Chúa nhật XXI thường niên, năm C: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa


CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN, NĂM C
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa

Lời Chúa: Is 66,18-21; Dt 12,5-7.11-13; Lc 13,22-30

MỤC LỤC

  1. Sau hết và trước hết
  2. Cửa hẹp
  3. Cứu rỗi
  4. Vào khung cửa hẹp – ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
  5. Cửa nào Chúa đã đi qua – Thiên Phúc
  6. Con đường sự sống
  7. Cửa Hẹp, Lối Đi Hẹp – An Phong
  8. Cửa hẹp
  9. Cửa hẹp đưa con người đến đâu?
  10. Hãy đi vào cửa hẹp – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
  11. Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp
  12. Cửa hẹp – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
  13. Hãy vào cửa hẹp
  14. Đường vào Nước Trời – Veritas
  15. Cửa Hẹp – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  16. Cửa hẹp – André Sève
  17. Hy vọng và cầu nguyện – Achille Degeest
  18. Qua cửa hẹp mà vào – Charles E. Miller
  19. Trước cửa thiên đàng
  20. Qua cửa hẹp
  21. Ai sẽ được cứu? – G. Nguyễn Cao Luật
  22. Cửa hẹp – McCarthy
  23. Khung cửa hẹp
  24. HRK/162 – Gắng sức
  25. CSTM/197- Cửa hẹp
  26. NTGT/229 – Nước trời
  27. Ai được cứu độ
  28. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
  29. Một nghề siêu nhiên
  30. Cửa hẹp, cửa hạnh phúc
  31. Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh
  32. Cửa hẹp – Lm. Bùi Quang Tuấn
  33. Hạnh phúc nước trời – Lm. Trần Minh Đức
  34. Chọn cửa hẹp vì yêu
  35. Cửa Nước Trời
  36. Suy niệm của JKN
  37. Hãy phấn đấu hết mình – Jude Siciliano
  38. Chọn cách sống phù hợp với Nước Trời
  39. Hành trình đi tới niềm vui
  40. Suy niệm của Lm Augustine
  41. Chật hẹp – Lm. Vũ Đình Tường
  42. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
  43. Chú giải của Noel Quesson
  44. Chú giải của Fiches Dominicales
  45. Đường vào Nước Trời – William Barclay
  46. Lý tưởng sống – Phêrô Trần Đình Phan Tiến
  47. Suy niệm Chúa Nhật 21 Thường Niên
  48. SCĐ/670 – Cứu rỗi
  49. Thiên Chúa của mọi dân tộc
  50. Suy niệm của nhóm Đồng Hành
  51. Phấn đấu qua cửa hẹp vào Nước Trời
  52. Cửa hẹp – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
  53. Cửa hẹp – Lm. Anphong Trần Đức Phương
  54. Phải chăng ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ?
  55. Cuối con đường hẹp..–Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn
  56. Cửa hẹp – Lm. Vũ Đình Tường
  57. Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh

1. Sau hết và trước hết

Có những người sau hết sẽ nên trước hết. Câu Kinh Thánh này nhắc nhở cho chúng ta biết giá trị của sự kiên trì như lời Chúa cũng đã bảo: Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu thoát. Trong phạm vi xã hội người ta thường nói: Đầu xuôi đuôi lọt. Nhưng trên phạm vi cứu rỗi thì không như vậy, bởi vì kẻ gọi thì nhiều người chọn thì ít.

Lucifer trước kia là vị thiên thần mang ánh sáng, nhưng rồi đã hoá thành ma quỷ. Giuđa trước kia là một trong số 12 tông đồ Chúa, nhưng rồi đã trở thành kẻ phản bội. Chính vì thế thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta: Nhiều người chạy đua nhưng chỉ có một người lãnh được phần thưởng. Ai tưởng mình đứng vững hãy ý tứ kẻo ngã. Và thánh Gregoriô đã nói: Dũng khí của việc thiện là sự bền tâm, vì thế hãy nắm giữ cho chắc kẻo nó bị tuột mất. Vậy tại sao chúng ta phải kiên trì và bền đỗ?

Lý do thứ nhất là vì bản tính con người vốn hay thay đổi, có mới nới cũ, đồng thời lại ưa chuộng hào nhoáng, chạy theo thị hiếu bên ngoài ma quên mất mục đích tối hậu của mình.

Lý do thứ hai là vì thế gian cám dỗ. Kinh Thánh đã nói: Trần gian thì thuộc về ác thần, đầy dẫy những gương mu gương xấu và những dịp tội xô đẩy làm cho chúng ta vấp ngã. Trần gian thường đánh bóng và tô điểm lộng lẫy những thứ trái cấm, nào sách vở báo chí, nào phim ảnh tuồng kịch, nào truyền thanh truyền hình, nào thời trang và nghệ thuật. Càng là trái cấm thì lại càng quyến rũ mãnh liệt, cho nên nếu không tỉnh thức chúng ta sẽ quay lưng chống lại Thiên Chúa lúc nào không hay biết.

Lý do thứ ba là vì ma quỷ ghen tương với hạnh phúc chúng ta, nó rình rập tìm mọi sơ hở để lôi kéo chúng ta vào vòng tội luỵ, để rồi cuối cùng cũng phải lãnh nhận hình phạt hoả ngục như nó. Có một câu danh ngôn nói rằng: Ma quỷ không bao giờ ngủ, nó không dại gì tấn công một kẻ đã thuộc về tay nó. Thánh Giêrôminô viết: Ma quỷ không tìm những người ngoài, nhưng hối hả xông vào những người thuộc về Giáo Hội. Những người con của Đức Kitô. Họ là như những miếng mồi ngon, những món ăn béo bở của nó.

Và sau cùng lý do thứ tư là vì bản tính của chúng ta thì yếu đuối có thể sai lỗi bất kỳ lúc nào. Để an ủi mình, chúng ta nghĩ đến trường hợp của Phaolô, của Madalena, của Phêrô, của người trộm lành. Nhưng ai dám bảo đảm rằng sau khi lầm đường lạc lối chúng ta chắc chắn sẽ quay trở lại. Ai dám chắc rằng mình sẽ đủ nghị lực, đủ ơn thánh để chỗi dậy và trở về cùng Chúa như đứa con hoang đàng. Hoả ngục chứa đầy những người trước tốt sau xấu.

Có một vị kia ở thành Sebaste, bị bắt và bị ngâm trong nước đông lạnh cùng với 39 đồng bạn khác. Nhưng rồi y đã chối bỏ đức tin để được ngâm trong nước ấm. Chính lúc đó thì y chết và mất hết mọi công nghiệp. Hơn nữa con người chúng ta thì dễ nản chí và chóng đầu hàng. Một lần thất bại sẽ làm cho chúng ta mang mặc cảm và không muốn chỗi dậy nữa. Bao lâu còn sống trong thể xác, chúng ta còn có thể bị thua chước cám dỗ. Người công chính mỗi ngày còn sai lỗi 7 lần huống là chúng ta. Cái khác biệt là sau mỗi lần sai lỗi họ đều biết chỗi dậy. Và những lần sai lỗi ấy là những dịp để họ tập khiêm nhường và gia tăng lòng mến Chúa. Tục ngữ đã bảo: nước chảy đá mòn, kiến tha lâu đầy tổ, hữu chí cánh thành, có công mài sắt… Trên phạm vi siêu nhiên Chúa cũng bảo: Ai bền đỗ đến cùng… [Mục Lục]

2. Cửa hẹp

Phải chăng chỉ có một ít người được cứu thoát? Thắc mắc này hẳn đã xuất phát từ lời giảng dạy của Chúa Giêsu về những điều kiện và những thái độ phải có để được vào Nước Trời. Thế nhưng qua câu trả lời, chúng ta nhận thấy điều quan trọng đối với Chúa Giêsu và cũng là điều Ngài muốn nói với những kẻ đã nêu lên câu hỏi, đó là người ta phải cố gắng, phải chiến đấu mới mong được vào Nước Trời, bởi vì một mặt cửa vào Nước Trời thì nhỏ hẹp, mặt khác, thời gian dành để cho người ta vào Nước Trời thì vắn vỏi.

Trong cuộc chiến đấu để được vào Nước Trời sẽ không có ưu tiên dành cho những người có lý lịch tốt, hay đúng hơn, có gốc gác tốt. Ở đây Chúa Giêsu muốn nhắm đến những người Do Thái cứng lòng tin. Họ suy luận rằng: Tước hiệu dân riêng của Chúa, tước hiệu con cháu của Abraham, là một bảo đảm chắc chắn, là một tấm giấy ưu tiên để được vào Nước Trời. Thế nhưng tiên tri Isaia đã từng loan báo về cách xử sự của Thiên Chúa trong thời cứu chuộc, trong ngày phán xét: Ngài sẽ quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, Ngài sẽ dẫn đưa mọi người từ các dân nước mà đến. Sự phân biệt giữa người được vào bàn tiệc và kẻ ở ngoài, giữa người được ở trong bàn tiệc với Abraham, Isaac và Giacob, với kẻ bị đuổi ra chốn tối tăm, ở đó chỉ có khóc lóc và nghiến răng, giữa người được cứu chuộc và kẻ bị hư đi, lý do là ở chỗ họ có chiến đấu đủ và đúng thời đúng buổi để đi ngang qua khung cửa hẹp hay không?

Tất cả mọi người từ phương đông, phương tây, phương bắc, phương nam đều được đặt trong một điều kiện bình đẳng để được vào Nước Trời. Chính trong điều kiện này mà người sau hết có thể trở nên trước hết và những kẻ trước hết có thể tụt xuống sau hết. Nhu chúng ta đã thấy, điều quan trọng Chúa muốn nói đến đó là phải qua cửa hẹp, thế nhưng qua cửa hẹp là gì?

Tôi xin thưa qua cử hẹp là thi hành ý Chúa, là từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Chúa, là dám bán tất cả những gì mình có để làm phúc bố thí cho những kẻ nghèo túng, là liều mất mạng sống mình vì người khác. Nói tóm lại là đi con đường Chúa Giêsu đã đi.

Thiên Chúa không theo chủ nghĩa lý lịch. Trước toà phán xét Ngài không hỏi chúng ta: Đã chịu phép Rửa tội chưa? Có phải là người công giáo hay không? Điều Ngài đặc biệt quan tâm và xét hỏi đó là chúng ta có làm và sống như Chúa đã dạy hay chưa. [Mục Lục]

3. Cứu rỗi

Ngày nay, nhiều người bi quan khi nhìn vào những bản thống kê về tôn giáo, chẳng hạn số người đi tham dự thánh lễ quá ít, số ơn gọi linh mục tu sĩ giảm sút. Nhiều nơi nhà thờ, nhà dòng đã được hiến cho những tổ chức hoặc cho những tư nhân để sử dụng vào việc khác. Từ đó họ kết luận: Sẽ đến một lúc không còn đức tin trên cõi đời ô trọc này nữa.

Đừng quá bi quan như vậy, vì đó là việc của Chúa. Trái lại, hãy lo cho mình biết tin vào Chúa. Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng đã nêu lên một thắc mắc: Phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu rỗi? Chúa Giêsu không trả lời nhiều hay ít, nhưng Ngài chỉ nói: Hãy cố gắng mà vào qua khung cửa hẹp. Hãy lo cho đúng cái lo, chứ đừng lo ít lo nhiều chi cả. Hãy lo cho mình được cứu rỗi trước đi.

Về vấn đề này, chúng ta ghi nhận hai thái cực. Thái cực thứ nhất của những người bi quan. Họ thường trình bày một Thiên Chúa nghiêm khắc, hay rình rập để bắt lỗi, rồi tống tất cả xuống hoả ngục. Tôi còn nhớ có một vị giảng thuyết đã bảo muốn biết tỷ lệ những người được lên thiên đàng là bao nhiêu, thì cứ thọc một ngón tay vào hũ gạo, hốt lên được bao nhiêu hột thì đó là số người được lên thiên đàng. Nếu làm theo kiểu này thì có lẽ kết quả sẽ là 100% bị xuống hoả ngục. Có vị còn bảo từ tạo thiên lập địa cho đến bây giờ, ngoài Đức Mẹ, thì chỉ có một người chắc chắn được lên thiên đàng, đó là ông thánh trộm lành, vì chỉ mình ông mới được nghe Chúa phán: Hôm nay ngươi sẽ được ở nơi vinh hiển cùng Ta. Hơn thế nữa, các bức tranh giáo lý thường vẽ đường lên thiên đàng thì nhỏ hẹp, chông gai, ít người dám lai vãng, nên vắng vẻ buồn tênh. Trong khi đó đường xuống hoả ngục thì thênh thang vui sướng, bao nhiêu người chen lấn, vừa đi vừa ăn uống, cười nói, ca hát, hôn hít. Nếu bây giờ nhìn vào bức tranh đó, dám có bạn trẻ sẽ bảo: Tới đâu hay tới đó, cứ vui đi đã, rồi hạ hồi phân giải.

Thái cực thứ hai của những người lạc quan. Họ bảo Thiên Chúa nhân từ và hay thương xót, chắc chắn Ngài sẽ không để cho bất kỳ một ai phải xuống hoả ngục, trái lại Ngài sẽ cứu chuộc tất cả. Là Đấng giàu tình thương, Ngài sẽ không để cho con cái Ngài phải hư mất. Là Đấng quyền năng, Ngài sẽ không để cho chương trình cứu độ của Ngài bị thất bại.

Thế nhưng cả hai lập trường thái quá trên đây đều sai, bởi vì Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, nghĩa là có lý trí, có tự do, có tình yêu nên cũng có trách nhiệm về việc mình làm, chứ không phải như những hình nộm múa may quay cuồng theo sự giật dây được sắp đặt trước. Và khi con người vận dụng khả năng cộng tác vào ơn Chúa để thực hiện ơn cứu rỗi nơi mình, cũng chính là lúc con người sống theo lời chỉ dạy của Chúa, bước qua khung cửa hẹp để vào Nước Trời.

Trong chương trình cứu rỗi, Chúa để cho chúng ta được tự do. Khi chúng ta không chọn Chúa đó là lúc chúng ta tự kết án mình. Thiên đàng là đời sống trường cửu với Chúa, còn hoả ngục là đời sống mãi mãi xa lìa Chúa. [Mục Lục]

4. Vào khung cửa hẹp – ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong mùa thi vào đại học vừa qua, có nhiều bạn học sinh đã bị chứng suy dinh dưỡng, mất ngủ, thậm chí bị tâm thần. Lý do là các bạn phải học rất nhiều, phải phấn đấu để được vào đại học. Đại học hiện tại là một khung cửa hẹp. Trường lớp có ít mà số lượng sinh viên mỗi năm mỗi tăng. Thế nên các học sinh phải hết sức phấn đấu mới được vào.

Cảnh các thí sinh chen chúc trước các cổng trường đại học làm tôi nhớ đến bài Tin Mừng hôm nay. Ai muốn vào Nước Trời cũng phải đi qua khung cửa hẹp.

Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.

Trước hết phải phấn đấu hạ mình xuống. Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên. Người ở địa vị thấp phấn đấu để được địa vị cao. Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng. Người phải phục vụ phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Nhưng trong Nước Trời thì ngược lại. Phải phấn đấu để đi xuống. Phải phấn đấu để tìm chỗ thấp hèn nhất. Phải phấn đấu để phục vụ anh em. Như lời Chúa dậy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Lc 14,11). “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối”(Lc 14,10). “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ”(Lc 22,26). “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”(Mc 10,15).

Sau đó phải phấn đấu để bé nhỏ lại. Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra. Ai có nhà nhỏ phấn đấu để có nhà lớn hơn. Ai có ruộng vườn nhỏ cũng phấn đấu để vườn ruộng lớn rộng thêm. Ai cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều bằng cấp hơn, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn. Trái lại, người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ. Phải phấn đấu để trở nên nghèo. Phải phấn đấu để bỏ bớt của cải đi. “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”(Mt 19, 21). “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”(Mt 5,3).

Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của Chúa Giêsu.

Cửa này thấp vì Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao, Người đã tự nguyện xuống nơi đất thấp. Là Thày, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phục vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã để bị đối xử như một đại tội phạm. Người đã bị vùi dập xuống tận bùn đen.

Cửa này bé vì Chúa Giêsu đã trở nên bé nhỏ. Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Người đã bị bóc lột hết, không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.

Chúa Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Người phấn đấu hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết “từ bỏ mình, vác thập giá mình”mà theo Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Cửa Nước Trời rất hẹp. Bạn có thấy mình còn cồng kềnh không?

2) Bạn thấy mình cần phải từ bỏ những gì để có thể gọn nhẹ tiến qua cửa hẹp?

3) Tuần này bạn sẽ phấn đấu làm gì để từ bỏ mình?

4) Chúa Giêsu đã làm thế nào để đi vào khung cửa hẹp? [Mục Lục]

5. Cửa nào Chúa đã đi qua – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Một buổi sáng náo nhiệt, người đàn bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào. Khi vị thánh giữ cửa thiên đàng chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ, thì bà sung sướng nghĩ thầm: “Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt đẹp như thế! Còn tôi chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng nào”. Và bà ta xoa tay vui sướng.

Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói:

– Đó là nhà của bà.

Người nhà giàu hoảng hốt, choáng váng đầu óc:

– Nhà của tôi đó thật sao? Không, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được!

Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt.

– Thưa bà, với vật liệu bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ làm được có ngần ấy thôi

“Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”(Lc 13,30). Đó là bất ngờ đau đớn cho “những kẻ đứng đầu”. Họ là những người được Chúa ban cho giàu có, nhưng lại sống trong ích kỷ, chỉ biết thu vén cho mình những của cải đời này, mà không biết chia sẻ trao ban như luật yêu thương Chúa dạy. Chính tài sản đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp”mà vào được Nước Trời.

Những kẻ đứng đầu”có thể là những ai được Chúa ban cho địa vị, chức quyền, khôn ngoan, nhưng lại sống trong huênh hoang tự đắc. Thay vì dùng ơn lành Chúa ban để nâng đỡ anh em, phục vụ cộng đoàn, họ lại nuôi dưỡng tham vọng cá nhân. Chính cái tôi cồng kềnh đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp”mà vào được Nước Trời.

Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24). Nếu Chúa đã bảo hãy “chiến đấu”tức là phải nỗ lực cố gắng thật nhiều, phải vất vả gian nan thật lâu, thì mới vượt qua được cửa “hẹp”. Nếu Chúa đã nhắc đến “cửa hẹp”thì phải hiểu là chỉ có những trẻ thơ mới được vào được dễ dàng. Chúa phán: “Ai không tiếp nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không được vào”(Lc 18,17).

Cửa hẹp dẫn đến sự sống”(Mt 7,14), “cửa hẹp”đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở. Sẽ đến giờ “chủ nhà đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13,25) thì không cách gì, không lý lẽ chi để cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng; những kẻ cậy dựa vào đạo giòng, vào các việc lành đã làm, vào tài đức đã đắc thủ mà quên đi Đấng mà họ phải kiếm tìm, để sống thân mật, để dâng hiến và để yêu mến Người với tất cả trái tim.

Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang; cửa tiền tài, sắc dục, hư danh; cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói: “Ta không biết các anh từ đâu đến”(Lc 13,27).

Lạy Chúa, cửa hẹp thường rất khó vào, nên chẳng mấy người muốn bước qua; nhưng cửa hẹp lại là cửa Chúa đã đi qua, và chỉ qua đó chúng con mới tìm được Chúa.

Xin cho chúng con biết luôn cố gắng, quyết tâm bước vào cửa hẹp, cho dù phải rướm máu hy sinh, cho dù phải bỏ lại những gì mình ưa thích, vì chỉ có Thiên Chúa mới là phần thưởng và là niềm hạnh phúc của chúng con. Amen. [Mục Lục]

6. Con đường sự sống

Chắc không ít người ngỡ ngàng khi Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết là con đường dẫn tới sự sống đích thực và vĩnh cửu là con đường: “Vào qua cửa hẹp”. Và ai biết tìm kiếm và chiến đấu để vào qua cửa hẹp thì được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Đó là điều Chúa Giêsu quả quyết cho tất cả chúng ta. Vấn đề không phải là có bao nhiêu người được cứu độ vì “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”; cũng không phải là chuyện ai được tiền định để hưởng sự sống đòi đời “Không phải gọi Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu”! Nhưng vấn đề là làm sao tìm thấy “con đường hẹp” và “vào qua cửa hẹp” cách anh hùng và trung tín.

Vấn đề đặt ra: “cửa hẹp là cửa nào?” Làm sao để có thể tiến bước trong con đường mà cửa hẹp dẫn đưa qua?

Khi nói “Hãy phấn đấu vào qua cửa hẹp”, chắc chắn Chúa Giêsu không nói đến vấn đề rộng hẹp theo nghĩa vật chất, nhưng mang nghĩa tinh thần và thiêng liêng. Nhìn vào chính cuộc sống và chọn lựa của Chúa Giêsu, ta có thể thấy được một vài đặc tính của con đường hẹp:

Con đường hẹp là con đường của sự từ bỏ: từ bỏ những gì đi ngược lại với phẩm giá và lương tâm của con người dù nó có lợi lộc nhiều đến mấy đi nữa! Từ bỏ những quyến luyến hay việc tôn thờ lệch lạc như thần tài, bói toán, sắc dục …

Con đường hẹp là con đường của hy sinh: sẵn sàng chịu mất giờ, mất công sức, mất tiền của vì hạnh phúc của anh chị em mình; vui lòng nhường nhịn với những tranh chấp nhỏ nhen vì muốn gây tinh thần hoà thuận với mọi người…

Con đường hẹp là con đường của yêu thương và tha thứ: Con đường của tình yêu và tha thứ là con đường đẹp nhất, nhưng cũng là con đường nhiều chông gai nhất. Bởi lẽ, yêu thương vô vị lợi là cúi mình xuống tận cùng để nâng người khác lên, là sẵn sàng nhận lãnh lấy những chỉ trích, những hiểu lầm của người khác. Cái chết nhục nhằn của Chúa Giêsu trên Thập giá đã cho chúng ta thấy rõ điều đó.

Con đường hẹp là con đường vâng phục Thánh ý Chúa Cha. Thánh ý Chúa trong cuộc đời ta thường rất khác với ý ta muốn. Chấp nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời ta cũng có nghĩa là chấp nhận bỏ mình, trở nên không không để Chúa tự do hành động trong đời ta và ta sẵn sàng bước theo Chúa trên những con đường mới lạ, gập ghềnh và chẳng mấy ai đi! Nhưng Chúa sẽ đưa ta vào con đường huyền nhiệm của yêu thương và sự sống.

Nói tóm, Con đường hẹp là con đường Thập giá mà Đức Giêsu đã đi. Nhưng xem chừng, con đường hẹp như thế này không mấy hấp dẫn đối với nhiều người hôm nay, nhất là khi cuộc sống của họ đã quá đầy đủ và giàu sang! Theo lẽ thường, ai cũng thích bước đi trên con đường rộng rãi, phẳng phiu và dễ dãi. Đó là con đường tự do để hưởng thụ, tự do làm những gì mình thích bất chấp hậu quả.

Trong Tin mừng theo Thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh với mọi người rằng: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều người lại đi qua đó.” (Mt 7,13). Chúa để cho chúng ta tự do để chọn lấy cho mình một con đường. Trước mắt chúng ta luôn có hai con đường mở ra: con đường hẹp với những hy sinh, chịu đựng, nhịn nhục nhau vì yêu và một con đường rộng thênh thang với đầy dẫy sự hưởng thụ và hấp lực trần gian.

Có một câu chuyện rất hay sau đây tôi xin được kể như một kết thúc: “Một thanh niên giàu có than phiền với bạn: “Người ta không thích tôi. Họ cho rằng tôi ích kỷ và keo kiệt. Nhưng tôi đã hứa là sau khi tôi qua đời, tôi tặng tất cả những gì tôi có cho một tổ chức từ thiện”.

Bạn anh nói: “Ồ, câu chuyện của bạn làm tôi liên tưởng đến cuộc trò chuyện giữa Bò và Heo. Heo đến phàn nàn với bò: ‘Người ta luôn nói tốt về bạn. Vâng, điều đó là sự thật, vì bạn cho họ sữa. Nhưng họ nhận nơi tôi nhiều hơn: dăm bông, thịt muối, mỡ và có khi họ nấu cả chân tôi. Chẳng ai giống tôi. Nhưng đối với họ, tôi chỉ là một con lợn, một con lợn để làm thịt. Tại sao thế?’

Bò suy nghĩ một lát và nói: ‘Có lẽ điều đó đúng. Nhưng bạn chỉ cho thịt khi bạn chết rồi; còn tôi, tôi cho sữa ngay lúc tôi còn sống.” [Mục Lục]

7. Cửa Hẹp, Lối Đi Hẹp – An Phong

Tin Mừng Chúa Nhật 21 Thường Niên C là những lời nhắn nhủ của Đức Giêsu: “Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào”. Như người chủ đóng cửa ngôi nhà lại, thì Đức Giêsu cũng sẽ “đóng” bữa tiệc cánh chung, ngăn không cho những người làm điều ác, những người không nhận biết Người đi vào tham dự. Bàn tiệc Nước Trời dành cho những ai thành tâm thiện ý, “mến Chúa và yêu người”.

“Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào”. Đó là lời nhắn nhủ của Đức Giêsu cho tất cả mọi người. Vào thời Đức Giêsu, những lời này là một thách đố đối với người Do Thái. Vì họ luôn tin rằng, họ sẽ có phần trong thời đại sắp đến, trong bàn tiệc Nước Trời, bởi vì họ là dân đặc tuyển, được ưu tiên. Đức Giêsu đã loại trừ quan niệm đặc tuyển này. Điều quan trọng là họ có thực hiện những lời Người dạy dỗ hay không.

Đời sống kitô hữu là một hành trình thiêng liêng đi qua cửa hẹp. Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến nỗ lực, nhiều nỗ lực để có thể vượt qua cánh cửa hẹp. Để có được một đời sống hạnh phúc, một gia đình tốt đẹp… chúng ta cần đi qua “cửa hẹp”, cần nhiều nỗ lực, cần hy sinh, cần chiến đấu, “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Tôi”.

Nhưng cánh cửa hẹp này chỉ được mở từ bên trong, vào một lúc nào đó. Chỉ một mình Thiên Chúa mới quyết định mở và mở lúc nào, tức là Người quyết định tất cả. Thiên Chúa mở cánh cửa hẹp, bởi vì cánh cửa tâm hồn chúng ta còn hẹp. Để đi vào vương quốc Tình yêu, chúng ta cần loại bỏ sự hẹp hòi, kiêu ngạo, những gì chống đối lại tình yêu. Nói khác, cánh cửa tâm hồn chúng ta có rộng mở thì cánh cửa vương quốc Tình Yêu mới rộng mở. Đó là lý do tại sao lối vào vương quốc của Thiên Chúa đòi cố gắng và hy sinh.

“Người đứng chót sẽ lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”. Những người từ phương Đông, Tây, Nam, Bắc dường như là những người đứng chót, nhưng lại là người đầu đi vào Nước Thiên Chúa. Còn những người bị ở ngoài dường như là những người đã từng “ăn, uống” với chủ nhà, đã từng nghe những lời giảng, dạy… Nói chung, họ là những người ở gần chủ. Họ đồng bàn với chủ, nhưng lòng họ thì lại xa chủ. Thế nên ông chủ tuyên bố: tôi không biết các anh là người ở đâu cả.

