự do tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực giáo dục ở miền Bắc sau năm 1954 hay ở miền Nam sau 1975, chắc chắn giờ ở Việt Nam cũng có một số đại học Công giáo có uy tín như tại những quốc gia châu Á trên.
Với việc dư luận nói chung và các kiến trúc sư, nhà bảo tồn văn hóa đánh giá cao Nhà thờ Bùi Chu, lên tiếng xin cứu giải, bảo tồn nó và cũng vì vậy, chính quyền Việt Nam đã vào cuộc và tới xem xét, khảo sát, đánh giá, hy vọng rằng xã hội, chính quyền Việt Nam sẽ có một cái nhìn khác và tích cực hơn về Giáo Hội Công giáo, về những đóng góp, vai trò của Giáo Hội trong đời sống xã hội, trong việc phát triển đất nước.
TS Đoàn Xuân Lộc / BBC News
Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giả, một cây bút người Công giáo hiện đang sinh sống và làm việc tại Anh Quốc.