Là người kitô hữu, chúng ta thuộc về Giáo hội qua bí tích Rửa tội, chúng ta “gần” Đức Kitô hơn những người chưa lãnh bí tích Rửa tội, nhưng có thể chỉ là “sự gần gũi bên ngoài”. Trong khi đó, những người không phải là kitô hữu, họ dường như “xa” Đức Kitô, nhưng họ lại rất gần Người qua việc đáp trả lời mời gọi của Chúa Thánh Thần trong lương tâm họ. Họ là những “kitô hữu vô danh”.

Nếu các người đĩ điếm và những người thu thuế đi vào Nước Thiên Chúa trước cả những người Pharisêu, chúng ta cũng có thể nghĩ rằng có nhiều người không phải là kitô hữu cũng sẽ đi vào Nước Thiên Chúa trước nhiều người kitô hữu.

Phải chăng chúng ta là những kitô hữu “theo lý lịch?”

Phải chăng chúng ta “ở trong nhà” nhưng lại “không gần” Đức Giêsu?

Lạy Chúa,

xin dạy chúng con biết đi qua cánh cửa hẹp

để chúng con có thể bước vào vương quốc của Chúa,

vương quốc của Tình Yêu.

Chìa khóa mở cửa vương quốc này là các mối phúc thật.

Nhờ các mối phúc,

chúng con sẽ nhận ra

cái gì là chính yếu, quan trọng, trường cửu

cái gì là phụ tùy, phù phiếm, chóng qua.

Xin Chúa giải thoát chúng con khỏi sự tự mãn,

là người kitô hữu, nhưng lại là “kitô hữu theo lý lịch”.

Xin giải thoát chúng con khỏi mọi sợ hãi,

sợ thiếu thốn, sợ hy sinh, phấn đấu.

Amen. [Mục Lục]

8. Cửa hẹp

Suy Niệm

Cuộc đời thật ra gồm nhiều cửa hẹp. Cửa hẹp khi thi vào đại học. Cửa hẹp khi đi xin việc làm. Cửa hẹp khi muốn đưa trái banh vào lưới.

Sống là phấn đấu bước qua nhiều cửa hẹp.

Cửa càng hẹp, càng phải cố gắng nhiều. Cửa hẹp mà vào được mới quý.

Nếu thiên đàng có cửa, thì hẳn vào cửa thiên đàng chẳng phải như dạo chơi.

“Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp”(Lc 13,24), vì “cửa hẹp dẫn đến sự sống”(Mt 7,14).

Chiến đấu ở đây là chiến đấu với chính mình, với cái tôi cồng kềnh của mình, nặng nề vì những vun vén cá nhân, phình to vì tự hào và tham vọng.

Thật ra cửa vào sự sống không hẹp nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to quá. Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại, khiêm hạ trước Thiên Chúa, cởi mở trước anh em.

Cần có một cái tôi như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (Mt 18,3).

Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng nhờ thu tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ, cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và khép lại.

Để “người lớn”trở nên hồn hậu như trẻ thơ, cần phải biến đổi và tự hạ (x. Mt 18,3-4).

Đây thật là một cuộc chiến với chính mình. Khi hủy mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp.

Nhiều người Do Thái đến chậm, khi cửa đã đóng. Họ gõ cửa và đòi vào. Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc, bởi lẽ mình đã từng ngồi đồng bàn với Đức Giêsu, và đã nhiều lần nghe Ngài giảng dạy. Tiếc thay, tương quan đó lại quá hời hợt đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ: “Ta không biết các anh từ đâu đến!”

Chúa cũng có thể nói với chúng ta như vậy, dù chúng ta đã dự lễ, rước lễ, nghe giảng, tĩnh tâm… Chúa vẫn không quen biết chúng ta vì chúng ta chẳng để cho Ngài đi vào đời mình. Chúng ta vẫn là những người xa lạ trước mắt Chúa.

Đời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục. Chiến đấu để qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ. Chiến đấu để vào trước khi cửa đóng lại.

Cứu độ là một ơn Chúa ban, nhưng ta phải nỗ lực mới dám đưa tay đón nhận.

Ước gì chúng ta đừng tự hào vì đã biết Chúa, nhưng phải làm sao để Chúa biết ta và reo lên: “Đây là đầy tớ tốt lành và trung tín.”

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn thấy để sống đời Kitô hữu xứng đáng, dễ hay khó? Có khi nào bạn thấy khó đến độ không thực hiện nổi không?

Nước Thiên Chúa được ví như một bữa tiệc vui, trong đó có muôn người từ khắp nơi trên thế giới đến dự. Bạn có hình ảnh nào khác để gợi mở về Thiên Đàng không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.

Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng

Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.

Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa. [Mục Lục]

9. Cửa hẹp đưa con người đến đâu?

(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)

Khi có người hỏi: “Thưa Ngài, có ít người được cứu thoát thôi, phải không?” Chúa Giêsu không trả lời có nhiều hay ít. Nhiều hay ít là tuỳ vào sự chọn lựa của con người. Nhưng nhân cơ hội nầy, Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết phải đi vào cửa hẹp mới được cứu độ. Ngài nói: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”.

Vậy, vào cửa hẹp nghĩa là gì?

Là sống theo lề luật Chúa.

Lề luật Chúa xem ra gò bó, trói buộc chúng ta, ép chúng ta vào khuôn khổ, bắt chúng ta đi theo đường hẹp, không để cho chúng ta sống buông thả như bao nhiêu người khác… Thế nên có nhiều người bực mình, có người nổi loạn, có người muốn bức phá hết những ràng buộc của luật lệ.

Vậy thì cửa hẹp đưa con người đến đâu?

Thiên Chúa đã dựng nên trái đất và Ngài quy định cho nó phải quay quanh mặt trời theo một lộ trình nhất định, đó là quỹ đạo trái đất. Phải mất 365 ngày và 6 giờ, trái đất mới quay hết một vòng quanh mặt trời, và cứ thế suốt niên đại nầy sang niên đại khác. Quả là gò bó, trói buộc, là đường hẹp triền miên.

Thế nhưng bao lâu trái đất còn đi theo đúng quỹ đạo, tức con đường hẹp mà Thiên Chúa ấn định cho nó, thì mọi sự sẽ diễn tiến tốt đẹp, cuộc sống sẽ ổn định điều hoà. Nếu một ngày nào đó, trái đất ‘cảm thấy’ đi theo quỹ đạo là gò bó, là đường hẹp, để rồi đi trệch ra ngoài cho thong dong thoải mái… chỉ một chút xíu thôi mà!… thì đó là ngày cùng tận của vũ trụ và thế giới!

Chiếc tàu nghĩ rằng tại sao tôi cứ phải bị gò bó bởi hai đường sắt? Tại sao tôi không chạy nhảy như hươu nai, băng qua đồi núi, băng qua cánh đồng như bao nhiêu muông thú. Thế rồi nó thoát ra khỏi hai đường sắt gò bó, để được tự do tung hoành… Hậu quả của sự chọn lựa ‘khôn ngoan’ nầy sẽ vô cùng bi thảm. Nhưng nếu nó chấp nhận đi theo hai đường rây chật hẹp, nó về đến ga chót thật an toàn.

Trong gia đình, người vợ nghĩ rằng: thật uổng phí cuộc đời nếu ngày nào cũng nấu ăn, rửa chén, dọn nhà, quét sân… để sống cho chồng và cho con. Tại sao tôi không tự giải thoát mình khỏi vòng cương toả của gia đình? Tại sao lại phải chọn cửa hẹp, lại phải đi đường hẹp? Tại sao tôi không thể bay nhảy như những cô gái trong các hộp đêm?

Thế rồi cô đã chắp cánh bay, và kết cục là gia đình đổ vỡ, cuộc đời của cô lụi tàn trong đau thương và tủi nhục.

Nếu mỗi người chúng ta hôm nay cứ sống buông thả theo bản năng của mình mà không đi theo đường hẹp Chúa vạch ra cho chúng ta, tức là tuân giữ các giới răn, thì số phận chúng ta cũng như con tàu đi trật đường rầy, chúng ta sẽ lãnh lấy thảm họa. Mai đây, chúng ta có van nài với Chúa rằng: ‘Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì Chúa sẽ bảo: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’ và “Bấy giờ chúng ta sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Abraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài.”

Trái lại, nếu chúng ta chấp nhận đi đường hẹp, tức đi đúng theo đường lối Chúa như tàu đi đúng đường rầy, như trái đất quay đúng theo quỹ đạo… chúng ta sẽ được sống an bình hoan lạc ở đời nầy và được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa đời sau.

Vậy thì bước qua cửa hẹp là giá phải trả (có gì mà không phải trả giá!) cho hạnh phúc đời nầy và hoan lạc vĩnh cửu mai sau. [Mục Lục]

10. Hãy đi vào cửa hẹp – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Đọc những thông tin trên mạng và qua các báo chí chúng ta thấy một tình trạng đáng lo ngại cho nền đạo đức Việt Nam. Nền đạo đức bốn ngàn năm văn hiến đang trong tình trạng suy đồi, băng hoại thật trầm trọng. Điển hình như các vụ việc gần đây nhất như sau:

“Hiệu trưởng mua dâm học sinh và Chủ tịch tỉnh bị cáo buộc mua dâm ở Hà Giang. Hai vợ chồng bị kết án 20 năm tù mỗi người vì hành hạ một bé trai tại Cà Mau. Một nữ sinh cứa cổ người tình. Một thanh niên chặt đầu người yêu cũ. Bên cạnh đó là tệ trạng hàng ngàn phụ nữ và trẻ em bị buôn lậu với giá nhiều khi chỉ một triệu đồng Việt Nam (tương đương khoảng 50 MK) một người…”

Đó là hậu quả của một lối sống dễ dãi, ẩu thả của xã hội Việt Nam hôm nay. Họ thích tìm sự dễ dãi cho mình đến mức độ bất tuân luật pháp. Họ đề cao tự do, tự lập đến nỗi không cần tôn giáo, và tệ hơn nữa là loại trừ tôn giáo. Họ hành xử theo cách nghĩ của mình, bất chấp luật pháp, bất chấp đạo lý truyền thống của cha ông. Chúng ta biết rằng không có tôn giáo thì con người sẽ tự do hành động theo ý mình nên chẳng sợ “trời có mắt” để mà “làm điều lành tránh điều dữ” hay lời khuyên của tiền nhân “ở hiền gặp lành”. Không có tôn giáo con người không có sự sống thần linh hướng dẫn dễ lầm đường lạc lối và điều chắc chắn là chẳng ai nghe ai. Nhìn chung, ai cũng biết rằng cuộc sống dễ dãi sẽ đi tới chỗ diệt vong. Ai cũng biết rằng sự suy đồi của họ sẽ làm nghèo đất nước, làm khổ gia đình, và giết chết bản thân. Nhưng tính hưởng thụ đã đẩy họ vào con đường truỵ lạc để tranh thủ hưởng thụ theo kiểu mà Nguyễn Công Trứ bảo rằng:

Chơi Xuân kẻo hết Xuân đi,

Xuân tàn hoa rụng còn gì vui Xuân

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi vào con đường hẹp. Con đường của hy sinh vì phải bỏ lại những thú vui mau qua, những đam mê tội lỗi để sống đúng với phẩm giá con người là “nhân linh ư vạn vật”. Con đường với lối đi thanh thoát, nhẹ nhàng khỏi những tham lam bất chính, những quyến luyến phù phiếm mau qua. Chúa mời gọi chúng ta cần phải sống tỉnh thức kẻo sẽ ân hận ngày mai, khi mà mọi người từ đông sang tây đều đến dự tiệc cưới còn mình bị tống ra ngoài. Chúa nhắc nhở chúng ta còn có một sự sống hạnh phúc viên mãn là thiên đàng, là hạnh phúc viên mãn bên Chúa. Đó chính là mùa xuân vĩnh viễn, là hạnh phúc ngàn đời. Đó chính là hạnh phúc mà mỗi người chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm và chiếm hữu cho dù phải hy sinh những danh lợi thú trần gian, có khi bằng cả mạng sống ở đời này. Sự sống và hạnh phúc vĩnh viễn đó chỉ đạt được khi chúng ta biết sống hy sinh, biết tự chủ bản thân theo đường lối Chúa, biết sống cao thượng, biết tránh xa những thói đời xấu xa.

Nhưng tiếc thay, nhân loại hôm nay luôn ham sướng sợ khổ. Thích tìm sự dễ dãi hơn là những hy sinh từ bỏ. Có những bạn trẻ thích hưởng thụ nhưng không muốn làm, chỉ lêu lổng dẫn đến trở thành một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Có những bạn trẻ tìm sự dễ dãi trong quan hệ nam nữ mà đánh mất lòng tự trọng, sự trong sạch tâm hồn. Có những người luôn tìm sự dễ dãi cho bản thân, nuông chiều theo tính xác thịt dẫn đến ngoại tình, dâm ô, trộm cắp…; Có những người đang mang trong mình những căn bệnh thời đại là hậu quả của lối sống dễ dãi, thiếu tự chủ bản năng.

Người ta vẫn nói: “Hãy dừng lại trước khi qua muộn”. Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta đừng tìm sự dễ dãi đến mức độ nuông chiều theo bản năng. Hãy tự chủ. Hãy tỉnh thức. Hãy canh tân sửa đổi để trau dồi nhân đức cho bản thân hầu diệt trừ những tính hư nết xấu. Hãy sống cho cao thượng đúng với phẩm giá con người là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Hãy sống công bình bác ái và yêu thương để khỏi bị luận phạt ở đời sau. Hãy sống đời này cho nghiêm túc để đời sau chúng ta được hạnh phúc muôn đời. Hãy vì sự sống vĩnh cửu mà can đảm từ bỏ những lối đường tội lỗi hôm nay.

Nguyện xin Chúa là Đường là Sự Thật và là Sự Sống dẫn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Amen. [Mục Lục]

11. Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp

Anh chị em thân mến.

Trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine có kể lại câu chuyện chạy đua của thỏ và rùa. Con thỏ rất nhanh chân, còn rùa thì bước đi không thể so bì được với ai. Thế mà kết cuộc rùa đã thắng thỏ. Rùa biết thân phận mình, nên cố hết sức, tận dụng hết khả năng của mình để vượt chặng đường qui định. Rùa vẫn biết khả năng thắng cuộc rất mong manh.

Nhưng chính sự cần cù vượt khó: vượt qua sự mệt nhọc, vượt qua khả năng giới hạn của bản thân, vượt qua sự chê cười của đối phương. Chính những cố gắng đó đã đưa rùa đến chiến thắng.

Còn thỏ, quá ỷ lại vào tài năng bản thân, nên cứ lo rong chơi thoải mái, tìm của ăn để thưởng thức. No nê rồi mà thỏ vẫn còn nhìn thấy rùa đang lê từng bước chân nặng nề chưa đi đến đâu. Thỏ mỉm cười ung dung đánh một giấc ngon lành. Khi chợt tỉnh dậy, thỏ không còn nhìn thấy rùa đâu nữa. Thỏ bèn tăng tốc, vận dụng hết khả năng mình có, khi nhìn thấy bóng dáng rùa từ xa, thì không còn kịp nữa, rùa đã đến nơi. Thỏ đành ôm hận mà quay trở về với thất bại.

Có tài năng, nhưng quá ỷ lại, không biết vận dụng, không biết cố gắng, thì cũng trở nên vô dụng. Còn biết cố gắng vượt khó, sẽ thành công.

Chúa Giêsu bảo các môn đệ và những người thời bấy giờ: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Ngài bảo thế và Ngài đã làm gương. Ngài đã đi qua cửa hẹp của con đường Thập Giá. Ngài đã đi qua cửa hẹp của sự vâng phục, vâng phục đến hy sinh mạng sống. Ngài đã đi qua cửa hẹp của sự nhục nhã, bị người đời khinh chê. Ngài đã vượt qua tất cả và đã chiến thắng để đem sự sống đến cho con người. Vì yêu thương mà Ngài đã kiên trì vượt qua những khó khăn trở ngại để chiến thắng. Mặc dù là Con Thiên Chúa, Ngài không ỷ lại, không tự hào, nhưng với tất cả sự khiêm nhường và nhẫn nhục, mang lại chiến thắng, chứng tỏ tình yêu thương của Ngài. Chính vì thế Ngài kêu gọi mọi người đi trên con đường chiến thắng đó.

Trong mọi thời đại loài người luôn đi tìm con đường sự sống. Biết bao người đã nhìn thấy được con đường nhưng họ vẫn đi tìm, vì con đường mà họ hìn thấy không đúng như họ mong muốn, nên họ cứ mãi đi tìm, để rối đành ôm nỗi hận trong sự thất bại. Rất nhiều người không muốn đi trên con đường mà họ đã có được chiếc chìa khóa trên tay, họ không muốn mở cửa con đường, vì họ không muốn bước vào: nó chật hẹp quá, nó khó khăn quá và nhiều lúc không biết con đường đi đến đâu mới đạt được mục đích. Chiếc chìa khóa họ có trong tay trở nên vô dụng, vì không giúp gì được cho họ. Họ cũng đành ôm nỗi thất bại trong cuộc đua về đích.

Chúng ta, những người của thời đại mới, Chúa Giêsu cũng trao cho mỗi người chiếc chìa khóa của con đường sự sống: “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Chúng ta đã nghe, đã biết rất nhiều. Chúng ta biết rất rõ con đường dẫn đến sự sống là con đường như thế nào. Nhưng chúng ta dể mang tâm trạng của con thỏ trong cuộc đua với rùa.

Trước tiên vì quá ỷ lại vào sức khỏe. Chúng ta ngỡ rằng thời gian còn dài, nên cứ mặc tình tìm sự hưởng thụ cho thân xác mà một ngày kia nó sẽ bị tiêu hao, vậy mà nó vẫn được phục vụ hết sức chu đáo, nhiều khi quá mức cần thiết, để rồi bất chấp tất cả, bất chấp cả tiếng nói của lương tâm ngay chính, bất chấp cả tiếng nói của con tim yêu thương, bất chấp cả tiếng kêu than của sự bất công mà chúng ta đã gây nên.

Chúng ta cũng ngỡ rằng, mình làm một số việc mà mình cho là đạo đức, những việc đó bảo đảm an toàn cho sự sống vĩnh cửu. Chính vì thế chúng ta cứ cho con người mình thoải mái trong lời nói, trong suy tư, trong những toan tính, và trong cách đối xử với người khác. Coi chừng chính những gì chúng ta ngỡ là đạo đức theo như mình muốn. Những gì chúng ta cho là bảo đảm, nó sẽ phản bội chúng ta. Giống như tài năng chạy nhanh của con thỏ đã phản bội nó vì sự ỷ lại và khinh dể kẻ khác. Không lẽ cuối cùng chúng ta sẽ lãnh nhận một câu nói phủ phàn:” Ta không biết các ngươi từ đâu tới”.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết tìm đúng con đường đi đến sự sống và can đảm bước đi cho đến cùng. [Mục Lục]

12. Cửa hẹp – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tin Mừng hôm nay nói đến hình ảnh cửa hẹp. Cửa hẹp là cửa khó đi qua, chỉ dành cho ít người. Kinh Thánh dùng hình ảnh cửa hẹp để chỉ những đòi hỏi của Nước Trời.

Hẹp ở đây không có nghĩa là hẹp hòi hay kém giá trị. Tính từ hẹp chỉ sự thách đố, chông gai, đòi hỏi nổ lực để kiên vững bước đi. Hẹp chỉ sự khó khăn, vất vả, từ bỏ, cần phải “chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”.

Các bài đọc Thánh Kinh hôm nay nói về cửa vào Nước Trời tuy hẹp nhưng không chật mà vẫn rộng thênh thang.

  1. Cửa hẹp mà không chật

Trong bài đọc 1, Tiên tri Isaia trình bày ý định của Thiên Chúa là muốn qui tụ mọi dân tộc, mọi quốc gia thành một dân duy nhất tin vào Ngài, đến với Ngài và hưởng hạnh phúc muôn đời với Ngài. Điều kiện phải có là lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa.

Tác giả thư Do thái trong bài đọc 2 viết rằng: vì những ai được Chúa thương thì Ngài sẽ nhận làm con. Chúa thương ai thì mới sữa dạy người ấy và có nhận ai làm con mới cho roi cho vọt. Điều kiện là vâng nghe Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Ngài khiển trách.

Bài Tin Mừng nói đến sự nổ lực suốt hành trình đức tin. Vì tất cả mọi người đều được mời gọi vào nhà Chúa Cha và được tham dự Bàn tiệc Thiên quốc. Không phải ai muốn vào cũng được. Cửa hẹp, muốn vào cần phải nỗ lực. Nổ lực sống thực thi ý Chúa, nổ lực trung thành với niềm tin của mình, nổ lực sống tình bác ái yêu thương.

Bất luận là ai cũng có thể được vào Nước Trời, miễn là phải cố gắng. Người ta sẽ từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam vào dự tiệc Nước Trời. Tất cả là do nổ lực và thành tâm thiện chí của mỗi cá nhân; không do định mệnh, không do đặc quyền đặc lợi, cũng không có chế độ ưu tiên nào, chỉ có sự tự do và quyết tâm đi vào của mỗi người trong đức tin mà thôi.

  1. Nước Trời rộng, muốn vào phải có điều kiện

Người Do thái thắc mắc muốn hỏi Đức Giêsu số lượng những người được vào Nước Trời. Số lượng và lý lịch của những người được vào Nước Trời thì không quan trọng, vấn đề chủ yếu là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.

Chúa Giêsu đã từng nói: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Nước Trời rộng bao la, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi buộc phải có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.

– Phấn đấu hạ mình xuống.

Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên, nhưng trong Nước Trời thì ngược lại. Phải phấn đấu để hạ mình xuống. Sống tinh thần yêu thương phục vụ anh em. Chúa dạy rằng: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14, 11); “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối” (Lc 14, 10); “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22, 26); “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10, 15). Cần phải biến đổi và tự hạ để có thể vào được Nước Thiên Chúa (Mt 18,3-4).

– Phấn đấu để bé nhỏ lại.

Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra, trái lại người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ đi: “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19, 21); “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3). Phải trở nên nhỏ bé như trẻ thơ thì mới được vào Nước Trời (Mt 18,3).

  1. Cửa hẹp dẫn vào Nước Trời mênh mông

Thiên Chúa đến với con người qua khung cửa hẹp.Thiên Chúa sai Con Một xuống thế làm người hiến thân chịu chết khổ đau trên thập giá vì loài người và để cứu rỗi muôn người. Thiên Chúa chọn con đường hẹp để mở lối vào khung trời bao la của tình thương. Tình thương cao cả cúi xuống với thân phận thấp hèn của con người. Sau cửa hẹp là tình thương rộng lớn của Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Đức Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Đức Giêsu đã qua. Con người đến với Thiên Chúa cũng phải qua khung cửa hẹp. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Đức Giêsu hạ mình xuống và bé nhỏ đi. Chỉ những ai hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.

Vấn đề không phải là khung cửa hẹp mà chính là bản thân mình quá cồng kềnh với những thứ danh vọng chức quyền tiền bạc. Chấp nhận thanh tẩy cần thiết, trút bỏ vướng víu để nhẹ nhàng qua khung cửa hẹp mà đến với sự sống đời đời. Sau khung cửa hẹp là tình thương đẹp ngời Thiên Chúa mở ra cho vận mệnh con người.

Cửa Nước Trời không làm bằng vật chất, nhưng là Lề Luật và các phương tiện nên thánh. Nước Trời vừa mang tính hữu hình, vừa mang tính thần thiêng. Sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật.Vào cửa hẹp phải đi qua một mình, từng người một.Bước qua cửa hẹp là giữ và sống lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian.Cửa hẹp nên để qua phải hy sinh, vất vả. Đứng trước cửa hẹp, ai lại không ngần ngại, ai dám khẳng định con đường cứu độ thật dễ dàng, ai dám tự hào về thành công bản thân? “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Lối vào dẫn tới nguồn vui vẻ và hạnh phúc đời đời.

Khung cửa hẹp, con đường hẹp là con đường tu đức Chúa Giêsu dạy cho chúng ta, nhưng đó không phải là mục tiêu. Mục tiêu là ơn cứu độ, là hạnh phúc, là niềm vui, là Nước Trời, là tình yêu và sự sống mà Chúa dành cho con người. Mục tiêu ấy chúng ta chưa đạt được cách trọn vẹn ở đời này, nhưng cũng đã đạt được một phần nào ngay trong hành trình của cuộc sống đời thường.

Hãy bước theo Đức Kitô. Hãy trở nên giống Ngài bằng cách chấp nhận những thử thách, những thập giá. Vì đó là khung cửa hẹp, chúng ta cần phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh cửu, đón nhận vinh quang phục sinh. Một cuộc “chiến đấu” để cuối cùng có thể nói được như thánh Phaolô: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện”(2Tm 4,6-8). [Mục Lục]

13. Hãy vào cửa hẹp

Một nhà văn kể câu chuyện giả tưởng: Satan họp hội nghị thảo luận về phương thức chiếm đọat các linh hồn. Nhiều ý kiến các cấp quỉ được phát biểu. Nhưng ý kiến được hội nghị tán đồng là của một quỉ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này:”Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết, rồi hãy ăn năn trở lại, hãy vui sống đã”.

Biết bao người đã không nghĩ đến hậu quả mà chỉ nhất thời thỏa mãn những cơn mê say của danh lợi thú trần gian. Họ lao đầu vào cuộc chơi mà không nghĩ đến hậu quả. Họ tìm cách thỏa mãn đam mê của mình mà bất chấp những hành động bạo ngược với gia đình và xã hội.

Theo báo Kiến Thức: Ngồi co ro trong một góc nhỏ của Trung tâm giáo dục xã hội Thanh Hà, Hải Dương, nhìn cảnh đoàn tụ, vui vẻ của các trại viên khác với gia đình, Tùng bỗng thấy hụt hẫng, tim nhói đau xen lẫn nỗi ân hận vô cùng. Chỉ vì đua đòi, ham mê rượu chè đã khiến Tùng mất đi tất cả, từ hạnh phúc gia đình đến tương lai, tình cảm và nhân cách. Để rồi bây giờ, khi rượu không còn, cơn say đã tỉnh, mất quyền tự do, tình thân nhạt nhòa, Tùng mới ân hận vì những gì mình đã làm…

Sinh ra trong một gia đình trí thức, bố mẹ đều là công chức nhà nước, nên cuộc sống của Tùng luôn là niềm mơ ước của bao đứa bạn cùng trang lứa. Sống trong cảnh được cưng nựng, nên từ nhỏ Tùng đã có tính ỷ lại, muốn hưởng thụ, lười lao động. Không nằm ngoài quy luật, Tùng trượt sâu vào hố đen tội lỗi, gây bao muộn phiền, đau đớn cho gia đình và xã hội. Để hôm nay, ngồi trong nhà lao, mới nghĩ lại thì quá muộn…

Cuộc đời nếu biết trước ngày mai sẽ ra sao có lẽ sẽ không có những sai lầm đáng tiếc xảy ra. Cuộc đời nếu biết rằng thời gian chẳng còn nhiều, có lẽ con người sẽ sống có trách nhiệm hơn, sẽ sống tốt hơn. Nhưng đáng tiếc nhiều người đã không nghĩ đến ngày mai, nhiều người lại cho rằng còn quá nhiều thời giờ nên vẫn đàng điếm xa hoa, vẫn lao vào biết bao cuộc vui thác loạn…

Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa hẹp mới đưa ta tới sự sống đời đời. Cửa hẹp đòi phải hy sinh. Cửa hẹp đòi phải phấn đấu, phải nỗ lực không ngừng. Cửa hẹp đòi ta không được chiều chuộng thân xác, không tìm thỏa mãn thú vui xác thịt. Còn đường thênh thang cho ta thỏa mãn cơn khát nhất thời nhưng lại là thuốc độc khiến ta mất mạng đời đời, có khi niềm vui chóng vánh còn để lại những hệ lụy đắng cay trong cuộc đời.

Có một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có được một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh. ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một ngôi nhà theo ước mơ. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một ngôi nhà, hai vợ chồng đã tan vỡ (…)

Quả thực, con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài. Không có thành công nào lại không là kết quả của một nỗ lực hy sinh. Không có một vinh quang nào lại không kèm theo khổ luyện và phấn đấu. Thế nên, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta đừng tìm cách thỏa mãn cơn khát nhất thời mà phải hướng tới mục đích lâu dài. Đừng vì niềm vui nhỏ, mau qua mà đánh mất niềm vui to lớn viên mãn trong Nước Trời.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết đi vào con đường hẹp để từ bỏ những niềm vui bất chính mau qua, những danh vọng hão huyền. Ước gì chúng ta luôn can đảm chiến đấu can trường để chống lại những cám dỗ của danh lợi thú trần gian. Xin Chúa luôn nâng đỡ và thêm ơn cho chúng ta. Amen. [Mục Lục]

14. Đường vào Nước Trời – Veritas

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)

Có nhiều hay ít người được cứu độ? Những ai được cứu độ? Phải làm gì để được cứu độ? Đây là những câu hỏi rất quan trọng. Sở dĩ người Do thái đặt câu hỏi nhiều hay ít người được cứu độ, vì họ tin là chỉ có người Do thái, chỉ có dân tộc Do thái là dân riêng mới được cứu, còn dân ngoại thì Thiên Chúa tiêu diệt hết. Nơi Cựu ước chúng ta cũng có thể thấy quan niệm này nơi tiên tri Giona, ông không vâng lời Chúa, trốn đi để khỏi phải rao giảng lời Chúa cho Israel và dân ngoại, mà dân ngoại thì Chúa đâu có cứu cho nên giảng làm gì. Người biệt phái thì họ càng tin chắc hơn quan điểm này. Quan điểm này sau đó nhiễm luôn cả giám mục Jancénius, có muốn nên thánh mà Chúa không cho thì cũng hư đi thôi, hậu quả là người ta sống buông thả, hưởng thụ, không được đời sau thì phải bám lấy cái đời này thôi.

Thật sự tìm hiểu kỹ Thánh Kinh thì không phải như thế, mà Chúa cứu cả dân ngoại. Lịch sử cứu độ Cựu ước, sau thời kỳ Babylon Chúa đã làm cho dân ngoại qui về Thiên Chúa, đến nỗi cả đế quốc Ba Tư là dân ngoại cũng yểm trợ cho dân Israel trở về tái thiết quê hương.

Isaia nơi bài đọc I cho thấy Chúa tập họp các dân nước đến và cho thấy vinh quang Chúa. Isaia trình bày cho chúng ta rất rõ ý muốn và tình yêu của Giavê Thiên Chúa qui tụ mọi dân tộc, biến họ thành một dân duy nhất. Dân Israel trở về quê hương đầy phấn khởi và hy vọng sau một thời kỳ dài làm nô lệ bi đát, ghê tởm. Khi trở về rồi thì họ phải đương đầu với thực tế khó khăn ghê gớm. Vì tế, Isaia cố gắng đem lại cho họ nghị lực đã bị suy giảm và có thể rơi vào tuyệt vọng bằng cách là diễn tả một tương lai sáng chói cho một dân được tuyển chọn, dân đó chính Chúa chọn lựa làm dấu chỉ cho sự hiệp nhất mọi dân nước, mà dân nước này cũng được tiếp nhận cùng với dân riêng thuộc về Thiên Chúa, tôn thờ Thiên Chúa. Đó chính là sự hướng dẫn tuyệt diệu trong Hội thánh do Đức Kitô thiết lập cho cả nhân loại, cho cả thế giới ở mọi thời và mọi nơi.

Với ý chí ham hiểu biết, với tính tò mò, chúng ta muốn hỏi nhiều hoặc ít người được cứu độ như người Do thái đã hỏi Chúa Giêsu. Nơi đoạn Tin Mừng chúng ta đọc lại hôm nay, Chúa Giêsu đã không trả lời thẳng câu hỏi nhiều hay ít. Nếu Ngài trả lời nhiều người được cứu độ thì người ta sẽ sống buông thả. Nếu Ngài trả lời ít người được cứu độ thì người ta sẽ thất vọng buông xuôi, hoặc sẽ rơi vào tâm trạng của người Do thái bấy giờ là tự đắc, tự mãn, vênh váo là chỉ có Chúa cứu dân tộc Do thái thôi.

Tuy nhiên, trong Phúc âm có lời Chúa châm biếm họ: “Không phải những kẻ nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ý Chúa. Trong ngày phán xét nhiều kẻ nói chính tôi nhân danh Chúa làm được cái này, làm cái kia, nhân danh Chúa trừ quỉ, nói tiên tri, làm phép lạ… Bấy giờ chủ tuyên bố: Ta không biết các ngươi là ai, hãy xéo đi khỏi mặt Ta hỡi những phường tác quái”.

Vì thế, lẽ ra người ta phải đặt câu hỏi: Làm sao để được cứu độ? Làm gì để được cứu độ? Cho nên Chúa trả lời các người hỏi là: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào Nước Trời”, chứ Ngài không trả lời là nhiều hay ít người được cứu. Như thế, đường vào Nước Trời hẳn không phải là thênh thang mà là cửa hẹp, cho nên phải chiến đấu. Mà nói đến chiến đấu thì chúng ta còn nhớ bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước và được tiếp nối qua bài Tin Mừng hôm nay thì cuộc đời Giáo Hội lữ hành là một cuộc đời dân Chúa chiến đấu. Có nhiều lãnh vực phải chiến đấu quá đi, nhưng chiến đấu với chính mình là quan trọng. Chiến đấu với cái tôi rất là khó, vì cái tôi cồng kềnh của tự kiêu, phô trương; cái tôi nặng nề của vun vén cá nhân; cái tôi phình to vì tự hào, tham danh vọng… Có lẽ cửa trời là một cửa không hẹp, nhưng chỉ có cái tôi cồng kềnh, cái tôi nặng nề, cái tôi phình to, to quá mức cái cửa cho nên không vào được.

Lucife đã phình to, Ađam Eva đã phình to, vì thế Chúa nói hãy chiến đấu, chiến đấu cho cái tôi nhỏ lại trước anh em, chiến đấu cho cái tôi khiêm hạ trước Thiên Chúa rất cần thiết. Ai trong chúng ta cũng cảm thấy rằng, có những lúc trong mình cái tôi có khuynh hướng muốn bành trướng để thu tích. Thu tích trí thức, thu tích đạo đức, thu tích chức vụ, thu tích sự tín nhiệm và có khuynh hướng muốn vượt lên trên người khác. Do đó nó làm cho lòng chúng ta sơ cứng, khép lại trong mức độ khác nhau tùy mỗi người. Vì thế, Chúa muốn chúng ta chiến đấu vào của hẹp, một cuộc chiến đấu vào của hẹp là không phải tự mình đặt vào mà chính Chúa dẫn đem chúng ta vào.

Thánh Phaolô trong thơ gởi tín hữu Do thái hôm nay trình bày cho chúng ta thấy chiến đấu là phải trải qua những đau khổ thử thách. Tất nhiên chiến đấu là phải can trường; tất nhiên chiến đấu là gặp những thử thách, gặp những thương tích, gặp những đau khổ. Nhưng Thiên Chúa như một người Cha vừa nhân hậu xót thương, vừa tài trí khôn ngoan, Ngài quan tâm, Ngài sửa dạy, Ngài bổ sức, nâng đỡ, vì thế thánh Phaolô khích lệ chúng ta nơi bài đọc II: “Đừng để mình vấp phạm trước nghịch cảnh, nhưng hãy can đảm và kiên trì”.

Bước đường xem ra càng khó khăn, chúng ta càng cần phải hy vọng, tin tưởng để chiến đấu. Chúng ta cần tin Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn lấy tình phụ tử chăm sóc và nâng đỡ. Ngài chỉ muốn chúng ta được hạnh phúc, được sự lành, dù Ngài có sửa dạy, có quở trách, có đánh đòn là chỉ vì Ngài đã chọn chúng ta làm con riêng của Ngài. Chúng ta cần tin vào Ngài để chiến đấu và chắc chắn chúng ta sẽ vào được cửa trời, cửa xem ra rất hẹp.

Qua kinh tin kính mà chúng ta sẽ tuyên xưng, cậy nhờ Mẹ Maria giúp chúng ta tin mạnh mẽ hơn, đồng thời cũng xin Mẹ giúp chúng ta quảng đại, can đảm để chiến đấu thật lực. [Mục Lục]

15. Cửa Hẹp – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Những thách thức gian truân trong cuộc sống là những bước thang thanh luyện và lối hẹp tiến lên.

Thiên Chúa đã chọn dân Do-thái làm dân riêng để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Thiên Chúa đã từng bước dẫn dắt lịch sử của Dân riêng qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Qua dân này, Thiên Chúa đã mạc khải về chính mình, về vũ trụ và con người. Được chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế là một ưu quyền. Tuy nhiên, Ơn Cứu Độ lại phổ quát ban cho hết mọi người. Không người nào hay dân tộc nào có đặc quyền sở hữu ơn cứu độ. Để nhận lãnh ơn cứu độ, mỗi cá nhân phải biết mở rộng tâm hồn đón nhận. Nước Trời được mở ra cho mọi người tiến vào. Không một ai là ưu tuyển được tự động bước vào Nước Trời. Tiên tri Isaia đã trình bày: Đây Chúa phán: “Ta đã biết các việc làm và tư tưởng của chúng; Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: Chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta (Is 66, 18). Chúa sẽ qui tụ mọi dân từ khắp nơi, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ hay bất cứ sự khác biệt nào. Ai muốn tham dự Nước Chúa, hãy bước vào qua cửa hẹp.

Isaia đã nói tiên tri về một trời mới và đất mới. Một dòng dõi trường tồn. Thiên Chúa sẽ qui tụ mọi người tin về một mối: Vì chưng lời Chúa rằng: Cũng như Ta tạo thành trời mới, đất mới đứng vững trước mặt Ta thế nào, thì dòng dõi ngươi và danh tánh các ngươi sẽ vững bền như vậy” (Is 66, 22). Một viễn tượng cao vời và một niềm hy vọng tuyệt đối vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đã hơn hai ngàn năm trăm năm từ khi tiên tri Isaia xuất hiện, cuộc lữ hành đức tin tiếp tục diễn tiến từ đời này qua đời kia. Niềm hy vọng trời mới và đất mới là cùng đích của mọi loài thụ tạo. Thiên Chúa hiện hữu tự đời đời. Các thế hệ con người nối tiếp và hành trình sống niềm tin vẫn luôn tiến tới. Mỗi người chúng ta được mời gọi bước vào chương trình cứu độ và chung kết sẽ được diện kiến vinh quang Thiên Chúa.

Chúng ta biết rằng cửa Nước Trời rộng mở nhưng không phải tất cả mọi người đều vào được. Trong khi Chúa giảng: Có kẻ hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Chúa Giêsu không trả lời nhiều hay ít người được cứu độ, nhưng Chúa đã mở ra một lối vào. Không ai có vé đặc biệt hay ưu quyền dành riêng. Mọi người đều bình đẳng trên con đường tiến về quê trời. Chúa Giêsu phán rằng: “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được (Lc 13, 24). Cửa rộng rãi thênh thang sẽ dẫn vào nơi hoan lạc của trần thế hưởng thụ và tiêu xài. Cửa rộng rãi tự do sẽ dẫn chúng ta vào con đường cụt. Chúa Giêsu nhập thế qua cửa hẹp. Cửa hẹp là lối đi lên. Cửa hẹp đòi hỏi phải từ bỏ, hy sinh và tiết chế. Cửa hẹp dẫn lối vào Nước Trời. Đúng thế, không mấy người thích đi vào cửa hẹp. Vì qua cửa hẹp đòi hỏi phải sống khiêm hạ, trau dồi nhân đức và sống khổ hạnh. Sống khoan dung độ lượng tha thứ bỏ qua những vướng bận cuộc đời.

Chúa Giêsu ví Ngài như là cửa chuồng chiên, ai qua cửa mà vào sẽ tìm được nơi an nghỉ thỏa thuê. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Ngài qua lối cửa hẹp. Ngài không thường hiện diện ở những nơi nhà cao cửa rộng hoặc nơi biệt thự khang trang, mà là nơi sườn núi, ngoài cánh đồng, nơi hoang mạc, chỗ nghèo hèn, bên bãi biển và nơi cung đường. Chúa mở lối vào qua cửa hẹp bằng Tám Mối phúc thật và luật yêu thương bác ái. Cửa hẹp là cửa an lạc, thanh thản và thánh thiện. Con đường hẹp cũng là con đường đi lên núi sọ. Con đường Chúa đã đi qua là con đường thánh giá, đau khổ và từ bỏ. Mọi tín hữu, dù sống trong bậc tu trì hay bậc sống gia đình đều được mời gọi đi vào con đường hẹp. Con đường hy sinh và từ bỏ ý riêng, để cùng nhau sánh bước trên con đường trọn lành. Bước theo Chúa vào con đường hẹp sẽ dẫn tới hạnh phúc Nước Trời.

Đi theo Chúa vào con đường hẹp thì không dễ. Không phải mọi người đều hưởng ứng chấp thuận. Thực tế, chúng ta rất ngại phải từ bỏ hay buông bỏ những sự lỉnh kỉnh ở đời như những thói hư tật xấu gắn liền với con người trong đời sống hằng ngày. Bỏ đi những thói xấu hay tội lỗi, chúng ta tiếc xót lắm. Chúng ta than van rằng đã vất vả làm việc cả tuần, cuối tuần phải hưởng thụ nhậu nhẹt chơi bời chút đỉnh cho vui cuộc đời. Vào cuối tuần mới có giờ rảnh rang, chúng ta phải đi giải trí Casino đôi chút chứ. Cửa rộng hay cửa hẹp có khác gì. Nghĩ rằng cuộc sống có là bao, hưởng thụ đi kẻo muộn. Có tiền bạc rủng rỉnh, nên tiêu xài mua sắm cho thỏa lòng ước mong. Chúng ta không muốn bị gò bó trong những luật lệ bị cấm đoán. Cùng thi đua với chúng bạn, chúng ta cứ thong dong hưởng phước cuộc đời. Tin là đời chúng ta còn dài, không cần phải lo lắng chi nhiều. Thế là chúng ta đang chuyển bước sang con đường rộng rãi thênh thang với hoa thơm cỏ lạ.

Đôi khi nghĩ thầm rằng chúng ta là những tín hữu ngoan đạo rồi. Chúng ta đã lãnh nhận các Bí Tích đầy đủ, tham dự các ngày lễ Chúa Nhật và lễ Trọng, xưng tội một năm một lần và đọc kinh sáng tối mỗi ngày. Hơn nữa, chúng ta yên trí mình là đạo gốc nhiều đời đã có ông bà, cha mẹ và bà con lối xóm gia hộ để có vé vào cửa Nước Trời. Chúng ta cũng đã cố gắng gia nhập các Hội Đoàn để sống đạo. Chúng ta cũng không muốn ai can thiệp vào đời sống riêng tư. Chúng ta không muốn bị nghe lời cảnh tỉnh và sửa dậy qua lời Chúa hằng tuần nơi tòa giảng. Thích nghe (tiếng ngoại quốc) mà không hiểu thì vẫn vui hơn, vì không bị lương tâm cắn rứt. Chúng ta an vui với cách sống riêng của mình và thù ghét những ai chắn đường cản lối bước ta đi. Đôi khi nghĩ rằng chúng ta độc lập tự do quyết định đường đời của mình, không cần ai nhắc nhở sửa dậy. Hãy biết lắng nghe!

Thánh Phaolô tha thiết mời gọi thái độ khiêm hạ: Anh em thân mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: “Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con (Dt 12, 5). Chúa đánh động tâm hồn chúng ta qua nhiều cách. Có rất nhiều khi chúng ta đang xa lạc vào đường lầm nhưng không nhận ra. Như Vua Đavít chỉ nhận ra lỗi lầm khi tiên tri Nathan gợi ý và sửa dạy. Những thói quen cuộc sống tạo thành tính tình cỗ hữu sai lầm, có người nói rằng tính tôi là vậy đó, ai chịu được thì chịu. Cần có những ánh sáng dọi chiếu để nhận diện ra chính mình. Chúa thương chúng ta nên Chúa sửa dạy: Vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con (Dt 12, 6). Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Những thách thức gian truân trong cuộc sống là những bước thang thanh luyện và lối hẹp tiến lên.

Không phải cứ mang danh Kitô hữu là chúng ta bảo đảm được dự phần phúc thiên đàng. Không chỉ thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà chúng ta được vào Nước Trời, mà là dành cho những ai làm theo thánh ý Chúa. Việc sống và thực hành lời của Chúa phải sinh hoa kết qủa tốt. Đức tin phải có hành động tốt mới phát triển. Chúng ta đặt niềm tin nơi Chúa như thánh Phaolô đã dậy rằng hãy chạy đến cùng đường và giữ vững đức tin. Đừng để công lao cuộc sống đạo của chúng ta ra vô ích. Chúng ta phải chiến đấu tới cùng để đạt triều thiên sự sống. Chung hưởng hạnh phúc với các tổ phụ cha ông, đừng để bị gạt ra ngoài như kẻ gian ác: Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng (Lc 13, 28).

Lạy Chúa, cửa Nước Trời luôn rộng mở. Ngõ vào cửa Nước Trời là ngõ hẹp. Xin cho chúng con biết trút bỏ những tham sân si và bận vướng cuộc đời để thanh thản bước theo Chúa. Xin Chúa dẫn dắt chúng con đi vào đường ngay nẻo chính. Amen. [Mục Lục]

16. Cửa hẹp – André Sève

(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Thánh Luca nhắc nhở chúng ta rằng “chúng ta đang tiến bước về Giêrusalem”. Chúa Giêsu “rao giảng và lên đường” tiến về sự thử thách, các bài học tỏ ra cấp bách. Thánh Luca đặt ra một câu hỏi thuần túy tò mò:

– Có nhiều người được cứu rỗi hay không?

– Ngươi hãy chiến đấu để được cứu rỗi! Hãy gắng sức mà vào cửa hẹp.

Hãy chiến đấu, hãy gắng sức! Luca thích ý tưởng chiến đấu được lấy lại từ người thầy Phaolô của ông. Chúng ta có thể làm cả một tuyên bố với những lời Phaolô kêu gọi chiến đấu:

“Tôi chiến đấu với sức mạnh của Chúa Kitô vốn tác động mạnh mẽ nơi tôi” (Cl 1,29); “Êphaphô chăm lo cầu nguyện” (Cl 4,12); “Hãy chiến đấu lành mạnh cho đức tin, giật lấy sự sống vĩnh cửu” (1Tm 6,12)

Đây là cuộc chiến đấu thực hành các lời khuyên đã nhận lãnh. Đã thấy Chúa Giêsu, đã lắng nghe và thậm chí đã ngồi trước mặt ngài vẫn chưa đủ để mở cửa Thiên Chúa.

– Ta chẳng hiểu các ngươi nói gì và từ đâu đến!

Chúng ta không thể trở thành Kitô hữu bằng việc đọc sách thánh và mơ mộng. Cần phải thực hành. Một thứ lo âu đi ngang qua các trang Tin Mừng: điều mà các bạn đang khám phá, các bạn có thực hành hay không?

Ý tưởng “thực hành”đã bị quá hạn hẹp trong việc thực hành bí tích. Người ta nói: “Tôi là người lãnh đạo”. Hành đạo như thế nào? Chúng ta có thể đi lễ hằng ngày và vẫn bị đuổi ra khỏi cửa trời nếu chúng ta không thực sự sống theo Tin Mừng: “Ta không biết ngươi từ đâu đến!”

May thay lời kêu gọi say mê thực hành được soi sáng, cửa hẹp được nới ra thật rộng: “Người ta sẽ đến từ Đông, Tây, Nam, Bắc”. Đây cũng là bài ca chiến thắng của sách Khải Huyền, được lấy lại trong lễ Các Thánh: “Tôi thấy một đám đông không thể đếm được…” (Kh 7,9).

Nhưng lời cuối cùng của bài suy niệm này báo động cho chúng ta: “Có những người rốt hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ trở nên rốt hết”. Chúng ta sẽ thấy lại sự đạo ngược mà thánh Luca thường làm chúng ta hình dung, trong khi nhắc đến ở đây với mức độ vừa phải. Không phải tất cả những người đầu tiên sẽ trở nên rốt hết, người ta nói với chúng ta chỉ một số mà thôi, những người hạng nhất khi đó là những người học hiểu đạo và những người rốt hết khi phải thực hành đạo, cũng phải sắp hàng để đến Nước Trời. [Mục Lục]

17. Hy vọng và cầu nguyện – Achille Degeest

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Tách rời bài đọc hôm nay khỏi bối cảnh toàn bộ Phúc Âm, người đọc dễ sinh nản chí. Trong bài chỉ thấy nói đến cửa hẹp nhiều kẻ sẽ không qua được, đến sự khai trừ khỏi Nước Trời v.v… Chúa nhân lành trong bài giảng trên núi, từng nói đến Cha với niềm âu yếm, tại sao ở đây lại có thể nói những lời nghiêm khắc đến thế? Chúng ta cần nhớ rằng Phúc Âm là một pho sách nhất phiến, mạch lạc chặt chẽ, đoạn này soi sáng giải thích đoạn kia. Vì thế không nên hiểu tình âu yếm của Cha như một thái độ nhu nhược, không nên giải thích sự đòi hỏi gắt gao của Người như một chủ trương nghiêm khắc. Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta về sự cần thiết phải từ bỏ và bổn phận phải theo đúng chân truyền.

1) Phải từ bỏ.

Không lọt qua được cửa hẹp là những kẻ không muốn từ bỏ những hành trang bề bộn. Về mặt trí thức, họ khư khư bảo vệ những thành kiến, những hệ thống tư tưởng, những chủ nghĩa, những ý kiến của họ. Về mặt luân lý, họ không từ bỏ những thói quen ích kỷ, thái độ tự tại trong vật chất, những lợi nhuận bất công, những hưởng thụ xác thịt. Một số lớn không từ bỏ những thứ cồng kềnh đó nhưng vẫn muốn xưng mình là Kitô hữu, muốn vượt qua cánh cửa Phúc Âm, tuy nhiên trước con mắt Thiên Chúa họ không qua được. Chính ở điểm này chúng ta không được để cho niềm cậy trông của mình bị dập tắt. Đối với Thiên Chúa, không có điều gì Người không làm được. Vả lại Thiên Chúa luôn luôn giúp đỡ kẻ có thiện chí. Nếu ngay tức khắc chưa thể vượt qua cửa hẹp, chúng ta có thể với sự trợ giúp của Thiên Chúa, loại đi một vài thứ lỉnh kỉnh nói trên. Nếu ngay tức khắc chưa thể tuân giữ tất cả những điều giảng dạy của Phúc Âm, chúng ta có thể với sự trợ giúp do Đức Kitô bảo đảm, bắt đầu tuân giữ một vài điều. Chúa không bao giờ từ chối giúp đỡ kẻ thành tâm thiện chí. Mỗi ngày thêm cố gắng, phấn khởi vì chắc tâm được Chúa giúp đỡ, chúng ta hy vọng vượt qua được cửa hẹp, là điều mà bình thường với sức riêng không ai dám mơ tưởng.

2) Phải theo đúng chân truyền.

Một số nào đó có thể dám tự hào được Đức Kitô nhìn nhận là môn đệ nhưng thật ra Đức Kitô không nhận họ là người của Chúa. Đó là những kẻ uốn nắn Phúc Âm theo ý riêng mình. Ngày nay có những kẻ giả mạo Phúc Âm, những kẻ xuyên qua lời phán của Chúa, muốn đưa ra mớ triết lý, những quyền lợi, những chọn lựa lập trường thế tục của họ. Thay vì quy tư tưởng theo Phúc Âm, những kẻ ấy quy Phúc Âm theo tầm cỡ và tiêu chuẩn tư tưởng của họ. Ngỡ rằng Chúa bỏ đi, Chúa khoá cửa rồi, họ gõ cửa xin vào. Nhưng Chúa từ chối, Chúa bỏ mặc họ với thế gian của họ, vì họ không đón nhận Phúc Âm chân truyền bằng một tinh thần tôn trọng sự thật. Chúng ta lấy ví dụ trường hợp một số hành động chính trị nào đó. Hành động chính trị của các Kitô hữu trong quá khứ và nhất là trong hiện tại luôn luôn bị cám dỗ muốn đem Đức Kitô vào đời sống công cộng, muốn viện dẫn Đức Kitô làm hậu thuẫn cho một hoạt động đảng phái; thật ra ai cũng biết, hoạt động đảng phái làm cho Phúc Âm mất đi tính chất chân truyền. Đối với xu hướng ấy, đối với những kẻ có chủ trương ấy, Đức Kitô đóng cửa lại. Chúa mở cửa cho hầu hết mọi chủ trương, đường lối, ngoại trừ sự giả dối. [Mục Lục]

18. Qua cửa hẹp mà vào – Charles E. Miller

(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)

Có khó để vào nước thiên đàng không? Chúa Giêsu nói như thế khi Ngài cảnh cáo: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Lời cảnh cáo của Ngài có một điều gì đó làm bối rối, từ Ngài nói rằng: “Mọi người sẽ đến từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam nhiều người sẽ đến chỗ của mình nơi bữa tiệc trong nước Thiên Chúa”. Lời tiên tri của Isaia hôm nay đã nói về cùng một điều này. Nói cách khác sẽ có nhiều dân tộc ở trong vương quốc. Vậy tất cả những người đó họ làm thế nào để đi qua cửa hẹp được?

Tôi nghĩ điều gì xảy ra trên xa lộ “siêu tốc” khi có một tai nạn tệ hại xảy ra. Cảnh sát liền đóng cửa ba ‘len’ chỉ cho một ‘len’ duy nhất còn lại để chạy giống như một cửa hẹp vậy, tất cả phương tiện giao thông đều phải giảm tốc độ và lần lượt đi qua một cái chốt hẹp. Khi đó tôi nghĩ về cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã ám chỉ tới, tôi thấy mọi người đều phải xếp hàng giống như những chiếc xe hơi trên xa lộ, di chuyển một cách chầm chậm xếp hàng qua một ‘len’ mở duy nhất. Những tài xế đều bực bội, họ ồn ào giận dữ và trao đổi với nhau những cử chỉ tục tĩu. Những chiếc xe hơi và khí hậu thì quá nóng. Nơi chốt đóng thì chật ních các xe. Tội lỗi cũng giống như tai nạn xảy ra trên xa lộ, là nguyên nhân của mọi sự phiền phức.

Đây không phải là một cảnh mời mọc, hình ảnh này có nghĩa là chúng ta phải vào thiên đàng. Nhưng khi tôi nghĩ rõ ràng hơn về hình ảnh cái cửa hẹp, tôi nhận thấy rằng thật sự chỉ có một người có thể đi qua cửa ấy. Con người đó là Chúa Giêsu. Khi Người đi qua cửa đó mà tới thiên đàng Ngài đã đi vào trong mầu nhiệm Vượt Qua là sự chết và sự sống lại của Người. Chúng ta cũng phải buộc chính chúng ta đi qua cửa hẹp. Tất cả chúng ta đều cần làm điều đó, để bảo đảm rằng chúng ta được hiệp nhất với Chúa Giêsu. Nhiều người đã không đi qua cánh cửa độc nhất đó là thân mình của Đức Kitô, Thân Mình mầu nhiệm của Đức Kitô là Giáo Hội.

Tuy nhiên Chúa Giêsu đã cảnh cáo một lần thứ hai, Chúa Giêsu nói với mọi người sẽ phải minh chứng với chủ nhà: “Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài đã dạy dỗ trên đường phố của chúng tôi”. Nhưng ông chủ sẽ trả lời: “Tôi không biết các anh từ đâu đến, hãy xéo ra khỏi mặt Ta hỡi phường bị chúc dữ”.

Đây là sự phiền muộn bởi vì chúng ta đã ăn và uống trước sự hiện diện của Chúa tại Thánh Lễ chúng ta đã tham dự và thông dự vào Thân Mình và Máu Người. Dĩ nhiên là tham dự cách thụ động trong Thánh Lễ thì không đủ. Lãnh nhận Thánh Thể mà không có một sự sốt sắng thúc giúc thì làm sao Chúa Giêsu biến đổi chúng ta thành những giá trị thiêng liêng được. Những gì mà chúng ta đã thực hiện nơi Thánh Lễ, đặc biệt là khi lãnh nhận Thánh Thể phải ảnh hưởng tới cung cách sống của chúng ta. Chúa Giêsu không dạy chúng ta trong những đường phố, nhưng Ngài đã dạy dỗ trong nhà thờ của chúng ta trong phần phụng vụ lời Chúa. Đó là lý do vì sao chúng ta phải để tâm lắng nghe những bài học trong Thánh Kinh, ví dụ như trong thư gởi tín hữu Do Thái ngày hôm nay: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy và có nhận ai làm con cái thì Người mới cho roi cho vọt”.

Với tất cả những điều như thế thì đòi hỏi không thể thiếu được là chúng ta phải trở nên một dân trung thành, chúng ta vẫn phải hợp nhất với Chúa Kitô trong thân thể mầu nhiệm của Người là Giáo Hội. Đó là phương cách để bảo đảm rằng chúng ta sẽ phải đi qua tất cả sự ồn ào chán nản của thế gian này mà vào vương quốc đời đời. [Mục Lục]

19. Trước cửa thiên đàng

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ở trang trong của một nhật báo xuất bản tại Manila, người ta đã đọc được câu chuyện vui sau đây:

Trước cửa Thiên đàng, linh hồn một nông dân xuất hiện xin Thánh Phêrô cho vào hưởng nhan Thiên Chúa. Thánh Phêrô nghiêm nghị hỏi:

– “Con đã sống như thế nào trên trần gian mà giờ đây con muốn vào Thiên đàng?”

Linh hồn người nông dân trả lời với hết lòng chân thật:

– “Dạ, thưa Thánh Phêrô, 70 năm qua trên trần gian con đã cần cù làm ăn, tuân giữ mọi điều luật Chúa dạy, không bao giờ phạm tội làm mất lòng Chúa. Con muốn vào Thiên đàng để được hưởng nhan thánh Chúa đời đời”.

Thánh Phêrô nghiêm nghị trả lời:

– “Con đợi ta xem lại các bản phúc trình mà thiên thần bản mệnh của con đã gởi về”. Trong giây phút im lặng, với vẻ mặt nghiêm nghị, Thánh Phêrô lần mở ra kiểm soát thật kỹ những phúc trình về cuộc đời của người nông dân. Quả thực, đúng như lời ông khai báo. Thánh Phêrô không tìm thấy bất cứ sai lỗi nào trong các bản phúc trình ấy cả. Sau giây phút suy nghĩ thêm, thánh nhân nghiêm nghị thêm, thánh nhân nghiêm nghị trả lời cho linh hồn người nông dân:

– “Con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng”. Thánh Phêrô ôn tồn giải thích lý do: “Con có biết không, trên Thiên đàng nầy, kể cả chính bản thân ta đây nữa, tất cả mọi linh hồn vào đây đều là những linh hồn tội lỗi, đã làm phiền lòng Chúa Giêsu rất nhiều, nhưng đã sám hối ăn năn, được Chúa thứ tha, rồi mới vào đây được. Còn con thì thật là khác thường. Con suốt đời không phạm tội gì cả. Vậy con không đủ điều kiện để vào Thiên đàng. Ta cho con trở lại trần gian sống thêm ít năm nữa xem sao để con có điều kiện mà trở lại đây vào Thiên đàng”.

Thưa anh chị em,

Đây là một câu chuyện vui có thể giúp chúng ta nhìn vào cuộc đời quá khứ của mình dướci ánh sáng của Lời Chúa hôm nay. Nước Trời là của những tâm hồn tội lỗi nhưng đã sám hối ăn năn trở về cùng Chúa. Nào ai dám tự phụ cho mình đã không bao giờ lầm lỗi, không bao giờ làm phiền lòng Thiên Chúa và xúc phạm đến anh chị em xung chung quanh. Chúng ta không nên có thái độ giả hình, tự phụ, cho mình là trong sạch, tốt lành hơn kẻ khác, xứng đáng được vào Nước Trời. Đừng tưởng như những người Do Thái, cứ tưởng là Dâng riêng của Chúa, là con cháu của Abraham là đương nhiên được bảo đảm chắc chắn được vào Nước Trời. Vì không phải bất cứ ai thưa: “Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời”, cũng không phải tất cả những ai đã được diễm phúc đồng bàn ăn uống với Chúa Giêsu, được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, đều là những người có đủ tiêu chuẩn bảo đảm cho một tấm vé vào cửa Thiên đàng!

Vấn đề là phải phấn đấu “vào qua cửa hẹp”, “phải dùng sức mạnh” mới lọt được cửa hẹp dẫn tới bàn tiệc Nước Trời. Bởi vì, trước cửa Nước Trời, mọi người đều bình đẳng để vào, không có ưu tiên dành cho những người có lý lịch tốt, hay có gốc gác bự, có ô dù… Cũng không có chuyện dành chỗ trước, cũng chẳng có chuyện chạy chọt đút lót, cậy quyền cậy thế, hoặc dựa vào thành tích quá khứ để đòi hỏi cho mình quyền ưu tiên. Vả lại, cũng đừng quan niệm bàn tiệc Nước Trời như một tiệc chiêu đãi có tính cách phô trương trình diễn. Trái lại, đây phải là một bàn tiệc của những người chiến thắng, mà chỉ có những người đã từng chiến đấu, đã chia sẻ những nỗi gian khổ, đã thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô mới xứng đáng dự phần.

Điều trớ trêu là không phải con cái trong nhà sẽ là những kẻ nhanh chân nhất và được vào bàn ăn. Trái lại, chính những kẻ ở xa, những kẻ lặn lội từ bốn phương trời mà đến. Đối với những người Do Thái đang nghe Chúa Giêsu thì những kẻ từ Đông Tây Nam Bắc mà đến chính là các dân ngoại. Họ sẽ được vào đồng bàn với các Tổ phụ và các Ngôn sứ, trong khi chính những người Do Thái là con cái trong nhà, những kẻ hãnh diện từng ăn uống thường ngày với Chúa, từng được nghe Ngài giảng dạy, lại phải đứng ngoài gõ cửa tuyệt vọng. Vì vậy có sự đảo ngược thứ tự vào Nước Trời: “Những người trước hết sẽ trở nên cuối hết, còn những người cuối hết sẽ trở nên trước hết”.

Anh chị em thân mến, Thiên Chúa không theo chủ nghĩa lý lịch. Trước cửa Nước Trời, Ngài không hỏi mọi người: Có chịu phép rửa tội, có theo kitô giáo, có phải là người Công giáo hay không? Có phải là Tu sĩ, Linh mục, Giám mục, Hồng y hay Giáo Hoàng? Điều Ngài đặc biệt quan tâm và xét hỏi, đó là đã có làm và sống như Chúa Giêsu đã làm, đã sống, đã dạy hay không? Vì thế, đừng làm tưởng rằng: hễ có tên là Kitô hữu, là người Công giáo, là đạo gốc, là đương nhiên được bảo đảm vào Nước Trời, để rồi tự đắc đứng trên nhìn xuống thương hại hay loại trừ những người anh em ngoại giáo, những người không chia sẻ một tôn giáo, một niềm tin với chúng ta. Bàn tiệc Nước Trời đón nhận tất cả mọi thành tâm thiện chí. Nếu chúng ta không thực thi Lời Chúa, không đi theo con đường hẹp của Chúa, thì có thể những người anh em ngoại giáo sẽ vào Nước Trời trước chúng ta, đang khi chúng ta, những người được mời gọi trước lại sẽ bị Chúa từ chối, vì chỉ mang cái nhãn hiệu Kitô hữu mà không có một đời sống đức tin, một đời sống Kitô hữu đích thực.

Thưa anh chị em,

Nếu Chúa Giêsu mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Thiên Chúa thì chính là để diễn tả sự chia sẻ niềm vui, chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa và với anh em. Bởi thế, Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Rôma: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17).

Bàn tiệc Thánh Thể hôm nay phải là dấu chỉ cụ thể của bàn tiệc Nước Trời, nên những gì chúng ta chia sẻ trên bàn thờ, tức là Mình Máu Thánh Chúa, phải được chia sẻ rộng rãi trong cuộc sống. Nói khác đi, chúng ta không thể bẻ Bánh Thánh với nhau mà không biết chia cơm sẻ áo cho nhau, nghĩa là cho anh em trong cộng đoàn mà thôi, nhưng còn là cho mọi người anh em đang cần được chúng ta chia sẻ. Thực hiện sự chia sẻ cụ thể đó, chính là phấn đấu đi qua cửa hẹp để dự Bàn Tiệc Nước Trời vậy. [Mục Lục]

20. Qua cửa hẹp

“Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết, nhiều người sẽ tìm vào mà vào không được”

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Lc 13, 22-30, có người đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” (Lc 13, 23). Chúa Giêsu đã nhìn ra sự kiêu hãnh, tự coi mình là công chính của những người này. Ngài không trả lời trực tiếp. Nhưng một cách gián tiếp Ngài đã ám chỉ rằng có nhiều người đánh mất sự cứu rỗi vì chỉ dựa vào tước vị như là thành phần của dân được tuyển chọn. Ngài lo lắng cho họ (Pl 2, 12). Hãy cố gắng vào bằng cửa hẹp! (Lc 13, 24).

Hình ảnh về cửa hẹp được Chúa Giêsu sử dụng rất quen thuộc với dân chúng vào thời đại của Ngài. Dân chúng thời đó sống ở bên trong thành phố được bao bọc bởi vách tường. Vì không có đèn đường, các cửa và các cổng dẫn vào thành phố phải được đóng chặt chẽ vào ban đêm để tránh trộm cướp, hay kẻ thù cưỡi ngựa xâm nhập, tấn công thành phố. Nếu dân chúng đi ra khỏi thành phố và trở về trễ sau khi các cổng đã đóng chặt rồi thì sao? Có ai mở cổng cho họ vào? Không! Khi cổng đã đóng rồi không ai được mở ra vì sợ bọn cướp hay quân địch ẩn nấp trong bóng tối sẽ có thể tấn công bất ngờ.

Những người trở về trễ phải khép mình chui qua mọt cái cửa hẹp. Những cái cửa hẹp này còn được gọi là “mắt của cái kim” – “the eyey of the needle”. Cửa chỉ vừa vặn cho một người đi qua thôi, và không thể mang theo hành lý!

Trong Luca chương 18, 25: “Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào nước Thiên Chúa”. “Lỗ kim” ở đây chính là cửa hẹp. Người đi buôn với hàng hoá cồng kềnh chất đầy trên lưng lạc đà không thể đi qua cửa này được. Phải vứt bỏ tất cả hàng hoá và hành lý xuống. Con lạc đà phải cúi đầu, khòm lưng và quỳ gối xuống may ra mới lọt!

Khi Chúa Giêsu nói về cửa hẹp, Ngài muốn ám chỉ việc từ bỏ hết mọi của cải trần gian. sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật. Và đi qua cửa hẹp thì phải đi qua một mình, cô đơn. Nhưng Thiên Chúa luôn cùng đi với ta. Đó là con đường hy sinh và vất vả. Nhưng lại là con đường của những người khôn ngoan và thận trọng dẫn đến nguồn vui và hạnh phúc đời đời.

Theo thánh Têrêsa Avila, cửa hẹp là nơi nhỏ bé trong trái tim, nơi một người sắn sàng thưa “vâng” hay “không’ đối với điều mà người đó biết là thật. đó là nơi mà không có quyền lực bên ngoài nào có thể xâm nhập hay làm áp lực đến sự chọn lựa của một người được. Đó là “trung tâm của linh hồn’ nơi Thiên Chúa ngự trị

Chúa Giêsu muốn chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người, không phân biệt ai. Ngài dự tính chương trình cho mỗi người mà Ngài ban cho mỗi người ân sủng để chấp nhận ý định của Ngài. Chúng ta phải sửa dạy chính mình bằng cách sống theo những lời giảng dạy và hành động của Chúa Giêsu. Sự cứu rỗi của chúng ta không chỉ được bảo đảm hoàn toàn bởi chúng ta thuộc về một tỏ chức giáo hội của những người có lòng tin được gọi là Công Giáo; nhưng nó phải được bảo đảm vì chúng ta sống lời Chúa Giêsu mỗi ngày (Ga 12, 47-50)

“Các người hãy có gắng vào qua cửa hẹp” (Lc 13, 24). Lời của Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta hôm nay cố gắng thực hành điều chúng ta đã tin trong ánh sáng của những lời dạy bảo của Chúa Giêsu, và không hành động theo những tiêu chuẩn của trần thế vật chất, vô luân và vô tín ngưỡng. Bước qua cửa hẹp có nghĩa là giữ và sống lời Chúa Giêsu và giảng huấn của Giáo Hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian. Bước qua cửa hẹp là nhìn vào chính chúng ta như thể Thiên Chúa nhìn chúng ta và bước đi dưới ánh mắt của Ngài, vì biết rằng Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc sống của chúng ta. Bước qua cửa hẹp là thay đổi quan niệm sống vì không phải hễ có rửa tội, có đạo, có dự lễ, rước lễ, xưng tội, đọc kinh,… thì đương nhiên sẽ được cứu rỗi đâu. Nhưng ơn cứu rỗi được ban cho bất cứ kẻ nào sống theo lời Chúa, cho dù người đó có đạo hay là không có đạo. Thực vậy, có đạo mà không sống theo lời Chúa thì không bằng người tuy không có đạo, không biết Chúa nhưng cuộc sống của họ lại theo đúng những điều Chúa dạy. Giáo thuyết này đưa đến hai quan niệm mới trong nền thần học ngày nay: (1) thứ nhất là quan niệm về những người Kitô hữu vô danh: đó là những người tuy không có đạo, nhưng vì cuộc sống của họ phù hợp với tinh thần Tin Mừng nên vẫn được coi là Kitô hữu mặc dù họ không có danh hiệu Kitô hữu. (2) Còn quan niệm thứ hai là về những người “Kitô hữu ngoại đạo”, nghĩa là những người tuy có đạo nhưng lại không sống theo tinh thần Tin Mừng nên bị coi là ngoại đạo mặc dù họ có danh hiệu Kitô hữu.

Ta thấy trong Cựu ước, ông Gióp khi dồn dập nhà cửa bị cháy rụi, các vật bị cướp đi, con cháu bị chết hết, bản thân mang chứng phong cùi gớm ghiếc đã biết nói “Xưa Chúa đã ban, nay Chúa lấy lại, xin ngợi khen Chúa”. Ông còn khuyên người khác “Mình biết lãnh nhận những ơn lành của Chúa thì sao không biết chịu đựng những thử thách của Chúa”. Đó mới là phản ứng của người có lòng đạo thực. Thế nhưng không thiếu người cho rằng: sống giữa một xã hội đầy tráo trở mà phản ứng theo tinh thần Tin Mừng thì là khờ dại quá. Xin hỏi lại: Thế thì đạo không có ăn nhập gì với cuộc đời sao? Con người chúng ta phải chia ra làm hai sao: một con người hiền lành lúc ở nhà thờ đọc kinh dự lễ và một con người tráo trở gian manh khi cư xử với người đời sao! Không được, con người chúng ta phải là một ở nhà thờ cũng vậy mà ở giữa chợ đời cũng vậy. Đạo chúng ta là đạo nhập thể vào đời chứ không phải chỉ là đạo ở nhà thờ.

Ơn cứu rỗi là dành cho bất cứ ai biết sống theo lời Chúa và có những phản ứng hợp với tinh thần Tin Mừng trong mọi tình huống cuộc đời. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy xét lại đời sống của mình, kiểm điểm lại thái độ sống của mình xem: những gì đang là những cái cồng kềnh cản trở chúng ta vào nước trời. Chúng ta hãy lục soát kỹ lương tâm xem: có phải chúng ta đang là nô lệ của rất nhiều ông chủ không? Có những ông chủ rõ ràng như tiền bạc, danh vọng, chưng diện, thú vui không lành mạnh… Có những ông chủ khác như ích kỷ, thói quen xấu, giữ đạo vụ hình thức, thành kiến đối với người này người khác… Nhiều lắm, mỗi người đều có những ông chủ khác nhau. Đó chính là những cái cồng kềnh khiến chúng ta bị vướng ngoài cửa hẹp, và giả như Chúa gọi chúng ta hôm nay, chúng ta có chắc mình được cứu độ không?

Hơn nữa, bản tính con người hay thay đổi, thích mới nới cũ, ưa chuộng hào nhoáng, chạy theo thị hiếu, mà dễ quên mục đích tối hậu của mình: Một đàng thì bị thế gian cám dỗ, luôn luôn đánh bóng lên những thứ trái cấm như tranh ảnh, sách vở, báo chí, thời trang, hình tượng, phim ảnh, nghệ thuật… càng là trái cấm càng quyến rũ mãnh liệt. Đàng khác, con người lại có tật xấu là mau nản, dễ đầu hàng: một lần thất bại là chúng ta mang mặc cảm và không muốn chỗi dậy nữa, buông xuôi.

Tóm lại, thật nhiều và rất nhiều hình thức lôi kéo, thúc đẩy, xúi giục chúng ta tìm con đường thênh thang, dễ dãi, ngại khó, sợ khổ, tránh con đường hẹp. Vì thế, chúng ta phải luôn nhớ bài học của Tin Mừng hôm nay: phải đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào cửa hẹp. Cũng như tất cả chúng ta đều biết bài học: “Nước chảy đá mòn”, “Kiến tha lâu đầy tổ”, “Có công mài sắt có ngày nên kim”, thì trên phạm vi siêu nhiên cũng thế, Chúa đã nói: “Ai muốn theo Tôi, hãy vác thập giá mình hàng ngày mà theo”. “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”. Cũng vậy, nếu ở đời “Có khó mới có miếng ăn”. “Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng”, thì hạnh phúc nước trời đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tìm kiếm những giá trị thuộc về Nước Trời. Amen. [Mục Lục]

21. Ai sẽ được cứu? – G. Nguyễn Cao Luật.

Câu hỏi của mọi thời

Ngày xưa, các môn đệ Đức Giêsu đã từng băn khoăn thắc mắc: Ai sẽ là người được cứu? Và theo quan niệm thời ấy, số người được cứu thoát thì ít.

Câu hỏi này phát xuất từ một quan niệm về Thiên Chúa. Người ta cho rằng Thiên Chúa là Đấng nghiêm khắc, luôn đưa ra những đòi hỏi rất cao, và người nào không thực hiện những yêu cầu ấy, sẽ không được cứu thoát. Người ta cũng nghĩ rằng ơn cứu độ là do những cố gắng lập công của con người, ai thực hiện đầy đủ những tiêu chuẩn do lề luật quy định, người ấy sẽ được cứu thoát.

Trước câu hỏi này, chỉ có một giải đáp duy nhất: Giêsu – có nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Nhờ Người, với Người và trong Người, mọi kẻ tin đều được cứu thoát. Đây chỉnh là điều mà Đức Giêsu đã nỗ lực bày tỏ trong suốt cuộc đời của Người. Rao giảng, chữa lành, làm phép lạ… tất cả đều cho thấy rằng người ta phải tin vào Người, phải nhờ vào Người mới được cứu thoát. Nhưng đó lại là điều mà người Do-thái không muốn chấp nhận. Họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến để loan báo Tin Mừng cứu độ. Họ mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng họ không nghĩ rằng vị ấy chính là Đức Giêsu. Họ muốn được cứu thoát, nhưng lại không chấp nhận Đức Giêsu. Trong khi đó, Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo: nếu không tin vào Người, họ chẳng được cứu; nếu không đi qua cửa là Đức Giêsu, họ sẽ chẳng vào được Nước Thiên Chúa.

Câu hỏi tưởng chừng rất xưa ấy, ngày nay vẫn còn được nhắc lại. Vẫn có nhiều người của thời đại này cứ băn khoăn thắc mắc về con số những người được cứu, những người được lên thiên đàng. Họ nghĩ ra nhiều điều, thoạt nghe, có vẻ đúng; nhưng xét kỹ, thì không phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Nói cách khác, vẫn có nhiều người quan niệm về Thiên Chúa theo những suy nghĩ cũ kỹ, không dám sống thực với Thiên Chúa. Họ tính toán từng hành vi, từng suy nghĩ, không phải để yêu mến Thiên Chúa hơn, nhưng chỉ là để thực hiện những chỉ tiêu mà họ đề ra, và nghĩ rằng những điều đó đem lại cho họ ơn cứu độ.

Bởi đó, để trả lời cho câu hỏi này, hay hơn nữa, chẳng nên đặt vấn đề như thế này làm gì – điều quan trọng là phải gắn bó với Đức Giêsu, bước đi theo Người. Đức Giêsu đã đi trên con đường hẹp, đã chịu đau khỗ, người ta cũng phải làm như vậy, nếu muốn được cứu. Thiên Chúa không đưa ra những chỉ tiêu, để rổi lấy đó mà xét đoán con người. Chỉ tiêu duy nhất – nếu có thể gọi như thế, đó chính là lòng yêu mến, là bước đi theo Đức Giêsu với tất cả nỗ lực của mình.

Bước qua cửa hẹp

Như thế, vấn đề không phải là xem có bao nhiều người được cứu, nhưng là ai dám bước qua cửa hẹp? Ai dám đi theo Đức Giêsu, bỏ lại tất cả, chấp nhận làm môn đệ của Người cách vô điều kiện? Ở đây, cửa hẹp không phải là một cách thức thi tuyển nhằm loại bớt một số người, dựa theo một số tiêu chuẩn đạo đức. Người ta sẽ không phải chỉ đi qua cửa hẹp một lần trong đời, nhưng là suốt cả đời mình. Người ta không thi tuyển vào Nước Thiên Chúa để rổi sau đó không bao giờ thi lại.

Đó là cả một hành trình dài, hành trình của tình yêu. Người ta sẽ phải thường xuyên theo dõi xem mình có đi đúng đường hay không, có đi theo Đức Giêsu hay đã đi ra ngoài con đường do Người hướng dẫn. Cửa hẹp mở ra một con đường, và con đường đó dẫn tới Nước Trời. Người ta phải đem tất cả nỗ lực ra để sống, để đi. Cũng chẳng cần phải chen lấn, xô đẩy nhau, vì mỗi người có cánh cửa của mình, và cánh cửa ấy luôn mở rộng. Người ta cũng chẳng phải cứ đứng ngoài cửa mà gõ, nhưng là có can đảm bước qua hay không. Muốn như thế, người ta sẽ phải vất bỏ những thứ cổng kềnh, những thứ gì cản trở để có thể đi qua cửa ấy.

Đúng thế, đến với Đức Giêsu, đi với Người, có nghĩa là bước đi trên con đường thập giá, chấp nhận thân phận của người tôi tớ. Đức Giêsu đã không đi con đường nào khác. Chính qua thập giá, Người đã đem ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại.

Một điều an ủi cho con người là, trên hành trình đó, họ có Đức Giêsu là người hướng dẫn, là bạn đổng hành, là người nâng đỡ. Người Ki-tô hữu không tự mình xoay xở, không cô đơn, nhưng có Đức Giêsu cùng đi với họ. Chính Người sẽ đưa ra những chỉ dẫn cần thiết trong những chặng đường khác nhau.

Tuy vậy, đó không phải là nẻo đường dễ dàng, không phải là con đường trơn tru bằng phẳng. Qua cửa hẹp, đã cần có cố gắng. Đi trên đường, lại cần có sức mạnh. Những người lười biếng sẽ chẳng được vào Nước Trời. Chỉ những ai đem hết sức mình để đi theo Đức Giêsu, mới được tham dự vinh quang của Người.

Niềm tự hào duy nhất

Phải chăng, một ngày nào đó, chúng ta sẽ đến trước mặt Chúa và thưa: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.” Chúng ta lấy làm tự hào về những việc đạo đức của mình, và chúng ta tin chắc rằng mình sẽ ở chỗ nhất?

Thế nhưng, câu trả lời không phải như chúng ta mong đợi: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta.” Đang khi chúng ta nghĩ rằng mình sẽ chiếm được địa vị cao, thì lại có những người ở khắp mặt đất, từ đông sang tây, được mời vào dự tiệc, còn chúng ta lại bị gạt ra ngoài. Tại sao thế?

Như Đức Giêsu đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình, người Ki-tô hữu cũng lên đường tiến về quê trời. Trước khi phục sinh trong vinh quang, Đức Ki-tô đã trải qua con đường đau khổ. Cũng vậy, trước khi đạt tới vinh quang vĩnh cửu, người Ki-tô hữu phải sẵn lòng chấp nhận những vất vả, những khó khăn của cuộc hành trình. Và, như đã nói, cuộc hành trình đó là đi theo Đức Ki-tô, tiếp nối con đường Người đã đi. Bởi đó, niềm tự hào của người Ki-tô hữu là mình đã đi theo Đức Ki-tô, gắn bó với Người, bỏ lại tất cả mọi sự, cả những gì đáng yêu quý nhất, để yêu mến Người. Tất cả những việc làm, dù rất đạo đức, của con người, nếu không có lòng yêu mến, cũng trở thành vô giá trị, bởi vì họ chỉ làm những việc đó theo ý mình, chứ không phải vì Đức Ki-tô.

Thật là một điều ghê gớm! Ít khi chúng ta dám nghĩ như vậy. Chúng ta cứ tưởng rằng mình đã “chắc ăn” khi làm điều này, điều nọ; nhưng không, đó không phải là tiêu chuẩn để dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Tiêu chuẩn duy nhất là lòng yêu mến đối với Đức Ki-tô, tin vào Người, phó thác cho Người. Điều này hẳn phải làm chúng ta thay đổi cách sống, cách quan niệm. Theo Đức Ki-tô không còn phải là tin vào mình, nhưng là phó thác vào Người, để Người hướng dẫn, hiệp thông với Người trong tình yêu sâu xa…

Như vậy, đi theo Đức Ki-tô, chúng ta sẽ phải ra khỏi những an toàn của mình, phải phá đổ những giá trị sai lầm mà xưa nay chúng ta vẫn tin tưởng. Và một khi đã bước qua cửa hẹp, chúng ta bước vào đời sống mới với nhiều điều kỳ diệu và cũng đầy khó khăn. Nhưng, lúc ấy, không còn ai là kẻ đến trước hay đến sau, không còn có những ưu tiên, những đặc ân, nhưng là hiệp thông, là tiến bước, là tin tưởng.

Nước Trời được dành cho những người mạnh, những người can đảm. Những người “khơi khơi”, “tà tà” không thể vào được Nước Trời. Chỉ có những người dám liều, dám sống, dám vượt qua. Cửa hẹp, nhưng vẫn mở rộng, vẫn đủ chỗ cho mọi người đi qua. Người ta không phải băn khoăn mình có nằm trong số được cứu hay không, nhưng điều ưu tư là mình đã thực sự đi theo Đức Ki-tô hay không.

Bước qua cửa hẹp – tin tưởng – yêu mến – đi theo. Đó là lời mời gọi gửi đến mọi người. Không thể dựa trên bất cứ điều gì để từ chối lời mời gọi ấy. Tất cả mọi người, dù là ai chăng nữa, dù thế nào đi nữa, cũng phải đứng vào vạch xuất phát, vượt qua cửa hẹp và lên đường.

* * *

Lạy Chúa,

hạnh phúc thay kẻ đi trên đường mà không lo ngại,

luôn an tâm vì có Ngài trợ giúp.

Hạnh phúc thay kẻ sống không quanh co, không sợ hãi,

đi trên đường của Ngài

mà không có ý định quay trở lại.

Hạnh phúc thay kẻ lên đường

mà không hỏi tại sao,

và theo đuổi dự định của mình cho đến cùng.

Hạnh phúc thay kẻ biết ngổi bên chân Ngài,

yên lặng và lắng nghe,

nhưng tâm hổn luôn bừng cháy.

theo P. Aymard. [Mục Lục]

22. Cửa hẹp – McCarthy

(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)

Suy Niệm 1. HOÁN CẢI ĐỂ VÀO VƯƠNG QUỐC

Vương Quốc không phải là một câu lạc bộ tư nhân.

Một người đã đến gặp Đức Giêsu và nói: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”.

Điều này nhắc chúng ta nhớ đến câu chuyện một người đã chết và lên thẳng thiên đàng. Thánh Phêrô gặp người ấy ở cổng đưa vào bên trong và dẫn ông ta đi dạo một vòng quảng trường. Được một lúc, họ đến một khu đất có tường cao bao bọc. Khi đi ngang qua đó, thánh Phêrô nói: “Ông hãy giữ im lặng khi đi qua chỗ này”.

“Tại sao?” người đàn ông hỏi.

“Sợ làm phiền những người ở trong đó”, Phêrô đáp.

“Ai ở trong đó?”. Ông ta hỏi.

“Những người Công giáo. Ông biết đấy, họ nghĩ chỉ có họ là những người được vào Thiên đàng. Nếu họ biết có những người khác được vào Thiên đàng, họ sẽ thất vọng. Thật vậy, một số người trong đó có lẽ sẽ đòi tiền lại”.

Người đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít có phải không?” rõ ràng đã nghĩ rằng Thiên đàng là một câu lạc bộ có chọn lọc mà chỉ có những thành viên mới được thừa nhận. Người ấy là một người Do Thái. Vì thế ông ta đã tin rằng chỉ có những người Do Thái mới được vào Nước Thiên Đàng. Những dân ngoại không có hy vọng được vào. Về phần những kẻ tội lỗi, hãy quên điều đó! Ý tưởng về một dân tộc được chọn là một ý tưởng nguy hiểm. Nếu Thiên Chúa có chọn một dân tộc thì Người chọn họ không phải để loại trừ các dân tộc khác mà để phục vụ những dân tộc khác đó.

Nếu có lúc người đàn ông nghiền ngẫm câu đáp của Đức Giêsu, có lẽ ông phải hối tiếc vì đã hỏi câu hỏi ấy trước tiên. Bởi vì Đức Giêsu đã đập vỡ tính ngạo mạn của ông ta thành những mảnh vụn. Người đảo ngược mọi thứ. Người nói: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”. Đó là một tuyên ngôn cách mạng làm những người Pharisêu bị tổn thương và xúc phạm. Người không dừng lại ở đó mà còn đối xử tốt với những người tội lỗi và những người bị gạt ra bên lề. Người Pharisêu coi đó là sự phản bội lại dân tộc đức hạnh như họ. Nhưng Đức Giêsu tuyên bố rằng Người đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những người như thế.

Thế giới này có đầy dẫy những câu lạc bộ độc quyền với những kiểu cách màu mè, những đặc quyền và ưu đãi v.v… Chúng ta không mong Đức Giêsu đi theo điều đó. Người cũng không mong như thế. Người đã loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa đang đến. Đối với những người Do Thái tưởng rằng họ đường nhiên có thể vào nước Thiên Chúa, Người nói: “Các ông hãy sinh trái cây thống hối, nếu không địa vị ưu đãi của các ông sẽ chẳng có ích gì”.

Đức Giêsu nói rằng sự hoán cải là một phương thế cần thiết để được vào Vương Quốc. Và Người tiếp tục đem sự hoán cải đến với phần lớn những người không có gì hứa hẹn. Nhiều người tội lỗi đã chú ý đến lời kêu gọi hoán cải của Người và họ đã lên đường tiến đến Vương Quốc. Trong khi nhiều người có đạo đã ngoan cố chống lại lời kêu gọi hoán cải của Người và do đó tự loại mình ra khỏi Vương Quốc.

Chúng ta không có quyền quyết định ai sẽ được vào Thiên đàng. Tốt hơn hãy trả lại điều ấy cho sự khôn ngoan và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy để cho Thiên Chúa làm công việc của Người. Đến lúc cuối đời, sự cứu chuộc không phải là một điều gì đó mà chúng ta có thể kiếm được. Nó là một ơn của Thiên Chúa. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không nên cố gắng làm cho mình xứng đáng với ơn ấy. Qua phép Thánh tẩy, chúng ta là những thành viên của dân được chọn mới. Chúng ta là những người “bên trong”. Nhưng chúng ta không nên chỉ dựa vào một sự kiện ấy. Chúng ta phải nỗ lực trổ sinh hoa trái cho Nước Thiên Chúa, tức là hoa trái của sự thiện hảo, đời sống ngay lành và chân lý.

Suy Niệm 2. ĐAU KHỔ GÓP PHẦN RÈN LUYỆN CHÚNG TA.

Trước đây, phương pháp dùng để giáo dục thanh niên dựa trên nền tảng là sức chịu đựng: một đứa trẻ càng vượt qua được những thử thách tàn bạo, thì nó càng được chuẩn bị tốt hơn để đối phó với những mối nguy của tuổi trưởng thành. Chúng ta nhìn thấy một ví dụ tốt về điều ấy trong nghi thức khai tâm của các bộ lạc người da đó. Nghi thức đó được chỉ định để giúp thanh niên có được vị trí của chúng trong thế giới của người lớn.

Trong một nghi thức như thế, lúc trời tối người cha dẫn đứa con tuổi thanh niên vào một khu rừng thưa. Ông nói với nó phải qua đêm ở đó một mình và chỉ được trang bị bằng một cây giáo. Kế đó, người cha rút lui. Khi đứa con ra khỏi khu rừng về lại nhà thì nó không còn là một đứa trẻ nữa.

Người thanh niên đối diện với một thách đố đầy đe doạ. Có một bóng đêm không dò thấu và vô số âm thanh, phần lớn vô hại nhưng rất ghê rợn. Người ta có cảm tưởng một vài con thú đang ẩn náu gần đó, chờ đợi để vồ mồi, một cảm giác làm người ta lạnh toát mồ hôi và rã rời thân thể. Chỉ cần có một người bạn bên cạnh, sự việc sẽ khác biết bao. Nhưng anh ta chỉ dựa vào sức của riêng mình.

Thời gian trôi qua chậm biết bao, mỗi phút như bằng một giờ. Nhưng dù sao, đêm đã đi qua. Và sau cùng bình minh ló dạng ở bầu trời. Khi bóng tối rút lui, nỗi sợ hãi của người thanh niên mới chấm dứt và anh ta bắt đầu thở đều. Rồi từ rừng rậm một bóng người xuất hiện. Đó là cha anh ta.

Người thanh niên chạy đến cha anh, gieo mình vào đôi tay của người cha và kêu lên “Ôi cám ơn Thiên Chúa, cha đã đến!”. Rồi đến lượt người cha ôm lấy con mình. Vừa ôm con, ông vừa nói: “Con ơi, cha tự hào về con. Con đã xử sự như một người lớn thật sự”. Điều mà người thanh niên không biết là cha anh đã ngồi nơi kín đáo suốt đêm, đưa mắt dõi theo anh. Mỗi người muốn trưởng thành phải đối diện với “khu rừng đen tối” dưới một hình thức nào đó.

Tác giả của thư gởi tín hữu Do Thái nói về cách sửa dạy và rèn luyện mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta được rèn luyện trong trường học của đau khổ. Tuy nhiên, ở đây không đề cập đến khía cạnh tình cảm của đau khổ. Người ta có thể bị tổn thương đến nỗi trở nên cay cú và không chấp nhận sự cứu giúp.

Tuy nhiên đau khổ có thể là một cơ hội tốt. Giá trị của đau khổ không nằm trong chính nỗi đau mà trong thái độ người chịu đau khổ đối với nỗi đau. Đau khổ có thể thanh luyện linh hồn và biến đổi tính cách của một con người. Đau khổ có thể đem lại hoa quả. Nó là một phần cần thiết giúp chúng ta trở thành một con người chân chính tức là một con người có sự trưởng thành, chiều sâu và lòng trắc ẩn. Như Van Gogh đã nói: “Người ta phải chịu gian lao để nên chín chắn”.

Đau khổ là một thành phần cần thiết để xây dựng một con người Kitô hữu trưởng thành. Chúng ta không nên coi đau khổ là một sự trừng phạt của Thiên Chúa. Thiên Chúa không trừng phạt một ai. Đau khổ là một phần của thân phận con người. Thiên Chúa để cho chúng ta đau khổ. Đúng, nhưng chỉ vì đau khổ có thể đem lại điều tốt lành. Đau khổ có thể đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn. Trong đau khổ, chúng ta cảm nghiệm quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Có những chân lý mà chỉ có sự đau buồn mới có thể chỉ dạy. Một trong những chân lý ấy là lòng thương xót đối với người đồng loại đau khổ. Không thể học được lòng thương xót mà không có đau khổ. [Mục Lục]

23. Khung cửa hẹp

Trong một buổi chia sẻ lời Chúa,bác công nhân đã phát biểu như sau:

Đã ba mươi hai năm nay, tôi làm việc cho một công ty. Nhiều lần tôi được đề bạt thăng chức, nhưng tôi đều từ chối, bởi vì nếu chấp nhận, thì tôi sẽ không có đủ thời giờ để chăm sóc cho vợ và bốn đứa con trai của tôi. Tình yêu tôi dành cho vợ con thì quí giá hơn số tiền lương được tăng thêm.

Cách đây hai năm, tôi lại được đề bạt một lần nữa. Và lần này thì tôi chấp nhận, bởi vì các con tôi đều đã khôn lớn và vợ tôi thì lại không thể đi làm được.

Và thế là tôi phải theo một khóa bồi dưỡng. Rất tiếc là trong thời gian này, bà chị ruột của tôi qua đời, nên tôi không thể chú tâm vào học hành. Vì thế, tôi bị rớt trong kỳ thi cuối khóa.

Trở về công ty, tôi đã bị ông giám đốc mạt sát một cách thậm tệ. Tôi cảm thấy ê chề và nhục nhã. Mọi sự bỗng trở nên vô nghĩa, ngay cả quyết tâm phụng sự Chúa cũng tiêu tan như mây khói. Tại sao lại xảy ra như thế? Hay là Chúa đã bỏ rơi tôi? Tất cả dường như đã sụp đổ.

Ngày kia, tôi đã phải thú thực với vợ tôi:

– Anh không thể sống nhục nhã như thế này.

Vợ tôi khuyên tôi cầu nguyện và rồi sự cầu nguyện đã gíup tôi nhận biết phải chọn lựa bước theo Đức Kitô bị đóng đinh và bị bỏ rơi. Từ đó, tôi tìm lại sự bình an. Tôi xin lỗi ông giám đốc. Và cũng từ đó, công việc làm ăn của tôi mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

Câu chuyện vừa nghe, quả thật đã gợi lên trong chúng ta hình ảnh về khung cửa hẹp mà đoạn Tin mừng hôm nay đề cập đến. Thực vậy, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ chúng ta:

– Hãy chiến đấu để vào qua khung cửa hẹp.

Vậy khung cửa hẹp ấy là gì?

Tôi xin thưa:

– Khung cửa hẹp ấy không gì khác hơn là chính bản thân của Ngài.

Có nghĩa là Ngài đòi hỏi chúng ta phải nhìn thẳng vào con người của Ngài để nhận biết Ngài. Không gì có thể thay thế được cái biết nội tâm ấy. Cho nên, ngay cả những người sống gắn bó với Ngài, ăn uống trước mặt Ngài, được nhe những lời giảng dạy đầy khôn ngoan của Ngài, cũng như được chứng kiến những việc làm đầy kỳ diệu của Ngài, nếu thực sự họ không nhận biết Ngài, thì rồi họ cũng sẽ bị khai trừ, bị loại bỏ ra ngoài.

Và như vậy, Ngài chính là cửa, như lời Ngài đã nói với dân Do Thái:

– Ta là cửa. Ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi.

Khung cửa được thánh Luca đề cập tới chỉ có thể là chính bản thân Ngài, chứ không thể là bất kỳ một ai khác. Đây cũng là điều Ngài đã từng xác quyết trong Tin mừng của thánh Gioan:

– Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.

Hay như thánh Phêrô đã công bố trong bài giảng đầu tiên vào ngày lễ Ngũ Tuần, tức là lễ Hiện Xuống:

– Chúa Giêsu bị anh em treo lên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Chúa và làm Đức Kitô. Dưới bầu trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ danh đó mà được cứu độ.

Hãy bước theo Đức Kitô. Hãy trở nên giống Ngài bằng cách chấp nhận những khổ đau, những thập giá. Vì đó chính là khung cửa hẹp, chúng ta cần phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh cửu, để chiếm lấy vinh quang phục sinh. [Mục Lục]

24. HRK/162 – Gắng sức

Chúng ta vừa đọc lại bài Phúc âm của Chúa nhật XXI Mùa thường năm C; không những chỉ trong bài Phúc âm mà cả ba bài đọc đều như muốn nhắc chúng ta nhớ lại hai chiều kích của ơn cứu rỗi.

Chiều kích thứ nhất là chiều kích phổ quát, đó là ơn cứu rỗi của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người, mọi dân tộc. Chiều kích phổ quát này được loan báo nơi sách tiên tri Isaia mà chúng ta đọc trong bài đọc I, và được nhắc lại nơi đoạn Phúc âm hôm nay là thiên hạ sẽ từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Chiều kích phổ quát này dường như nhấn mạnh đến số lượng nhiều hơn, và có thể làm chúng ta hiểu lầm là mọi người tự động được vào Nước Thiên Chúa, nhưng không phải như vậy.

Chiều kích thứ hai của ơn cứu rỗi là chiều kích cá nhân, nhấn mạnh đến phẩm chất, đến mối tương quan giữa mỗi tín hữu với Chúa Kitô, với Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi. Chiều kích thứ hai này nhắm đến phẩm chất của mối tương quan giữa mỗi người với Thiên Chúa và được thể hiện nơi bài đọc II trong thơ Do thái: “Thiên Chúa yêu thương ai thì Ngài càng thanh luyện, càng uốn nắn người đó nhiều hơn nữa qua những thử thách để người đó mang lại nhiều hoa trái”.

Thiên Chúa thanh luyện để làm cho con người được lớn lên trong tình yêu của Ngài. Chúng ta nhớ lại dụ ngôn về cây nho, ngành nho được nhắc lại nơi Phúc âm thánh Gioan: “Thầy là cây nho thật, Cha Thầy là người trồng nho. Hễ ngành nào thuộc về Thầy mà không sinh quả thì Cha Thầy sẽ chặt đi. Còn nếu ngành nào sinh quả thì Cha Thầy sẽ cắt tỉa để nó sinh nhiều hoa quả hơn”.

Việc Thiên Chúa cắt tỉa con người được hiểu như là việc Thiên Chúa thanh luyện con người. Nơi bài đọc II của Chúa nhật XXI Mùa thường năm C nói là: “Thiên Chúa sửa dạy con người như người cha sửa dạy con cái trong nhà. Thiên Chúa yêu thương ai thì Người muốn thanh luyện người đó nhiều hơn nữa để mang lại nhiều hoa trái”. Đây là điều mà bài Phúc âm hôm nay thường gọi là bước vào qua cửa hẹp.

Hai chiều kích phổ quát nhắc về số lượng và cá nhân, nhắm về phẩm chất của mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa luôn luôn đi đôi với nhau được nhắc lại trong bài Phúc âm chúng ta vừa đọc lại ở phần đầu, khi Chúa Giêsu phán: “Bất cứ ai muốn vào Nước Chúa thì phải đi qua con đường hẹp, phải cố gắng và từ bỏ những gì cản trở con người bước vào Nước Trời”. Thiên Chúa cảnh tỉnh các đồ đệ của Ngài đừng ỷ lại vào những công việc giả tạo của mình.

Trong hai chiều kích này của ơn cứu rỗi, dĩ nhiên chiều kích phẩm chất nhắc đến mối tương quan cá nhân với Thiên Chúa là điều quan trọng. Càng yêu mến Chúa thì ta càng làm cho nhiều người nhận biết Chúa. Trường hợp các vị thánh là một thí dụ điển hình, các ngài càng yêu mến Chúa thì càng được thanh luyện chính mình, hay đúng hơn càng được Thiên Chúa thanh luyện để có sức ảnh hưởng mạnh và dẫn đưa nhiều người đến với Chúa. Các thánh càng đào sâu chiều kích cá nhân thì càng đến gần Chúa, do đó tâm hồn của các ngài càng mở rộng đến mức độ đại đồng để đón nhận tất cả mọi anh chị em và đưa anh chị em đến với Chúa. Ap dụng cho đời sống mình, càng kết hiệp với Chúa thì ta càng quảng đại với anh chị em; nếu xa lìa Chúa thì ta càng hẹp hòi với anh chị em. [Mục Lục]

25. CSTM/197- Cửa hẹp

Nếu một người nào đó hỏi chúng ta: “Phải chăng chỉ có những người theo đạo Chúa mới được cứu độ?”hay “Có phải chỉ có một số ít người được vào nước trời?”. Chúng ta sẽ trả lời thế nào? Câu hỏi này xưa kia có người đã hỏi Chúa Giêsu. Sở dĩ ông ta hỏi như vậy vì hồi đó có nhiều quan niệm và chủ trương khác nhau. Giáo lý của nhóm Pharisêu thịnh hành lúc ấy cho rằng: thế giới hạnh phúc mai hậu chỉ dành cho một số ít thôi, còn đa số sẽ phải khốn khổ. Còn những người phái khắc khổ Ét-sê-niên thì khẳng định ngon lành rằng: chỉ những thành viên của họ mới được cứu độ. Có lẽ vì có những chủ trương khác nhau như vậy, nên người này đến hỏi Chúa Giêsu cho biết rõ sự thực như thế nào.

Chúa Giêsu đã trả lời. Câu trả lời của Chúa vừa là bài học cho chúng ta vừa là giải đáp để chúng ta có thể trả lời cho những người khác. Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: tất cả mọi người đều được cứu độ. Đó là giáo lý trước sau như một của Chúa. Bởi vì “Thiên Chúa là Cha, Đấng mong muốn mọi người được cứu thoát”, “Đấng không muốn bất cứ ai phải hư đi”, “Đấng không muốn một trong những kẻ bé mọn phải hư mất”. Bàn tiệc của Thiên Chúa là bàn tiệc mở ra cho muôn dân, nghĩa là nước trời được mở ra đón nhận mọi người. Chúa đến trần gian, chịu nạn chịu chết cho mọi người, cứu chuộc mọi người, chứ không phải chỉ một số người nào thôi.

Như vậy, Chúa cứu chuộc mọi người là một điều rõ ràng và dứt khoát rồi. Nhưng được cứu độ hay không là hoàn toàn do mỗi người. Vì thế, Chúa Giêsu muốn mọi người đừng bao giờ còn đặt vấn đề một cách sai lầm và tiêu cực rằng: phải chăng chỉ có ít người được cứu độ? Hay tôi có được cứu độ không? Trái lại, phải nói rằng: tôi có muốn được cứu độ không? Bởi vì ơn cứu độ Chúa Giêsu đã lập là phổ quát chung cho mọi người, ơn cứu độ luôn chờ sẵn ngoài cửa mỗi tâm hồn. Và muốn được cứu độ thì phải áp dụng các phương pháp và phương thế đó chính Chúa Giêsu cũng đã đề nghị và chỉ dạy cho chúng ta, đó là cố gắng vào cửa hẹp.

Cửa hẹp không phải vì Thiên Chúa hà tiện, hẹp hòi, khắt khe mà vì con người chúng ta không đủ nhỏ để dễ dàng đi vào. Nói khác đi, cửa nước trời không hẹp mà chính vì chúng ta quá cồng kềnh. Đó là sự cồng kềnh của những hành lý chúng ta đang mang nặng trên vai như tiền bạc, của cải, tình duyên, danh vọng, thú vui, hưởng thụ… Khiến chúng ta bị vướng ngoài cửa. Đó là sự cồng kềnh của cái tôi: cái tôi nặng nề của đam mê, xác thịt. Cái tôi cứng cỏi vì lòng ích kỷ. Cái tôi hèn nhát vì sợ hãi không dám dấn thân… Như thế đó, cánh cửa nước trời mà nhiều người thiện chí đã vào được dễ dàng, thì đã trở thành khung cửa hẹp đối với những người khác, vì cái tôi, vì hành lý của họ quá cồng kềnh. Cho nên, chúng ta vào được nước trời hay không là do chúng ta chứ không phải do Chúa. Thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta. Nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”. Do đó, vấn đề không phải là đòi Thiên Chúa nới rộng cửa, nhưng là chính chúng ta phải biết trở thành bé nhỏ. Nói theo ngôn ngữ đạo đức quen thuộc, là chúng ta phải từ bỏ chính mình, tức là phải từ bỏ những gì chúng ta thích, chúng ta muốn, nhưng không đẹp lòng Chúa.

Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy xét lại đời sống của mình, kiểm điểm lại thái độ sống của mình xem: những gì đang là những cái cồng kềnh cản trở chúng ta vào nước trời. Chúng ta hãy lục soát kỹ lương tâm xem: có phải chúng ta đang là nô lệ của rất nhiều ông chủ không? Có những ông chủ rõ ràng như tiền bạc, danh vọng, bia ôm, cà phê đèn mờ, đua đòi, chưng diện, thú vui không lành mạnh… Có những ông chủ khác như ích kỷ, thói quen xấu, giữ đạo vụ hình thức, định kiến, thành kiến đối với người này người khác… Nhiều lắm, mỗi người đều có những ông chủ khác nhau. Đó chính là những cái cồng kềnh khiến chúng ta bị vướng ngoài cửa hẹp, và giả như Chúa gọi chúng ta hôm nay, chúng ta có chắc mình được cứu độ không?

Hơn nữa, bản tính con người hay thay đổi, thích mới nới cũ, ưa chuộng hào nhoáng, chạy theo thị hiếu, mà dễ quên mục đích tối hậu của mình: Một đàng thì bị thế gian cám dỗ, luôn luôn đánh bóng lên những thứ trái cấm như tranh ảnh, sách vở, báo chí, thời trang, hình tượng, phim ảnh, nghệ thuật… càng là trái cấm càng quyến rũ mãnh liệt. Đàng khác, con người lại có tật xấu là mau nản, dễ đầu hàng: một lần thất bại là chúng ta mang mặc cảm và không muốn chỗi dậy nữa, buông xuôi.

Tóm lại, thật nhiều và rất nhiều hình thức lôi kéo, thúc đẩy, xúi giục chúng ta tìm con đường thênh thang, dễ dãi, ngại khó, sợ khổ, tránh con đường hẹp. Vì thế, chúng ta phải luôn nhớ bài học của Tin Mừng hôm nay: phải đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào cửa hẹp. Cũng như tất cả chúng ta đều biết bài học: “Nước chảy đá mòn”, “Kiến tha lâu đầy tổ”, “Có công mài sắt có ngày nên kim”, thì trên phạm vi siêu nhiên cũng thế, Chúa đã nói: “Ai muốn theo Tôi, hãy vác thập giá mình hàng ngày mà theo”. “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”. Cũng vậy, nếu ở đời “Có khó mới có miếng ăn”. “Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng”, thì hạnh phúc nước trời đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được. Xin Chúa cho chúng ta nhớ bài học hôm nay và thực hiện mỗi ngày suốt đời chúng ta. [Mục Lục]

26. NTGT/229 – Nước trời

Ngày 15.9.2000, thế vận hội Ôlympic lần thứ 27 lại diễn ra tại nước Úc. Một lá cờ có nền trắng làm nổi bật năm vòng tròn ngũ sắc: xanh dương, vàng, đen, xanh lá cây và đỏ lại được tung bay phất phới. Năm vòng tròn khác nhau nhưng lại được nối kết chặt chẽ với nhau biểu tượng cho sự kết hợp mật thiết của năm châu xây dựng trên tinh thần thể thao bằng hữu và huynh đệ. Ban tổ chức đã ráo riết vận động và thành công trong việc tạo điều kiện cho 199 quốc gia và lãnh thổ về tranh tài thể thao quốc tế. 12.500 vận động viên thay mặt quốc gia đến để tranh nhau từng tấm huy chương mà không có một sự chống đối nào.

Tứ hải giai huynh đệ, có thể nói được là giấc mơ của con người. Vì thế, con người đã chứng kiến bầu khí hân hoan tưng bừng của một ngày khai mạc đại hội khi các đoàn vận động viên đại diện cho các quốc gia diễn hành vào vận động trường, cũng như khung cảnh vui tươi nhộn nhịp khi các vận động viên chung vui nhảy múa trong những giờ phút cuối cùng của nghi thức bế mạc.

Thật ra từ ngàn xưa, giấc mơ tứ hải giai huynh đệ đã được các tiên tri loan báo trong thời Cựu ước, như tiên tri Isaia đã diễn tả trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Thiên Chúa phán: “Ta đến để qui tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta, chúng sẽ rao giảng và dẫn dắt anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến”. Rồi Đức Giêsu đã đến trong lịch sử nhân loại để biến giấc mơ muôn thuở của con người thành hiện thực. Ngài đã loan báo Thiên Chúa là Cha chung của mọi người và vì thế bàn tiệc Chúa dọn ra đã mời gọi con cái của Người không phân biệt dòng máu, dân tộc, màu da, tiếng nói, nam nữ già trẻ. Vì mọi dân nước đều được mời gọi tham dự bàn tiệc của Chúa như Chúa Giêsu đã xác tín trong bài Phúc âm hôm nay: “Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.

Tuy nhiên cũng giống như các vận động viên đã đến tranh tài thể thao tại cuộc thi Olympic Sydney, chỉ có một số người đạt được huy chương. Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu lưu ý chúng ta: phòng tiệc Nước Thiên Chúa tuy rộng rãi thênh thang có đủ chỗ cho mọi dân nước, nhưng cửa vào phòng tiệc lại vừa hẹp, lại vừa được mở ra trong khoảng thời gian nhất định. Vì thế, cần phải tỉnh thức và phấn đấu mới lê chân tiến vào được. Một khi cửa phòng tiệc đã đóng không ai còn có thể tranh luận hay van nài để chủ nhà ra mở cửa một lần nữa.

Vậy phải chăng chỉ có một số người được cứu độ?

Đâu phải cứ ai thuộc giống nòi Abraham, “từng được ăn uống trước mặt Ngài”, từng được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, là đương nhiên được Đức Giêsu, vị chủ nhà, mở cho vào khi gõ cửa. Nhưng phải biết đón nhận lời loan báo Nước Trời và mau mắn hoán cải, ngoài ra còn phải biết phấn đấu để bước chân vào phòng tiệc. Cũng như các vận động viên trong các cuộc tranh tài thể thao phải tranh đấu cam go, phải phấn đấu cao độ để tranh nhau từng ly tại mức đến. Nhưng những thành tích mà họ đã đạt được trong những ngày tranh tài là kết quả của những năm tháng tập luyện gian khổ, của những cuộc đấu sức cam go để được chọn đại diện cho quốc gia mình.

Bàn tiệc cánh chung trong Nước Chúa cũng thế, đây là bàn tiệc của những người thắng trận. Những người đã từng chịu thử thách để chia sẻ cuộc chiến và những khổ đau của Đức Giêsu ở trên bàn thờ thập giá và được tái diễn trên bàn tiệc Thánh Thể.

Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh khung cửa hẹp để chỉ những ai muốn vào tham dự phải biết lách mình qua. Nhiều lúc phải biết hy sinh, đổ máu để đi vào. Nhưng hình ảnh khung cửa hẹp này không làm mất đi vẻ hùng tráng huy hoàng, vui tươi qua lời tiên tri Isaia ở bài đọc một, vì đó là điều kiện cần thiết để được vui tươi. Ai không qua khung cửa hẹp để tiến lên thì không thể tham dự vào cuộc hân hoan trở về được. Muốn vui tươi thật sự tận trong lòng phải thanh tẩy, phải lách mình qua khung cửa hẹp. Nếu không sẽ bị loại ra ngoài, chỗ khóc lóc nghiến răng, nơi đó không còn là hân hoan, vui tươi, hạnh phúc nữa.

Thiên Chúa luôn là Chúa của Tình yêu. Người luôn mở rộng cửa, luôn rộng tay để đón mời nhưng chúng ta phải tự hỏi mình có dám, có xứng đáng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc vào vòng tay của Thiên Chúa hay không? Thiên Chúa không xua đuổi ai nhưng chính chúng ta phải biết dùng tự do và những khả năng Chúa ban cũng như những ơn thánh của Chúa trong đời sống hằng ngày mà về cùng Chúa. Sống như thế, bàn tiệc cánh chung không phải tìm đâu xa mà chính tại nơi mình đang sống trong hiện tại, lúc bấy giờ. Hãy sống niềm vui thiên đàng và hãy bắt đầu ngay từ trần gian này. Nhưng niềm vui đó tùy thuộc ở cách sống của chúng ta, của gia đình chúng ta và xã hội chúng ta đang sống. Khi mỗi người biết sống thật với lòng trời và hợp với lòng người, đó là hạnh phúc. Hạnh phúc đó là chúng ta được tham dự vào bàn tiệc của Thiên Chúa và bàn tiệc đó sẽ kéo dài mãi mãi trong cả đời này lẫn đời sau.

Vừa lọt vào bảng xếp hạng tóp ten của làn sóng xanh, bài hát “bạn tôi”của nhạc sĩ Võ Thiện Thanh đã mau chóng chiếm được tình cảm của khán thính giả. Bài hát đi vào lòng người đặc biệt nơi người trẻ, qua những hình ảnh thật xúc động về người sinh viên trước ngưỡng cửa vào đời với muôn vàn khó khăn: “Bạn tôi sáng nhịn ăn lên giảng đường, bạn tôi sáng đạp xe 20 cây số, thằng đi dạy thêm, đứa làm tiếp thị, thằng làm quán cơm, tối về một gói mì tôm”.

Đúng vậy, cửa vào đại học đã khó, để sống hoài bão của mình, lại càng khó hơn. Vâng! Để được bước chân vào ngưỡng cửa đại học các bạn sinh viên nghèo đã tốn biết bao công lao thức khuya dậy sớm “dùi mài kinh sử”, bỏ hết những cuộc vui chơi, tất bật trên mọi nẻo đường mưu sinh với không thiếu những giọt mồ hôi, nước mắt để thực hiện hoài bão. Và đích điểm sự thành đạt là kết quả của những cố gắng lâu dài mà con đường dẫn đến không dễ dàng, đòi hỏi nhiều hy sinh và phấn đấu.

Con đường vào quê trời cũng vậy, đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa đi qua cửa hẹp. Đó chính là điều Chúa Giêsu mời gọi hôm nay, như chính Ngài đã lựa chọn con đường của thập giá.

Vậy thì mỗi người trong chúng ta hãy chọn cho mình một con đường. Đường cao, đường lưng chừng, hay đường thấp? Tôi xin mượn lời thơ của thi sĩ người Anh, John Oxenham tạm kết cho chủ đề chia sẻ hôm nay:

“Trước mặt mỗi người đều chỉ mở ra một con đường

Đường cao, đường lưng chừng hoặc đường thấp,

Linh hồn cao thượng chọn lấy nẻo cao

Linh hồn thấp kém bước vào ngõ thấp

Và ở giữa hai nẻo đường mù sương ấy,

Số còn lại cứ ngập ngừng qua lại,

Nhưng mỗi người chỉ có

Một con đường mở ra trước mặt:

Đường cao, đường lưng chừng hoặc đường thấp,

Mỗi người đều phải quyết định xem:

Linh hồn mình sẽ tiến theo lối nào”. [Mục Lục]

27. Ai được cứu độ

Loài người trên thế giới này tự hào vì mình biết nhiều và cao trọng hơn các loài khác. Nhưng có nhiều người không biết một điều quan trọng là: tôi sẽ đi đâu về đâu? Nhiều người không biết hoặc không muốn biết sự thật đằng sau cái chết dù họ có cảm nhận ít nhiều về vấn đề tâm linh con người.

Người Do Thái nhờ có Mạc khải nên có lòng mong chờ ơn Cứu chuộc. Khi Chúa Giêsu đến rao giảng ơn cứu chuộc, họ chú ý lắng nghe và hỏi Chúa Giêsu về số lượng người được cứu. Nhưng Chúa Giêsu muốn giúp họ hiểu thêm về tiêu chuẩn được ơn cứu độ. Đó là hãy vào qua cửa hẹp. Con đường về nhà Cha là con đường hẹp, con đường thập giá Chúa Giêsu đã đi. Thế gian luôn muốn mở nhiều con đường thênh thang không qua thập giá: con đường của danh, lợi, thú. Đó là những ngõ cụt không đưa đến Thiên Đàng, có khi đó là những cái rọ do ma quỷ bày ra cho loài người tự chui vào và nô lệ cho thế gian. Loài người nếu không biết trông cậy vào Chúa thì sớm muộn cũng bị quỉ ma lừa gạt cách này cách khác. Ma quỉ có thể dựa vào xu hướng chung của con người là tìm sự dễ dãi, thích giàu sang, hưởng thụ, sống theo sở thích, sống vô kỷ luật, ích kỷ, kiêu căng để dẫn con người đi sai con đường lương tâm chỉ bảo. Vì vậy, Chuá Giêsu đã xuống thế làm người, dạy chúng ta phải tìm những điều cao quý, biết bỏ mình phục vụ trong tình bác ái, sống vượt trên mọi tham vọng, và vâng phục thánh ý Chúa. Theo Chúa thì phải lội ngược dòng đời, sống yêu thương, vị tha theo gương Chúa Giêsu. Môn đệ Chúa hãy nghĩ đến phần rỗi linh hồn hơn là phần xác, nghĩ đến ích lợi chung trước khi lo cho tư lợi riêng. Đó không phải là điều Chúa Giêsu đã dạy bảo chúng ta và được ghi lại trong Tin Mừng, được nhắc đi nhắc lại thường xuyên trong các giờ cầu nguyện sao?

Đau khổ và sự dữ trên trần gian là do tội lỗi gây ra. Con cái Chúa cũng không tránh được đau khổ khi sống trên trần gian này. Chính Chúa Giêsu cũng không tìm cách tránh đau khổ. Ngài mang lấy đau khổ của nhân loại mà đưa lên cây thập giá. Vì muốn cứu giúp chúng ta, Ngài không ngại hy sinh. Tuy hôm nay chúng ta còn gặp nhiều gian khó nhưng chỉ là những khổ ải tạm thời. Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho chúng ta một nơi hạnh phúc đời đời, nâng đỡ chúng ta bằng hành động yêu thương, cho chúng ta niềm hy vọng về tương lai xán lạn Chúa dành sẵn cho con cái mình trên quê trời. Những khó khăn chúng ta đang chịu nhắc bảo cho chúng ta biết rằng: Chúng ta đang ở quê tạm, nơi rèn luyện bản thân để trưởng thành trong tình yêu chứ chưa phải là quê thật. Thư gởi tín hữu Do Thái đã nhắc bảo chúng ta: Chúa sửa dạy ai là kẻ người yêu mến và đánh đòn…(Dt.12, 5-7) có người con nào mà cha không sửa phạt vài lần. Những lúc Chúa gởi đòn roi thì ai cũng buồn, nhưng sau này, sẽ mang lại quả bình an và công chính (Dt.12,11-18) Chúa biết cách nào hay nhất để sửa dạy chúng ta, giúp chúng ta đi đúng đường chân lý. Dĩ nhiên, khi Chúa gởi thử thách đến thì chúng ta khổ, nhưng chúng ta hãy nhớ lời Chúa nói với thánh Phaolô: ơn ta đủ cho con. Chúa không cất mọi khó khăn cho chúng ta, nhưng chúa muốn rèn luyện chúng ta nên tinh ròng. Cuộc sống ở trần gian mau qua, không phải khổ sở lâu. Rồi Chúa sẽ sớm đưa chúng ta về hưởng thiên đàng, một phần thưởng cao quí hơn những gì lòng người dám ước mong. Phần thưởng này dành cho những ai biết sống tốt, biết yêu mến đồng loại, trở nên giống Đức Giêsu là Con Một Chúa Cha cũng là Chúa chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đi con đường hẹp, con đường sống theo giới răn Chúa, con đường vì tha nhân, phục vụ cho hạnh phúc đời đời của nhân loại, để mai sau được thừa hưởng Nước Trời. [Mục Lục]

28. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

THIÊN CHÚA CỦA MỌI NGƯỜI

Có thời người ta tưởng rằng Thiên Chúa chỉ cứu độ những người Do Thái và những ki-tô hữu. Với thời gian và mặc khải, người ta hiểu hơn về Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương và cứu độ tất cả mọi người.

Thiên Chúa đâu của riêng ai

Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất trích sách tiên tri Isaya cho thấy hình ảnh mọi dân tộc thuộc mọi ngôn ngữ được thấy vinh quang của Thiên Chúa. Không chỉ vậy, Thiên Chúa còn sai một số người thuộc những dân tộc này tới những dân tộc xa hơn để rao giảng loan truyền về Thiên Chúa. Ngài còn chọn những người thuộc những dân tộc này làm tư tế cho Ngài.

Dân Do Thái không là dân tộc duy nhất được Thiên Chúa thương yêu. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi dân tộc thuộc mọi ngôn ngữ ở mọi thời đại. Tư tưởng trong sách tiên tri Isaya tuy dù có từ thời xa xưa, nhưng rất tiến bộ và vượt xa nhiều tư tưởng của thời gần đây. Ngay ngày nay, vẫn còn nhiều người tưởng rằng Thiên Chúa chỉ yêu thương và cứu độ những người Công Giáo hoặc ki-tô hữu. Đúng là nếu ai cố tình từ chối Thiên Chúa và Đức Yêsu khi họ biết rõ, thì người đó bị loại khỏi Nước Thiên Chúa; còn những ai vì không biết hay lầm lẫn mà không trở thành người Công giáo hoặc ki-tô hữu, thì vẫn được cứu độ cho dù họ không theo một tôn giáo nào (Hiến chế Giáo Hội, số 16). Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, cho dù người đó chưa nhận biết Ngài.

Hãy đọc ý nghĩa những gì xảy ra cho mình

Thiên Chúa yêu thương con người. Tuy nhiên không vì thế mà Thiên Chúa làm tất cả những gì con người ao ước. Những gì không tốt cho con người, Thiên Chúa sẽ không làm cho họ. Tuy nhiên, nếu có gì tốt mà thậm chí trái ý con người, Thiên Chúa vẫn làm cho con người.

Những trái ý và thập giá xảy tới cho con người, có thể được coi như những thử thách và bài học Thiên Chúa dạy dỗ con người. Hãy cố gắng để nhận ra điều Ngài muốn nói với mỗi người qua những gì xảy tới cho mình trong cuộc đời. Thử thách và trái ý, có giá trị riêng của nó. Hãy cố gắng tận dụng, để triển nở và hạnh phúc hơn.

Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp

Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ mọi người (1Tm.2, 4). Tuy vậy, được cứu độ hay không, cũng tuỳ thuộc con người. Hãy vào qua cửa hẹp. Nếu một người chọn thế gian và những xa hoa, không thể vào Nước Trời được.

Nếu không sống theo đường lối của Thiên Chúa hôm nay, lấy gì bảo đảm sẽ sống theo Chúa vào những giây phút cuối đời mình? Hiện tại là quan trọng. Thời gian của đời dương thế này rất quan trọng và không gì có thể thay thế được. Qua hành vi của con người trên dương thế này, người ta có thể giúp những người khác khi họ không còn làm gì được cho họ, như trường hợp những người bị thiểu năng, hoặc các linh hồn nơi luyện tội. Qua hành vi tại dương thế này, con người làm mình trở thành vĩnh cửu, làm mình trở thành thần, trở thành thánh.

Hãy vào qua cửa hẹp, là cách nói khuyến khích con người hãy sống theo lý trí, lương tâm, luật Chúa cũng như những gì là tốt lành. Đừng sống chỉ theo bản năng hoặc xúc cảm của mình. Hãy vào qua cửa hẹp, đòi người ta phải hy sinh và sống cho tha nhân, yêu thương tha nhân như Thiên Chúa yêu thương con người.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Nếu không theo Công giáo cũng được cứu độ, vậy tại sao còn cần phải là người Công giáo?
  2. Trở thành ki-tô hữu, có gì hơn người không theo một tôn giáo nào?
  3. Đâu là lý chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người? [Mục Lục]

29. Một nghề siêu nhiên

Đứng ở trước một căn biệt thự là hai người ăn xin. Họ đang tìm cách để đi vào xin ăn. Lý do mà họ còn do dự là bởi vì ở đằng trước cửa là một con chó to và dữ tợn đang gầm gừ. Một người nói với người kia, “Anh vô đi. Anh thấy không cái con chó đó nó đang sủa nhưng nó cũng đang vẫy đuôi.”Người kia trả lời, “Đó là vấn đề. Tôi không biết nên tin cái nào!”

Trong cuộc sống, chúng ta phải đương đầu với nhiều khuynh hướng mẫu thuẫn nhau: loại bỏ hay chấp nhận, phá hủy hay xây dựng, chiến tranh hay hòa bình. Chúng ta đang suy nghĩ không biết nên tin vào điều gì. Chúng ta lưỡng lự! Chúng ta hỏi mình, “Làm sao tôi có thể thăng tiến cuộc sống của tôi trong cái thế giới đầy dẫy tội lỗi như thế này?” Chúng ta than phiền tại sao không có người nào làm cho thế giới nên tốt hơn. Thế nhưng các bạn có thấy không, ‘người nào’ đó chính là các bạn đấy. Các bạn chính là người hòa giải và người củng cố. Các bạn được gọi để làm công việc của Đấng Cứu Độ. Anh hùng được sai đi để làm công việc anh hùng. Con voi được sai đi để làm công việc của con voi. Con người được sai đi để làm công việc siêu nhiên.

C.B. Eavery, trong bài “Cấp Bậc của Sự Sống,”viết, “Con người có ba cấp bậc sống: bậc con vật, bậc con người, và bậc siêu nhiên.”Nếu bạn chọn sống bậc con vật thì bạn sẽ chỉ tìm thỏa mãn của thân xác và bạn sẽ không bao giờ được thỏa mãn với cuộc sống của bạn. Có lẽ một lúc nào đó thì bạn thích, thế nhưng bạn là một con người có lương tâm và linh hồn, và như thế các bạn không thể nào được thỏa mãn trong xác thể.

Nếu bạn chọn sống bậc con người, dựa trên những vật liệu để làm cho bạn được thỏa mãn, nhiều người sẽ giúp đỡ bạn. Bạn sẽ dùng sức mạnh của mình để giúp chính mình. Các hãng và công xưởng sẽ giúp bạn, thế nhưng khả năng của con người rất hạn hữu.

Nếu bạn chọn sống bậc siêu nhiên, dựa trên nền tảng thánh thiện để làm cho mình được no thỏa, thì bạn sẽ được Thiên Chúa giúp bạn… Thiên Chúa luôn luôn lúc nào cũng sẵn lòng giúp đỡ bạn, không phải chỉ có từng lúc, nhưng mọi lúc.

Bản tính của con người thường được người Mỹ ví như chiếc ghế ba chân. Chúng ta có thể tưởng tượng ra được khi một trong ba chân bị gẫy hoặc là ngắn hơn thì chiếc ghế sẽ ra sao rồi. Cũng giống như thế, nếu chúng ta chỉ lo chăm chuốt về thể xác mà quên đi tinh thần, hoặc quá lo về mặt tinh thần mà quên đi thể xác thì con người của chúng ta sẽ bị mất thăng bằng.

Bác sĩ Paul Tournier đã chia sẻ một câu truyện về một người đàn ông bị bệnh rất nặng sau cái chết của người con của ông: Khi tôi đến thăm người đàn ông đó, ông đang nằm ở trên giường. “Chào bạn, tôi đến đây để nói cho bạn biết bạn đang mắc phải cái chứng gì. Nguyên nhân làm cho bạn ra nông nỗi này là bởi vì cái chết của người con bạn. Bạn cảm thấy rằng chính mình là nguyên nhân. Vì thế, bạn đã tự trách mình và chạy trốn cuộc sống hiện tại. Bạn chạy trốn khỏi cuộc sống mà bạn không can đảm để đối diện. Bây giờ bạn đang đứng ở trước một con đường mà nó chia ra làm hai ngả. Một ngả là con đường buông xuôi mà các bác sĩ chúng tôi chẳng làm được gì để giúp đỡ bạn. Con đuờng thứ hai thì khó hơn bởi vì đó là con đường của Chúa Giêsu Kitô. Nếu bạn chọn con đường này thì bạn phải biết vác thánh giá mình mà đi theo Ngài. Con đường này đòi hỏi bạn phải biến đổi. Thế nhưng bạn sẽ không đi một mình, Chúa Giêsu sẽ luôn ở bên cạnh bạn.”Sau khi bác sĩ ngừng lại thì người đàn ông liền đáp lại lời của bác sĩ, “Tôi chọn con đường Chúa Giêsu Kitô. Nhưng tôi cần giúp đỡ bởi vì tôi không biết phải làm gì”(Paul Tournier, “The Healing of Persons”).

Nếu xét về bậc con vật và con người thì người đàn ông đó không thể nào có thể lấy lại tinh thần để sống bởi vì cả thể xác và tâm thần của ông đều bị kiệt quệ. Vấn đề của ông thuộc về mặt thiêng liêng. Ông đang cố gắng để đối diện với cái tai kiếp xảy ra cho người con yêu quí của ông.

“Lạy Chúa, có phải chỉ có một số người mới được cứu độ?”Ai có thể trả lời cho chúng ta câu hỏi này nếu không phải là Thiên Chúa. Thế nhưng điều mà chúng ta biết là Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng và lúc nào cũng sẵn lòng để nâng đỡ để chúng ta sống một cuộc sống mới. [Mục Lục]

30. Cửa hẹp, cửa hạnh phúc

  1. Mỗi năm, cứ đến mùa thi đại học, các thí sinh xem ra lắm kẻ buồn và ít người vui, bởi vì năm nào cũng vậy, số dự thi thì nhiều, nhưng số được tuyển thì ít. Cánh cửa vào đại học, nhất là hệ chính quy xem ra rất hẹp, chỉ dành cho những thí sinh cố gắng, có phương pháp học tốt mới được vào. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, cửa vào Nước Trời là cửa hẹp, nhưng là cửa hạnh phúc, chúng ta làm gì để có thể qua cửa đó được?

Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc trong đời sống hằng ngày để giảng dạy, giúp cho người nghe dễ hiểu. Qua hình ảnh “cửa hẹp” này làm chúng ta có thể có những suy nghĩ sau:

  1. Nếu cửa Nước Trời hẹp, hẳn là do chủ nhà Giêsu và những người được mời vào phải “nhỏ bé”. Dĩ nhiên ở đây không nên hiểu theo nghĩa thể lý mà là luân lý. Đức Giêsu là Đấng cao cả nhưng chọn con đường hèn mọn mà như thánh Phaolô đã tóm gọn trong thư gởi tín hữu Philipphê. Người là Thiên Chúa mà sẵn sàng trút bỏ vinh quang của Thiên Chúa để làm con người, mà lại là con người hèn mọn và chấp nhận chết ô nhục trên thánh giá để chuộc tội chúng ta (x.Plp 2,6-7). Vậy ai muốn vào Nước Trời thì hãy trở nên nhỏ bé, mọn hèn như Đức Giêsu.
  2. Nếu cửa Nước Trời là hẹp, mà ta muốn vào dễ dàng thì hành trang của ta phải gọn nhẹ. Gọn nhẹ đó là bớt đi, cắt xén đi những việc không tốt nơi con người mình. Bớt đi lòng vị kỷ, hẹp hòi; bớt đi những đam mê, dục vọng xấu; bớt đi sự hận thù, ghen ghét; bớt đi sự xảo trá, gian tham; bớt đi lòng tự cao, tự đại… nói gọn là bớt đi, cắt tỉa đi những gì làm cản trở ta không thể đến với Chúa và tha nhân được. Có như vậy thì mới có thể vào Nước Trời.
  3. Nếu cửa Nước Trời là hẹp, để qua cách dễ dàng thì phải có sức mạnh. Sức mạnh nỗ lực của bản thân chưa đủ, mà cần nhất là sức mạnh của ơn Chúa giúp. Đức Giêsu đã thấy trước nên Người đã đưa ra phương cách, để ta có thể qua cửa đó được, là mến Chúa và yêu người. Người cũng đã lập các bí tích để nâng đỡ, chữa lành hoặc ban những ơn cần thiết cho người Kitô hữu. Vậy mà ta thờ ơ với các bí tích, nhất là bí tích giải tội và Mình Thánh Chúa thì làm sao có thể vào Nước Trời được!
  4. Nếu ta hình dung vào Nước Trời là có cửa, thì hãy nhớ rằng đã có cửa thì có lúc cửa mở và có lúc cửa đóng. Vì thế như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe Đức Giêsu cho biết khi cửa đóng rồi, thì chủ nhà sẽ từ chối người đến gõ cửa, dù bất cứ lý do gì (x Lc 13,25-27). Cửa đóng lại là biểu tượng của giờ cánh chung hay giờ chết của mỗi người. Cửa đóng lúc nào, ai mà biết được? Cho nên hãy cố gắng sống thật tốt ngay những phút giây nầy, không chần chờ gì nữa.
  5. Nếu ta hình dung vào Nước Trời thì phải qua cửa, tuy hẹp, nhưng Thiên Chúa mời gọi mọi người vào cửa ấy, từ Đông chí Tây, từ Nam đến Bắc, tất cả đều được mời gọi vào bàn tiệc Nước Trời không trừ ai với điều kiện đơn giản là tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa và thực hành những điều Người dạy:”Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”(Lc 11,28). Như vậy không được chễnh mãn, ỷ lại mình là Kitô hữu, thì đương nhiên được hạnh phúc Nước Trời, như người Do thái xưa quan niệm là dân riêng của Thiên Chúa, thì Ngài phải lo cho. Hãy nhớ Thiên Chúa là Đấng nhân từ nhưng cũng công bằng vô cùng, là Kitô hữu mà thôi chưa đủ mà còn phải sống đời sống của Kitô hữu nữa thì mới đáng được hạnh phúc Nước Trời.
  6. Nếu ta hình dung vào Nước Trời phải qua cửa hẹp, chính mình phải qua đồng thời có trách nhiệm hướng dẫn người thân của mình qua cửa đó nữa. Thì những bậc phụ huynh, những người có trách nhiệm hãy lo cho con em mình về cả ba phương diện: thể dục, trí dục và đức dục. Phương cách giáo dục hiệu quả nhất đó chính là bằng đời sống gương mẫu. Khi bảo con đừng chưởi thề nói tục mà ta mở miệng ra là văng tục thì làm sao dạy được nó. Bảo con đi Lễ thờ phượng Chúa mà ta không bao giờ đi, thì thật là khó thuyết phục nó…!
  7. Qua cửa hẹp mới có thể hưởng hạnh phúc muôn đời, tuy biết vậy mà nhiều khi chúng ta không cố gắng. Thí sinh ra sức học để thi vào trường này trường nọ, nhưng rồi bằng cấp, chức vị không thể trường tồn, bởi cái chết sẽ kết thúc tất cả. Lực sĩ ra sức luyện tập, kiêng cử đủ điều nhưng rồi kỷ lục cũ sẽ nhường chỗ cho kỷ lục mới! Còn hạnh phúc Nước Trời thì không bao giờ mất, vậy ta càng có lý do cố gắng hết sức để bước theo Đức Giêsu vào cửa hẹp bởi chính Người là đường là sự thật và là sự sống. Amen. [Mục Lục]

31. Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh

“HÃY GẮNG MÀ VÀO QUA CỬA HẸP”

Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên hôm nay vẫn theo Phúc Âm Thánh Luca, đúng như chu kỳ Năm C của mình, chứ không như chu kỳ Năm B theo Phúc Âm Thánh Marcô đã được Giáo Hội thay bằng Phúc Âm Thánh Gioan, từ Chúa Nhật 17 đến Chúa Nhật 21 tuần này, với chủ đề về Bánh Hằng Sống bởi trời xuống, trích nguyên đoạn thứ sáu của Phúc Âm thứ bốn này. Tuy nhiên, Giáo Hội cũng bỏ phần cuối của đoạn 12 về những dấu chỉ thời đại, và nhẩy sang đoạn 13, và chỉ lấy ở đoạn 13 này có tám câu, từ cầu 22 đến 30, sau đó lại bỏ 4 câu cuối của đoạn này để nhẩy sang đầu đoạn 14 vào Chúa Nhật XXII tuần tới. Đó là dấu chứng tỏ cho chúng ta thấy bài Phúc Âm bao giờ cũng phải phản ảnh ý hướng của Mùa Phụng Vụ. Vậy để tiếp theo ý nghĩa về “Lửa”Thánh Linh của bài Phúc Âm Chúa Nhật XX tuần trước, bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C tuần này muốn nói gì, phải chăng đến việc “hãy gắng mà vào qua cửa hẹp”?

Thật ra, nếu đối chiếu với hai bài đọc một và hai trong phần Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, chúng ta thấy bài đọc một theo Sách Tiên Tri Isaia chỉ hợp với phần cuối của bài Phúc Âm và bài đọc hai theo Thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Do Thái lại chỉ hợp với phần đầu của bài Phúc Âm. Trước hết, bài đọc một theo Sách Tiên Tri Isaia chỉ hợp với phần cuối của bài Phúc Âm ở chỗ, cả hai đều nói đến ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa. Theo Sách Tiên Tri Isaia trong bài đọc một thì ý định cứu độ phổ quát này được bộc lộ qua lời Chúa phán: “Ta đến để qui tụ các dân tộc của đủ mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta… Ta sẽ sai những kẻ đào thoát … đến với các dân nước… đến các bờ cõi xa xăm chưa hề nghe nói về Ta hay chưa thấy vinh quang của Ta…”, và ý định cứu độ phổ quát này cũng được Chúa Giêsu xác nhận trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay: “Người ta sẽ từ đông sang tây, từ bắc chí nam đến ngồi vào chỗ của mình trong bữa tiệc vương quốc Thiên Chúa”. Nếu bài đọc một hợp với phần cuối của bài Phúc Âm thì bài đọc hai theo Thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Do Thái lại chỉ hợp với phần đầu của bài Phúc Âm, liên quan đến nỗ lực con người cần phải đáp ứng ý định cứu rỗi phổ quát của Thiên Chúa. Nếu Chúa Kitô khuyên dạy người Do Thái trong bài Phúc Âm hôm nay là “hãy gắng qua cửa hẹp mà vào”, thì Thánh Phaolô cũng kêu gọi Giáo Đoàn Do Thái thế này: “Anh em hãy chịu đựng những gian nan thử thách như người môn đệ của Thiên Chúa, Đấng đối xử với anh em như con cái… Vậy anh em hãy kiên cường lên bàn tay rụng rời của mình và đầu gối bại nhược của anh em”.

Như thế, căn cứ vào cả ba bài đọc trong Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, chúng ta thấy có hai vấn đề chính yếu, đó là vấn đề ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa và vấn đề nỗ lực con người cần phải đáp ứng ý định cứu độ phổ quát này của Ngài. Tuy nhiên, theo Lời Chúa Giêsu mạc khải trong bài Phúc Âm hôm nay thì hình như vấn đề cứu độ không phải chỉ vỏn vẹn và đơn giản có thế, nghĩa là chỉ cần Thiên Chúa muốn cứu độ con người và chỉ cần con người nỗ lực đáp ứng là xong, là đủ. Đó là lý do, để trả lời cho vấn nạn của một người đặt ra trên đường Người lên Giêrusalem, về vấn đề: “Phải chăng có ít người được cứu độ?”, Chúa Giêsu chẳng những đã nhấn mạnh đến việc con người cần phải đáp ứng ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, khi Người phán: “Quí vị hãy gắng qua cửa hẹp mà vào”, mà còn nhấn mạnh đến cả yếu tố đặc biệt khác nữa, qua lời khẳng định: “Tôi bảo cho quí vị biết: nhiều người sẽ cố vào mà không được”. Ở đây, Chúa Giêsu không nói “ít người”mà là “nhiều người”, và Người cũng không nói “nhiều người”ấy “muốn vào”mà là “cố vào”, tức là không phải “nhiều người”ấy chỉ muốn xuông mà còn hết sức thực hiện ý muốn được cứu độ của mình nữa. Vậy “nhiều người”ấy đã tỏ ra “cố vào”bằng cách nào, nếu không phải, như Chúa Giêsu cho biết tiếp trong bài Phúc Âm qua lời họ tự biện hộ cho mình trước tòa phán xét chí công khi thấy mình hoàn toàn bị xua đuổi loại trừ: “Chúng tôi đã ăn uống chung với Ngài. Ngài đã dạy dỗ chúng tôi nơi phố xá”. Vậy, yếu tố vô cùng thiết yếu để được cứu độ đây không phải chỉ là “ăn uống với Ngài”, như kiểu Kitô hữu Công Giáo chúng ta năng xưng tội rước lễ, cũng không phải như anh em Kitô hữu Tin Lành chỉ nghe “Ngài đã dạy dỗ chúng tôi nơi phố xá”, những lời đã được ghi chép lại trong Thánh Kinh, mà còn là và chính là ở tại việc nhận biết Đấng mà họ “đã ăn uống chung với Ngài”và đã nghe “Ngài dạy dỗ nơi phố xá”. Thật thế, còn ai hơn các vị tông đồ là những người được diễm phúc “ăn uống chung với Ngài”và nghe “Ngài dạy dỗ”, chẳng những nghe “Ngài dạy dỗ nơi phố xá”, nghĩa là chung với dân chúng, mà còn “dạy dỗ”riêng tư nữa, và chẳng những một năm mà là ba năm liền. Ấy thế mà cuối cùng, các Phúc Âm cho chúng ta biết, một vị quay ra phản nộp Thày, tất cả mọi người đào tẩu khi thấy Thày bị bắt, nhất là vị đầu đàn công khai trắng trợn chối bỏ Thày.

Bởi thế, dù có “ăn uống chung với Ngài”và có được nghe “Ngài dạy dỗ”, nếu tận thâm tâm không thực sự nhận biết Ngài như Ngài mạc khải cho biết, thì cuối cùng chúng ta vẫn bị Ngài tuyên bố vĩnh viễn ruồng bỏ: “Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta”. Chưa hết, để thành phần hư đi này thấy được lý do chính đáng tại sao Ngài ruồng bỏ họ, dù họ đã “ăn uống chung với Ngài”và đã nghe “Ngài dạy dỗ”, ngay sau khi tuyên phạt họ, Ngài liền cho họ biết thành phần được cứu độ như sau: “Ở đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả mọi tiên tri an lành trong vương quốc của Thiên Chúa…”. Qua việc điểm mặt chỉ tên thành phần được cứu độ như thế, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho riêng dân Do Thái và chung Kitô hữu chúng ta biết yếu tố cứu độ quyết liệt, đó là con người cần phải có Đức Tin Thần Linh, vì thành phần được Chúa Giêsu điểm mặt chỉ tên quả đã sống đức tin, như Thánh Phaolô nhắc lại để làm gương trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái đoạn 12 từ câu 8 đến 19 về Abraham, câu 20 về Isaac, câu 21 về Giacóp, và từ câu 35 đến 37 về các tiên tri. Vậy “hãy gắng mà vào qua cửa hẹp”đây có thể được chuyển dịch là “hãy gắng sống đức tin”.

Nếu thành phần được cứu độ chỉ có thế, chỉ đếm được trên đầu ngón tay như thế, thì quả thực những kẻ được cứu rỗi thật là hiếm hoi ít ỏi. Tuy nhiên, ngoài những thành phần tiêu biểu được cứu rỗi trong Dân Chúa thuộc về Cựu Ước này, Chúa Giêsu, ngay sau đó, còn thêm trong bài Phúc Âm hôm nay là: “Người ta sẽ từ đông sang tây, từ bắc chí nam đến ngồi vào chỗ của mình trong bữa tiệc vương quốc Thiên Chúa”. Như thế thì thành phần được cứu độ cũng nhiều chứ không ít. Thế nhưng, thành phần Dân Ngoại thuộc Tân Ước này sẽ được cứu độ như thế nào, nếu không phải, trước hết, chẳng những bởi ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa mà còn bởi ý muốn tự do chọn lựa của Thiên Chúa nữa. Đó là lý do hiện hữu và là tất cả ý nghĩa của lời Chúa Giêsu kết thúc bài Phúc Âm hôm nay: “Có những người sau hết sẽ lên trước hết và có những người trước hết sẽ thành sau hết”. Thành phần “sau hết sẽ nên trước hết”này không phải là thành phần Dân Ngoại hay sao? Điển hình nhất là trường hợp của ba chiêm gia Đông phương, những người chưa hề “ăn uống chung với Ngài”hay nghe “Ngài dạy dỗ”như dân Do Thái trong Mạc Khải Cựu Ước, thế mà họ cũng từ xa đến để triều bái “vua Do Thái mới sinh”, như Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 2 từ câu 1 đến 12; trong khi đó, cũng Phúc Âm này cho biết, chính dân Do Thái, nhờ Mạc Khải Cựu Ước của mình, biết được nơi “vua Do Thái mới sinh”là “ở Bêlem xứ Giuđa”, song họ chỉ thông báo cho dân ngoại biết thôi, chứ họ không tin, nên không đến, thậm chí có đến không phải để triều bái Ngài như ba nhà chiêm gia Đông phương, mà là để tiêu diệt vị hài vương này. Phải chăng chính vì thế Chúa Giêsu đã ám chỉ họ là thành phần “trước hết sẽ thành sau hết”?

Vậy nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C hôm nay chính yếu nói về thành phần được cứu độ và lý do hay yếu tố khiến họ được cứu độ, thì ý ngghĩa của bài Phúc Âm hôm nay liên hệ với ý nghĩa của bài Phúc Âm về “Lửa”Thánh Linh tuần trước ra sao? Theo tôi, ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI tuần này tiếp tục ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật XX tuần trước trong việc phản ảnh chủ đề phụng vụ trong Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh. Ở chỗ, nếu “không ai có thể tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa nếu không có Thánh Thần”, như Thánh Phaolô xác tín trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô, được Giáo Hội lập lại trong bài đọc hai của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, mà yếu tố tối khẩn để được cứu độ là Đức Tin Thần Linh, bởi thế, dù là dân Do Thái hay Dân Ngoại, muốn được cứu độ, ai cũng phải có “Lửa”Thánh Linh do Chúa Kitô mang xuống từ trời, và là một thứ “Lửa”đã được Người chính thực thắp lên bằng Cuộc Vượt Qua của Người, trước hết, nơi các tông đồ khi Người sống lại từ trong cõi chết, rồi sau đó, qua các Vị Tông Đồ Chứng Nhân Tiên Khởi này, cũng như các Vị Chứng Nhân Đức Tin Tông Truyền, Người vẫn tiếp tục thắp lên trong lòng người trên khắp thế gian, cho đến khi Người lại đến trong vinh quang.

Vấn đề thực hành sống đạo: Lời Chúa Giêsu khuyên dạy “hãy gắng mà vào qua cửa hẹp”trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh hôm nay có thể được chuyển dịch là “hãy gắng sống đức tin”, bằng không tất cả mọi việc chúng ta làm, như “ăn uống chung với Người”qua việc xưng tội rước lễ, hay như tác động nghe “Người giảng dạy”, qua việc đọc Thánh Kinh chẳng hạn, tự chúng cũng không thể cứu độ chúng ta. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nếu không có đức tin, chúng ta đã không xưng tội rước lễ hay đọc Thánh Kinh là những gì siêu nhiên và thiêng liêng giúp chúng ta có thể giao tiếp với “Thiên Chúa là Thần Linh”(Jn 4:24). Vậy làm thế nào để biết mình lúc nào đang thực sự sống đức tin, bằng những việc tỏ ra bề ngoài, và lúc nào thực hiện những việc làm đức tin bề ngoài ấy mà lại phi đức tin, để có thể tránh khỏi số phận: “Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta”. [Mục Lục]

32. Cửa hẹp – Lm. Bùi Quang Tuấn

Giáo trưởng Meir của người Do thái có viết: “Để được cứu rỗi, người ta phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do thái là ngôn ngữ thánh, và sáng chiều đọc kinh Shema”. Có lẽ ý tưởng này xuất phát từ quan niệm “tự tôn chủng tộc”của một số trường phái vốn từng hiện diện trong thời Chúa Giêsu. Theo họ, ai có gốc Do thái đều được cứu độ hết.

Riêng những thành phần bị ảnh hưởng của cuốn mạo thư Esdra thì tin tưởng rằng số người được cứu thoát sẽ không nhiều lắm.

Nhưng dù với quan niệm nào đi nữa, người Do thái vẫn không thể hình dung hay chấp nhận được việc dân ngoại bước vào trong Nước Thiên Chúa. Thế nên, trên con đường tiến lên Giêrusalem, đang khi Chúa Giêsu nói với đám đông dân chúng và môn đệ về Tin mừng Nước Trời, một người Do thái, không rõ thuộc thành phần nào, đã đến xin Ngài giải đáp thắc mắc: “Phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?”

Theo nhận xét của nhà chú giải Kinh thánh Noel Quesson, thì đây là một câu hỏi nóng bỏng và luôn hiện thực. Ông viết: “Một câu hỏi rất nhân bản, căng phồng giòng máu của những quan hệ tình cảm con người. Bởi vì làm sao tôi có thể hưởng hạnh phúc trên trời nếu những người thân yêu không có ở đó? Một câu hỏi rất tự nhiên! Bạn chớ đến dự tiệc Nước Trời một mình; trên những nẻo đường bạn đi, hãy cao rao Tin mừng, vì Lời Chúa hứa là bánh được ban để ta chia sẻ với mọi người. Bất kỳ ai không ước ao “tất cả”đều được cứu, chính người ấy không hoàn thành luật của Nước Thiên Chúa là tình yêu phổ quát”.

Thế nhưng thay vì trả lời trực tiếp cho câu hỏi rất tự nhiên và chân thành đó, Đức Giêsu lại đưa con người vào một sự chọn lựa đầy tính chiến đấu: “Hãy cố gắng đi qua cửa hẹp”. Đức Giêsu không bảo số người được cứu sẽ ít hay nhiều như một sự sắp sẵn hoặc tiền định của Thiên Chúa, nhưng Ngài mời gọi nơi con người một cuộc phấn đấu quyết liệt để đạt đến sự sống muôn đời.

Không phải vì Đấng Cứu Thế không thể xác định con số những ai được cứu thoát, nhưng vì Ngài không muốn đặt người ta vào tình trạng dửng dưng hoặc kinh hoàng. Bởi vì nếu câu trả lời là “mọi người đều lên trời”thì coi chừng một sự buông thả, không còn gì phải lo lắng bị mất phúc đời đời. Còn nếu câu trả lời là “rất ít người được cứu độ”thì liệu mình nhọc công tổn sức mà có chắc được gì hay không?

Tuy nhiên, như Thánh Phaolô xác quyết, “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu rỗi”(1 Tim 2:4). Và Đức Giêsu thì nói: “Cha các ngươi Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này”(Mt 18:14). Như thế, ơn Chúa không hề giới hạn theo khu vực, chủng tộc, số lượng, song là tuôn trào đến khắp mọi nơi và cho hết mọi người. Nhưng như thế không có nghĩa là người ta “bị”cứu độ. Trái lại họ luôn có tự do để đón nhận hay từ khước. Một chiếc ly không thể chứa được những giọt nước tươi mát của trời cao nếu như chẳng bao giờ ngữa miệng ly lên để hứng. Cũng thế, để hưởng được thành quả của ơn thiêng, người ta phải mở rộng tấm lòng và hướng về cùng Thiên Chúa.

Mặc dầu Máu Đức Kitô có khả năng đem lại sự tha thứ cho mọi người, nhưng nếu tôi không tiếp nhận thì ơn giải thoát cũng không thể thấm đượm tâm hồn. Thế nên, khả năng cứu độ thì bao trùm tất cả, nhưng hiệu năng thì tuỳ thuộc vào nhiệt tâm đáp trả của mỗi người.

Câu trả lời của Đức Giêsu đã chuyển cái nhìn từ số lượng qua chất lượng. Không phải là chuyện ít hay nhiều, nhưng là có năng nổ chiến đấu để giành cho được hạnh phúc Nước Trời hay không.

Không thể mang ảo tưởng: có đạo là tự động vào thẳng thiên đàng. Cũng không phải cứ “lạy Chúa, lạy Chúa”mà đã trở thành người Kitô hữu chính danh, song tôi phải anh dũng như các chiến binh chống lại kẻ thù ma quỉ, thế gian, và xác thịt.

Cuộc đời có biết bao lôi cuốn cam go, nhưng chỉ khi can đảm, không thoả hiệp hay nhân nhượng với kẻ thù, người ta mới có thể nói được như Phaolô: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện”(2 Tim 4:6-8).

Lắm khi để huấn luyện tôi nên người chiến binh dũng mạnh hầu chiến đấu đến cùng đường, Thiên Chúa cũng phải “quở trách… sửa dạy…và đánh đòn”(Dt 12:5-6). Âu cũng “vì thương con nên cho roi cho vọt”và “có gian nan mới tạo chí anh hùng”.

Trong nhiều bộ lạc Da đỏ Mỹ Châu hay có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng như sau: khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ: “Con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay”. Sau đó người bố rút lui.

Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rùng rợn. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của chim ăn đêm cũng có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định.

Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút đi. Bầu trời từ từ hừng sáng. Nỗi sợ hãi trong đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện: cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chầm lấy bố, reo lên: “Bố đã trở lại”. Người cha hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứa bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.

Để trở thành chiến binh anh dũng trên mặt trận đức tin, lắm khi tôi cũng phải chấp nhận bao thách đố trong bóng đêm cuộc đời. Những đe doạ của sự dữ, gầm rú của khổ đau, rình chờ của xác thịt như những phương thế giúp tinh luyện lòng tôi thêm can trường dũng mạnh. Và trong suốt chiều dài của những bóng đêm đó, dù tôi có ý thức hay không, Thiên Chúa vẫn luôn bên cạnh dõi mắt trông nhìn.

Có lẽ những khi “bóng đêm”buông xuống lại chính là những lúc tôi được gần Thiên Chúa hơn hết. Nhưng liệu tôi có biết lợi dụng nó như một dịp đi qua cửa hẹp để bước vào cung lòng yêu thương của Thiên Chúa hay không? [Mục Lục]

33. Hạnh phúc nước trời – Lm. Trần Minh Đức

Tôi không thể nào quên những ấn tượng đầu tiên trong những ngày mới tới nước Đức. Khi đi lễ tôi chỉ thấy những ông bà cụ già trong nhà thờ. Trẻ con và thanh niên không biết đi đâu? Ít lâu sau tôi được biết: Đại đa số không còn thường xuyên đi lễ ngày chúa nhật. Nhưng mỗi lần đi lễ họ lên rước lễ. Đời sống đạo ở tây phương không thể nào so sánh với những nơi khác! Tuy vậy, tôi vẫn tự hỏi trong thâm tâm giống như xưa có kẻ đã hỏi Đức Giêsu: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không? “

Nếu như chúng ta đọc đi đọc lại, quan sát một cách tỉ mỉ bài Phúc âm hôm nay, chúng ta sẽ rất ngạc nhiên trước những giải đáp của Đức Giêsu. Ngài không trực tiếp trả lời, cũng không thỏa mãn những hiếu kỳ của chúng ta về số phận của những người sống chung quanh chúng ta sau khi chết, cũng không đưa ra những tiên đoán vu vơ về ngày tận thế. Điều quan trọng đối với

Đức Giêsu chính là giây phút hiện tại, số phận của mỗi người trong chúng ta.

Câu trả lời của Đức Giêsu đòi hỏi các tông đồ năm xưa cũng như chúng ta ngày nay phải ra công gắng sức nhiều hơn. Ngài nói rằng: Nếu như chúng ta nghĩ rằng, chúng ta thuộc về phần thiểu số được cứu vớt, thì chúng ta phải dùng toàn bộ khả năng và sức lực của mình để có thể đi qua cửa hẹp. Đừng tốn phí thời giờ để ngồi đoán xét dông dài người này người kia, chuyện này chuyện nọ. Ích lợi gì khi chính mình bị luận phạt, bị khổ ải trầm luân!…

Đức Giêsu biết rằng, Thiên Chúa nhân hậu từ bi khôn lường. Ai hoàn toàn phó thác mình trong bàn tay đầy yêu thương quan phòng của Thiên Chúa, kẻ đó sẽ biết rõ hơn ai hết. Đức Giêsu nhìn thấy cửa trời mở ra, Thiên Chúa sẵn sàng đón tiếp chúng ta vào chung hưởng phúc thiên đàng, nhưng cửa rất hẹp. Ai đi đường rộng thênh thang, sống tự do phóng túng sẽ không thể nào đạt đến đích.

Rabbi Baruka, một người thông thạo Kinh thánh, đã kể một ngụ ngôn do thái như sau: Ông thường ra ngoài công trường. Một hôm tiên tri Êlia hiện ra trước mặt ông. Ông hỏi ngài: Trong đám đông này có người nào được chung hưởng hạnh phúc nước trời không? Êlia trả lời: Không có ai cả! Một lúc sau xuất hiện hai người tại công trường. Êlia nói với ông: Hai người này sẽ được vào thiên đàng. Rabbi Baruka liền hỏi hai người mới tới: Các anh làm nghề gì? Họ trả lời: Chúng tôi là vua hề. Khi chúng tôi thấy ai đó có vẻ buồn bã, chán đời thì chúng tôi tìm cách làm cho kẻ ấy vui vẻ trở lại. Khi chúng tôi thấy hai người tranh chấp cãi cọ, thì chúng tôi giúp họ làm hoà với nhau.

Tôi thiết tưởng câu chuyện này có phần giống như lời của Đức Giêsu. Ngài đòi hỏi chúng ta phải tận sức để có thể đi qua cửa hẹp. Có lẽ đến một lúc nào đó thì cánh cửa chật hẹp này sẽ bị khoá lại. Không phải chỉ có dân gian ác, trộm cướp không được vào, mà cả những kẻ tự cho rằng mình thuộc thành phần gia giáo, chẳng cần cố gắng cũng được vào. Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy một viễn tượng mới: Có nhiều người từ bắc chí nam, từ đông sang tây sẽ được vào chung hưởng hạnh phúc nước trời. Khổ một điều là: liệu chúng ta có ở trong số đó không? Tuy cánh cửa chật hẹp, nhưng Thiên Chúa không chịu thua lòng quảng đại của chúng ta. Ngài luôn luôn rộng tay chúc phúc và đón chờ chúng ta. Một khi chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức, sẵn sàng yêu mến và tôn trọng người khác như chính mình thì chúng ta tin rằng, hạnh phúc lớn lao đang chờ đợi chúng ta ở cuối chân trời bên kia. [Mục Lục]

34. Chọn cửa hẹp vì yêu

Theo tâm lý chung của con người, ai cũng muốn cái gì đó rộng rãi và thoải mái. Ở một ngôi nhà rộng rãi và đầy đủ tiện nghi thì thích hơn một ngôi nhà tù túng, chật hẹp. Đi trên một con đường lớn rộng thì cảm thấy dễ chịu hơn một con đường gồ ghề, nhỏ bé. Đối với người tín hữu, dường như chúng ta cũng muốn Chúa và Giáo hội rộng rãi và cho chúng ta được thoải mái trong việc giữ và sống đạo. Tuy nhiên, đằng sau những sự rộng rãi ấy quan trọng là có thật sự mang lại lợi ích cho chúng ta không.

Có lẽ, chúng ta sẽ thất vọng khi thấy Chúa và Giáo hội có vẻ như không đáp ứng được mong muốn của mình. Hơn nữa, với câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin mừng Chúa nhật hôm nay lại càng làm cho chúng ta thất vọng hơn. Khi ấy, có người hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”. Chúa Giêsu đã không trực tiếp trả lời câu hỏi ấy mà lại nói: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”. Vậy “cửa hẹp” ở đây là gì và tại sao cần phải vào qua cửa ấy lại còn phải chiến đấu?

Trước hết, chúng ta hãy tin chắc là Thiên Chúa luôn muốn cứu độ con người và luôn mong muốn cho mọi người được hạnh phúc thật. Cho nên với câu trả lời của Chúa Giêsu chúng ta cũng hãy tin chắc là vì Người muốn chúng ta được cứu độ và hạnh phúc thật. Vì thế, cửa hẹp ở đây chúng ta không thể hiểu theo nghĩa vật chất mà phải hiểu rộng hơn, có tính cách thiêng liêng hơn.

Vì yêu thương và vì muốn cứu chuộc chúng ta nên chính Chúa Giêsu đã chọn qua cửa hẹp. Chúa Giêsu lên Giêrusalem nghĩa là Người chấp nhận đi vào con đường thập giá, con đường tử nạn. Cả cuộc sống của Chúa Giêsu ở trần gian cũng là đi vào cửa hẹp. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” (Pl 2, 6 – 8)

Như thế, nhìn vào Chúa Giêsu chúng ta thấy cửa hẹp là những gì không theo như ý muốn của riêng mình mà theo ý muốn của Thiên Chúa Cha. Khi chúng ta biết làm theo ý muốn Chúa Cha chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta và người khác lợi ích thiêng liêng, quý giá. Cho nên vì lợi ích của ta và của người khác và nhất là vì yêu, chúng ta sẵn sàng chọn vào qua cửa hẹp.

Chúng ta thấy, hai người nam nữ yêu nhau thật lòng sẽ vì nhau và hạnh phúc của nhau mà sẵn sàng từ bỏ những ý muốn và sở thích riêng tư. Cũng thế, một đứa con vì yêu cha mẹ nên sẽ bằng lòng vui vẻ từ bỏ những điều cha mẹ không muốn mình làm vì lợi ích của mình. Đó là những cửa hẹp.

Chúa Giêsu đã hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. (Ga 14, 25). Vậy nếu cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình chúng ta cũng sẽ biết đáp lại bằng tình yêu. Một trong những cách đáp đền tình yêu Chúa là chúng ta chọn vào qua cửa hẹp. Vào qua cửa hẹp là chúng ta sống theo những gì Chúa và Giáo hội truyền dạy. Chắc chắn khi quyết tâm sống theo những gì Chúa và Giáo hội dạy thì đòi hỏi chúng ta cần phải chiến đấu nhiều với bản thân mình. Cho dù trước mắt chúng ta sẽ thấy hơi gò bó, chật hẹp nhưng chúng ta hãy tin chắc đằng sau cửa hẹp ấy là một cuộc sống hạnh phúc bền vững. [Mục Lục]

35. Cửa Nước Trời

Tất cả mọi người trên trần gian này đều được mời gọi gia nhập Nước Chúa. Cửa luôn mở ra cho tất cả mọi người vào như là “cửa hẹp”, và phải qua kịp thời. Một khi đã được vào thì phải sống xứng đáng, do đó để được phải mỗi người cần phải cho Chúa sửa chữa uốn nắn.

  1. Cửa vào Nhà Chúa

Nhà Chúa luôn niềm nở, đón tiếp nhưng người ta chỉ có thể vào qua một cửa, cửa đó mở ra cho những người đến đúng lúc và có sự chuẩn bị xứng đáng. Tuy nhiên cửa đó lại là cửa hẹp, và người ta phải cố gắng mới được vào Quả thực, bài Tin Mừng hôm nay giáo huấn cho chúng ta biết về cái gọi là “cửa hẹp” được gia bội lên bằng một dụ ngôn về cửa đóng với những lời cảnh cáo thật đáng lo ngại.

  1. Cửa hẹp

Theo bối cảnh lịch sử tôn giáo Israel chúng ta hiểu khá rõ về cửa hẹp mà Đức Giêsu nói đến ở đây là cái cửa mà người Do Thái giáo thời đó từ chối không muốn bước qua. Cửa hẹp đó chính là lòng tin vào Đức Kitô. Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa.

Ta thấy Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu nói có người đặt ra liên quan đến con số những người được chọn: “thưa Thầy, ít người được cứu rỗi phải không” Ngài đã đáp lại rằng trong số những người Do Thái thời bấy giờ, thì có nhiều đã từ chối không nhận Ngài, là cứu Chúa đã hứa, họ muốn tìm lối khác nhưng không được vào (c24).

  1. Cửa đóng

Như đã nói trên, dụ ngôn cửa đóng đã được vận dụng để làm tăng thêm tầm quan trọng của cửa hẹp, buộc người ta phải đi qua lúc còn đang mở. Cửa tuy hẹp nhưng là cửa mở. Song mở thì cũng có thời có lúc mà thôi chứ đâu mở mãi bao giờ. Tất nhiên lúc mở là lúc muốn cho người ta ra vào, còn lúc đóng là lúc không còn muốn cho người ngoài vào cũng chẳng muốn cho người trong ra nữa. cho nên lúc mở cho vào mà không chịu vào, đến lúc đóng có muốn vào thì không được vào nữa, cho dù có đứng ngoài kêu gào, van xin cũng trở nên vô ích thôi, còn bị mắng đuổi đi nữa là đàng khác “Ta không biết các ngươi” và “Hãy xéo đi xa Ta”

Cái khổ nhất cho người không được vào là có kẻ khác đang sung sướng dự tiệc bên trong, nhất khi những người được vào đó lại là những người ở xa mà đến. Còn mình, ở gần, được mời, nhưng vì không khôn ngoan, nên phải đứng ở ngoài. Có khóc lóc, buồn sầu, nóng giận, hay nghiến răng cũng chỉ thế thôi, và càng thêm khổ tâm. Vì “có mà không biết đón nhận”

Hiểu như trên chúng ta thấy Chúa dùng những dụ ngôn “cửa hẹp” và “cửa đóng” là để cảnh tỉnh những người Israel cứng lòng. Họ là những người được xem là “dân riêng”, những người được hứ là sẽ được Đấng Thiên Sai cứu thế trước các dân tộc khác. Nhưng tới lúc Ngài đến, Ngài giảng dạy, Ngài làm những phép lạ cả thể để chứng tỏ Ngài là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa thì người ta lại không tin không nhận. tin Chúa Giêsu chính là điều kiện tối cần để được ơn cứu rỗi, cho nên được ví như là “cửa hẹp” độc nhất, người ta phải qua không còn lối nào khác nữa. bất cứ ai tin Ngài đều được cứu rỗi và ngược lại ai không tin thì bị luận phạt. không gì có thể thay thế được lòng tin đó. Chính Chúa Giêsu đã trả lời “Ta không biết các ngươi, phương gian ác hãy xéo đi”. Do đó, người Do Thái tuy được gọi trước, nhưng lại là kẻ đến sau vì chậm tin, và một số khác bị loại ra ngoài vì họ cứng lòng tin. Còn những người ngoại, tuy được gọi sau nhưng vì sự mau mắn nên họ là những người vào trước cả những người được mời trước.

Hạnh phúc cho ta là được biết Chúa, tin Chúa, sống trong gia đình của Chúa như một người con, được Chúa sửa chữa cho nên thành toàn. Đây có phải là một sự đổi mới do ta không? Và do ai? Tin Chúa là được vào gia đình của Chúa, nhưng sống trong nhà Chúa ta còn phải trung thành, và cố gắng sống theo giáo huấn của Chúa nữa. chắc chắn ai cũng biết mình chưa thành toàn, còn nhiều lỗi lầm, nhưng sẵn sàng để Chúa sửa chữa bằng cách này hay cách khác. Tôi có nhận ra những góp ý, xây dựng từ những người xung quanh mà Chúa gởi đến trong cuộc sống không. Ngoài ra chúng ta cũng được mời gọi góp phần xây dựng nước Chúa bằng cánh hướng dẫn anh em xung quanh để nhằm đưa họ vào Nước trời cùng với chúng ta. Amen. [Mục Lục]

36. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Câu Kinh Thánh “Hãy đi đường hẹp… Đừng đi đường rộng” có thể áp dụng cho “những con đường nên thánh” không? Áp dụng thế nào?
  2. Nên thánh bằng con đường rộng, và bằng con đường hẹp là gì?

Suy tư gợi ý:

  1. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”

Thông thường, ai cũng thích đi vào những con đường rộng rãi, cao cấp, vì tại đó có thể đi bằng những loại xe lớn, mắc tiền, tốc độ cao, có thể phóng xe thoải mái, đỡ mệt trí. Không mấy ai thích đi đường hẹp, nhỏ, vì chỉ có thể đi bằng xe nhỏ hay đi bộ, vừa mệt lại vừa chậm chạp.

Cũng vậy, để đạt tới sự thánh thiện, theo tâm lý tự nhiên, ai cũng thích đi con đường rộng, vừa làm những việc lớn lao, tiếng tăm lừng lẫy, được mọi người coi là vĩ đại, tôn là thần thánh, vừa đỡ phải hy sinh, đỡ chịu thiệt thòi, vừa có danh, lợi, quyền, nhờ đó được hưởng biết bao ưu đãi, đặc quyền đặc lợi mà thế gian dành cho… Biết bao người muốn nên thánh bằng con đường “siêu xa lộ”này. Người chủ trương nên thánh kiểu này chủ trương rằng phải nên thánh làm sao để được hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Quả là một tính toán hết sức khôn ngoan… kiểu trần gian! Chẳng mấy ai muốn nên thánh bằng con đường hẹp, nhỏ, là con đường làm những việc nhỏ bé, tầm thường, âm thầm, vừa phải hy sinh nhiều mà chẳng được ai biết đến, lại chẳng được chút ưu đãi gì của trần gian. Quả là thiệt thòi nhiều chuyện!

Nhưng Đức Giêsu dạy chúng ta, đương nhiên ngay cả trong việc nên thánh, rằng hãy đi con đường nhỏ hẹp, khiêm nhu, ít người thích đi. Điều hết sức nghịch lý nhưng lại rất chí lý là con đường nhỏ hẹp ấy đem lại nhiều kết quả cho việc nên thánh đích thực hơn là con đường rộng rãi thênh thang. Vì đặc trưng của việc nên thánh là như vậy. Muốn nên thánh mà lại muốn đi vào đường lớn, muốn làm những việc to tát để ai cũng biết tiếng, để có được những thứ mà người trần gian thường ao ước! Coi chừng kẻo mình đang làm mọi sự vì mình, vì vinh danh mình, vì lòng kiêu ngạo, để làm phình to bản ngã, chứ không phải vì vinh danh Chúa hay vì yêu mến Chúa và vì lợi ích của tha nhân. Mang tiếng là vì Chúa, cho Chúa, nhưng thực ra là vì mình tất cả! Chúa chỉ là phương tiện phục vụ cho những mục đích của mình! Chính vì thế, con đường thênh thang rộng rãi đầy “mầu mè thánh thiện” này nhiều khi lại dẫn đến đổ vỡ trước mặt Thiên Chúa. Sự đổ vỡ ấy được đề cập đến ngay trong bài Tin Mừng này.

  1. Một sự đảo ngược không ngờ

Những người muốn nên thánh kiểu “khôn ngoan”kia thường nghĩ rằng: đời này mình được thần thánh hóa, được mọi người tôn vinh, nể trọng, kính phục, ắt đời sau mình cũng là một nhân vật đáng kể ở trên trời. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy vào “ngày ấy”, có một sự đảo lộn không ngờ được: “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”. Đứng chót cũng còn đỡ, bài Tin Mừng còn cho thấy một viễn ảnh đen tối hơn: “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài”. Đương nhiên sẽ có biết bao người lấy làm lạ, vì thấy mình đã làm cho Chúa biết bao nhiêu điều to tát ở trần gian. Họ hỏi Chúa: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Hoặc “Nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?”(Mt 7,22). Nhưng câu trả lời của Chúa thật như tát vào mặt họ một cách bất ngờ: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” Thật ít ai hiểu được tại sao những người mà trần gian tưởng rằng đầy công nghiệp trước mặt Chúa lại bị Chúa trả lời phũ phàng và “vô ơn” đến như vậy!

  1. Muốn nên thánh, hãy chọn con đường nhỏ hẹp mà đi

Bài Tin Mừng trên quả thật đáng làm cho chúng ta ngạc nhiên và suy nghĩ, nhất là những người Ki-tô hữu đang theo lý tưởng nên thánh. Liệu sự đảo lộn ấy có áp dụng ngay trên chính bản thân ta không? Điều quan trọng là chúng ta cần xác định xem mình đang đi trên con đường loại nào để nên thánh? Đường nhỏ hay đường lớn? Đường mòn hay xa lộ? Nếu chúng ta thật sự muốn thành công trong việc nên thánh, hãy cẩn thận, đừng ham con đường rộng rãi, “vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó”(Mt 7,13). Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì “cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”(Mt 7,14). Nhưng thế nào là nên thánh bằng con đường rộng? Và thế nào là nên thánh bằng con đường hẹp?

Ta đang đi trên đường rộng, nếu ta vừa muốn nên thánh, mà lại vừa muốn và tìm cách dùng sự nên thánh ấy để hưởng được ít nhiều những thứ mà mọi người thế tục mong ước: quyền lực, tiếng tăm, địa vị, tiền bạc, được ca tụng, tôn vinh, quí trọng, được thần thánh hóa, được mọi người coi là đạo đức thánh thiện, được ưu đãi trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội bất chấp tài đức hèn mọn của mình, được ăn ngon mặc đẹp, và những thú vui trần tục khác. Những người nên thánh kiểu này có thể làm rất nhiều việc được coi là đạo đức, tốt đẹp, thậm chí dạy mọi người nên thánh nữa. Họ thường có vẻ bên ngoài rất thánh thiện, đạo mạo. Đức Giêsu nói về họ: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có (…) những kẻ bây giờ đang được no nê (…) những kẻ bây giờ đang được vui cười (…) được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6,24-26). Các nhà tu đức thường nói về họ: “sanctus videtur sed non est”(có vẻ thánh mà thực ra không phải). Vì họ phải như thế thì mới được mọi người nghĩ họ là thánh! Đặc tính không dấu được của những người này là để lộ ra “cái tôi” rất lớn của mình! Họ khó có thể chấp nhận có ai xúc phạm đến họ. Và họ không bao giờ dám dấn thân vào những gì nguy hiểm đến sự sống còn, đến địa vị hay nồi cơm của họ, khi lý tưởng “vì Chúa vì tha nhân”và tư cách “thánh thiện” của họ đòi hỏi!

Ta đang đi trên đường hẹp, nếu ta muốn nên thánh mà không ham được ai biết đến, cũng không tìm cách dùng cái “vẻ thánh thiện” của mình để hưởng được những thứ “hấp dẫn” trần tục ấy. Đặc tính dễ nhận ra của những người này là họ coi “cái tôi” của họ rất nhỏ! Không cảm thấy có vấn đề gì lớn khi bị ai xúc phạm, hiểu lầm. Họ không thích làm ra vẻ thánh thiện, đạo mạo. Và họ cũng sẵn sàng hy sinh khi lý tưởng vì Chúa vì tha nhân đòi hỏi. Các nhà tu đức thường nói về họ: “sanctus non videtur sed est”(không có vẻ thánh nhưng lại là thánh).

  1. Hãy tự xét mình để đừng ảo tưởng về mình

Quả thật, nhiều khi chúng ta tưởng mình rất tốt lành trước mặt Thiên Chúa, chỉ vì ta đã làm được biết bao việc tốt lành, nhiều hơn biết bao người khác! Vì những việc tốt đẹp ấy, biết bao người đã nể phục, kính trọng ta, khen ta là thánh thiện, tốt lành, đạo đức. Nhưng có bao giờ ta tự hỏi: trước con mắt của Thiên Chúa, ta cũng được đánh giá tốt lành như người chung quanh ta đánh giá không? Ta làm được biết bao việc tốt lành, nhưng động lực gì thúc đẩy ta làm những việc ấy? Vì yêu Chúa thương người khác được bao nhiêu phần trăm? Hoặc làm để được tiếng khen, để tạo uy tín, để được kính nể, để nhờ đó ta được bề trên và nhiều người tín nhiệm hơn, được lên chức, được nắm nhiều quyền hơn, vì sự khôn ngoan trần gian đòi buộc như thế… bao nhiêu phần trăm? Nếu thành thực với lòng mình, nhiều khi ta thấy mình vì Chúa, vì người khác rất ít, mà vì mình thì rất nhiều. Hãy coi chừng kẻo ta đang muốn nên thánh bằng con đường rộng rãi thêng thang, tuy được người trần gian ca tụng là thánh thiện, được thế gian tôn trọng ưu đãi, nhưng trước mặt Chúa lại là con số không to tướng! Cần luôn tỉnh thức và hồi tâm xét lại những động cơ của mình!

Cầu nguyện

Lạy Cha, thế lực xấu ở ngay trong bản thân con thật tài tình! Nó có thể đánh lừa chính con ngay cả trong việc cao cả nhất là việc nên thánh. Nó làm con tưởng rằng mình đang tiến bộ rất nhanh trên con đường nên thánh, vì làm được biết bao việc tốt lành cho Chúa và tha nhân! Nhưng thực ra con đang xây dựng cho vinh quang của con trước mặt người đời. Con đã ăn cắp vinh quang của Cha để hưởng cho con. Xin cho con biết phản tỉnh sâu xa để nhận ra tình trạng tệ hại ấy, và trở lại với con đường nên thánh nhỏ bé mà Cha muốn con đi. Amen. [Mục Lục]

37. Hãy phấn đấu hết mình – Jude Siciliano

Thưa quý vị,

Có lẽ chúng ta thắc mắc về động lực của nhân vật hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, những người được cứu thoát thì ít, phải không?”Ông ta hỏi vì tò mò hay vì tự mãn mình là thành viên của dân Do thái, nên đương nhiên sẽ được cứu rỗi? Hoặc giả ông ta thuộc đám đông đi lên Giêrusalem với Chúa, cho nên cảm thấy đã an toàn về phần rỗi, không bị ném ra ngoài theo như lời rao giảng của Chúa Giêsu cách đó ít lâu? Thực đúng không hễ thuộc về nhóm môn đệ Chúa là tự động được chia phần Nước Trời, chẳng cần cố gắng thêm? Thân cận với Chúa Giêsu là đủ rồi chăng?

Mấy câu nói của Chúa lúc khởi đầu phúc âm hôm nay, làm người nghe khiếp sợ: “Ngài bảo họ: hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có người sẽ tìm cách vào mà không thể được!”Quả thực Chúa không trực tiếp trả lời câu hỏi ít hay nhiều người được chọn, việc đó thuộc mầu nhiệm nước Trời, không ai được biết. Nhưng điều kiện để được nhận vào thật khó khăn. Cứ như tình trạng hiện thời của mỗi người, liệu chúng ta có chắc nắm được phần rỗi? Chúng ta làm đầy đủ nghĩa vụ một kitô hữu, là thành phần của cộng đoàn đáng kính, là môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta tuân giữ lề luật Hội thánh, ăn chay kiêng thịt, làm công tác bác ái. Liệu đã đủ chưa? Theo tiêu chuẩn loài người thì có lẽ đủ. Nhưng trước mặt Chúa Giêsu, Đấng thánh thiện vô cùng thì chưa bảo đảm. Chúa trả lời cho người chất vấn: Hãy quên đi vấn đề nhiều ít sẽ được vào dự tiệc cưới trên trời, nhưng xem xét lại phẩm chất sống đạo của mình. Thay vì đùa vui cho thoả mãn tính tò mò về con số thì hãy chú tâm vào những cố gắng của mình. Chúa dạy chúng ta phấn đấu hết mình để qua cửa hẹp. Từ phấn đấu ở đây trong tiếng Hylạp là Agonizesthe (hấp hối). Tiếng Anh là “agony”. Nó cho cảm tưởng là cạn kiệt sức lực, như các tay đua trong đấu trường thế vận hội Olympic. Họ luôn luôn phải mạnh hơn, cao hơn và nhanh hơn (forius, altius và citius), không ngừng phá kỷ lục cũ. Nhiều vận động viên đã tắt thở vì cố gắng quá sức. Nhiều năm tập luyện nghiêm khắc mới đưa họ được đến cuộc thi danh tiếng. Đúng là các vận động viên thể thao đã phải qua cửa hẹp, rất hẹp để đến vinh quang. Chúa Giêsu cũng kêu gọi các kẻ theo ngài có cùng thái độ nhân danh nước trời. Tuy nhiên Ngài biết rõ mục tiêu sẽ cân xứng với các cố gắng của họ. Và có thể là còn vượt xa hơn.

Trên bình diện siêu nhiên sự so sánh chỉ đúng một phần. Bởi lẽ chúng ta không cố gắng một mình. Và thành công không hẳn thuộc về loài người. Đã rõ nó đòi hỏi rất nhiều mồ hôi nước mắt, nghị lực và bền bỉ. Nhưng nằm dưới những cố gắng ấy là ơn thánh Chúa trợ giúp. Các câu truyện phúc âm đều nêu bật yếu tố quan trọng này. Cuộc đời thánh phaolô chẳng hạn. Các phấn đấu của ông luôn đi kèm với ơn thánh. Có lần ông than phiền vì khổ cực, Thiên Chúa trả lời: “Ơn ta đã đủ cho con rồi.”Khi hồi tâm Phaolô cảm nghiệm đúng như vậy. Cho nên sự vào qua cửa hẹp khởi đầu bằng lời mời gọi của Thiên Chúa. Khi lắng nghe và chấp nhận, tức khắc chúng ta sống trong vương quốc của ơn thánh, nguồn nghị lực chính yếu và cảm hứng sôi nổi của tiến trình phấn đấu thiêng liêng. Tín hữu nào trung thành với ơn gọi của mình thì là một “đại phúc”cho linh hồn. Viễn tượng thánh thiện không con bao xa.

Bài đọc 1 trích từ sách tiên tri Isaia: Đoạn nói về tái thiết Giêrusalem và đền thờ. “Đức Chúa phán như sau: Ta biết rõ việc làm và ý định của chúng, Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ, họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta.”Ngôn sứ báo trước một sự thay đổi lớn về tôn giáo thời cánh chung, mọi dân tộc sẽ thờ phượng Thiên Chúa. Cộng đồng Israel sẽ được phục hồi, bắt đầu giai đoạn lịch sử mới. Các dân tộc từ xa xôi như Tarsit (Bắc phi), Javan (Hylạp), put, lut đều được thi hành chức vụ tư tế như con cái Do thái: “Giống như con cái Israel mang lễ phẩm trên đĩa thanh bạch đến nhà Đức Chúa, người ta cũng sẽ đưa tất cả những anh em các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa.”Như vậy từ nay nhà của Đức Chúa Trời mở cửa đón nhận mọi linh hồn, bất kể màu da, ngôn ngữ, nguồn gốc. Tuy nhiên sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời khác với quan niệm của chúng ta về kẻ dữ người lành, kẻ trong người ngoài, kẻ trên người dưới. Chúa tuyên bố “kìa có những người đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”Chúng ta thật bối rối với lý luận của Chúa Giêsu. Chắc chắn thế giới của Ngài không phải là nơi chúng ta từng quen thuộc. Nó là thế giới hoàn toàn mới. Một đường lối khác lạ để thưởng phạt và thâu nhận vào nước trời qua cửa hẹp. Thực tế, Tin Mừng hôm nay đề nghị chúng ta cất bỏ mọi tính toán và tiêu chuẩn loài người vào kho và hãy để Đức Chúa Trời làm Thượng Đế trong việc thâu chọn. Hãy trở lại với bổn phận riêng và nhận ra sự khác biệt mà ơn thánh hoạt động trong mỗi thân phận. Lúc ấy chúng ta được khả năng phấn đấu vươn tới mục tiêu. Tạ ơn Thiên Chúa!

Để giúp đỡ nhận thức quan điểm chúng ta không nhìn vào Nước trời bằng khả năng riêng. Bài đọc hôm nay nhắc nhớ giai đoạn nào của Tin Mừng mà sự kiện xảy ra. Nó ở trên con đường Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để chịu chết chuộc tội cho thiên hạ. Như vậy lời khuyên “cố gắng vào bằng cửa hẹp”thật là ý nghĩa. Nó liên kết chặt chẽ với sứ mệnh của Chúa Giêsu. Ngài không lên Giêrusalem để vui chơi, dự lễ mà để chịu hành xích, khổ hình và tử đạo, mang ơn cứu rỗi cho toàn thể nhân loại. Ngài can đảm trung thành với sự vụ rao giảng và thực thi Tin Mừng. Ngay cả khi điều đó đòi hỏi đau khổ và tử nạn. Thánh Luca trong trình thuật hôm nay nhắc nhớ chúng ta: Đức Ki-tô là nguồn sống mới cho mọi tín hữu, khi Ngài làm hành trình lên Giê-ru-sa-lem. Ngài ban cho mỗi người ước vọng phấn đấu qua cửa hẹp mà vào Vương quốc Thiên Chúa. Thời Chúa Giêsu, khi người ta đồng bàn ăn uống thì đương nhiên trở nên thân thiết với nhau, coi nhau như người trong gia đình. Vậy những người hãy còn ở ngoài khi cửa đã đóng có quyền đòi hỏi chủ nhà phải mở. Họ có quyền yêu cầu Chúa Giêsu cho mình vào bên trong, bởi lẽ đã từng ăn uống với Ngài, thuộc về nhóm môn đồ của Ngài. Theo tiêu chuẩn xã hội thông thường thì họ có lý. Nhưng Chúa Giêsu cho biết đồng bàn với Ngài còn đòi hỏi nhiều hơn nữa. Những ai ăn uống với Ngài trong bữa tiệc Thánh Thể cần thánh thiện hơn nữa, chứ không chỉ là thành viên của cộng đồng, giáo xứ hay Hội thánh là đủ. Điều này đúng cho những người Do thái thời Chúa Giêsu. Họ giữ đạo hoàn toàn vụ hình thức và đã tẩy chay Chúa Giêsu. Nhưng càng đúng hơn đối với tín hữu thời nay, tính hoá đá có lẽ còn tế nhị và nặng nề hơn. Nhờ Lời Chúa hôm nay, chúng ta nên lượng định lại đời sống tôn giáo của mình, có đúng tiêu chuẩn Chúa Giêsu đòi hỏi không? kẻo lại được nghe lời khiển trách ghê sợ: “Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính: Ta không biết các ngươi từ đâu đến.”

Những khách ở ngoài lại đưa ra một bằng chứng khác. Họ đã được Chúa dạy dỗ trên các đường phố hoặc ngồi với họ trong các hội đường. Câu đáp trả của Chúa Giêsu bất ngờ: “Xéo đi, Ta không biết các ngươi”. Điều này cho chúng ta hay: Nghe suông không đủ, học thuộc lòng giáo lý của Ngài không đủ, Ngài đòi hỏi nhiều hơn nữa để xứng đáng mang danh hiệu Ki-tô hữu, tức phải đem lời Ngài ra thực hành. Nhưng trong phạm vi nào? Câu trả lời là mênh mông như bề mặt trái đất chúng ta đang sống. Lòng bác ái của chúng ta phải vươn tới mọi nơi, mọi người, bất kể châu lục, màu da, ngôn ngữ, văn hoá, hay nói như Kinh thánh: Từ đông sang tây, từ nam chí bắc, người tốt cũng như kẻ xấu. Bởi lẽ tất cả đều được mời gọi vào bàn tiệc của Chúa Giêsu: “Bấy giờ các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy các ông Abraham, Ixaác và Gia-cóp, cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình thì lại bị đuổi ra ngoài.”Cảnh tượng đó chắc hẳn làm cho thính giả của Chúa Giêsu ngạc nhiên, bởi lẽ họ vẫn nghĩ tưởng mình thân cận với Chúa và có thể tự phụ Ngài thuộc hàng nghĩa thiết của mình.

Tác giả Gustavo Gutierrez giải thích tại sao cửa lại hẹp? Ông viết: “cửa hẹp”không phải tương quan với chúng ta, nhưng với điều kiện để được cứu rỗi. Ơn giải cứu không phát sinh từ tính gần gũi với Chúa Giêsu về vật lý, nơi chốn, dòng họ. Cũng chẳng từ việc giao du, ăn uống với Ngài, hay nghe Ngài rao giảng nơi quảng trường công cộng. Cũng không phải là hệ quả đương nhiên của dòng máu Do thái. Bản văn không hề đả động đến những đặc ân đó. Hơn nữa, nếu trung thành với tinh thần câu trả lời của Chúa Giêsu thì phải nói thêm, ơn cứu chuộc không giới hạn vào một quốc gia nào, sắc da nào, văn hoá nào. Nó nảy sinh từ sự kiện chúng ta chấp nhận Ngài và đi theo đường lối Ngài chỉ dẫn. Đây chính là cửa hẹp, lối vào duy nhất đòi hỏi nhiều hy sinh, từ bỏ. Đôi khi thật gay go như trong bài đọc 2 hôm nay: “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế, sẽ gặp được hoa trái là bình an và công chính.”

Theo suy nghĩ thường tình của mình, chúng ta hay có khuynh hướng ích kỷ, giới hạn ngặt nghèo sự hiện diện và hoạt động hoạt động của Thiên Chúa, không để cho Ngài là Thượng Đế mà phải theo ý muốn của mình. chúng ta nhìn chỉ trong phạm vi bốn bức tường của nhà thờ, và chỉ thấy các tín hữu của tôn giáo mình, các tôn giác khác là xa lạ hoặc rối đạo, đáng khinh bỉ và tránh xa, không nghe, không nhìn, không thấy họ. Chúng ta phân biệt rõ ràng kẻ tốt, người xấu, kẻ gian phi, người thánh thiện, người này hữu ích, kẻ khác vô dụng. Chúng ta nhanh chóng đi đến kết luận tuỳ vào tư cách ăn nói của tha nhân, việc làm, địa vị, thu nhập, học thức, nguồn gốc của họ. Thực tế, sự nhận định của Đức Chúa Trời hoàn toàn khác hẳn: “Kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu. Người đứng đầu sẽ xuống hàng chót. Và thiên hạ sẽ từ đông tây, nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.”Do đó, chúng ta nên vất bỏ lăng kính của mình và thay bằng cái nhìn của Kinh thánh. Khi ấy chúng ta sẽ thấy mọi sự khác hẳn, cuộc đời sẽ rộng rãi hơn, với bao nhiêu sự tốt đẹp, bao nhiêu sự thánh thiện. Chúng ta sẽ khởi sự “cố gắng”cùng với anh chị em mình bước vào Nước Trời. Cuối cùng, khi đã được nhận vào, Chúa Giêsu cho hay, mọi người sẽ rất đỗi ngạc nhiên về những thực khách cùng vui hưởng tiệc cưới thiên quốc. Cái nhìn và lòng thương xót của Thiên Chúa thật bao la. Con số những người qua cửa hẹp để được cứu rỗi không giới hạn. Họ đã thành công bỏ lại những hành lý, tài sản lỉnh kỉnh để qua được cửa Thiên Đàng. Chúng ta cần phải thay đổi lăng kính của mình, chấp nhận cái nhìn cánh chung các bài đọc hôm nay gợi ý, mặc lấy quan điểm của Chúa Ki-tô và bắt đầu tiến trình “phấn đấu”. Amen.

*Gương sáng: Trong một dịp phỏng vấn Đức Giám mục Rosales của địa phận Manila, Phi luật Tân, phóng viên tờ Rogate Ergo hỏi: Thưa Đức cha đời sống thiêng liêng của Ngài ra sao? Đức cha đưa bàn tay của mình ra trả lời: Chỉ có thế này: Tôi đặt cho ngón thứ nhất là Adoration (thờ phượng), ngón thứ hai: Love (yêu mến), ngón thứ ba: Thanksgiving (tạ ơn), thứ tư: Asking (cầu xin), thứ năm (Reparation (sửa mình). Các chữ đầu gom lại thành ALTAR (bàn thờ). Hàng ngày tôi cứ nhìn bàn tay mà sống! (số tháng 10, 2003). [Mục Lục]

38. Chọn cách sống phù hợp với Nước Trời

Cuộc sống chúng ta đang sống không trọn vẹn cho bất cứ ai. Điều này thích hợp cho người này lại bất lợi cho người kia. Do đó, cuộc sống là một chuỗi những sự lựa chọn. Người sống bậc tu trì hay gia đình được mời gọi sống sao cho phù hợp với bậc sống của mình. Người sống nơi thành thị hay thôn quê cũng có cách sống phù hợp với nơi họ sống. Cũng vậy người kitô hữu chúng ta cũng được Chúa Giêsu kêu mời sống sao cho phù hợp với tư cách là một công dân nước trời.

Đoạn Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh những người Do thái quá ỷ lại vào mình. Họ có cái nhìn hơi cục bộ. Họ nghĩ rằng số người được cứu thoát rất ít. Dường như số đó chỉ dành riêng cho họ. Cho nên, ngày nọ trên đường Chúa Giêsu lên Giêrusalem thì có một người đến hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (Lc 13, 23). Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp mà Người nói: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” (Lc 13, 24.) Nghĩa là Nước Trời mở rộng cửa đón nhận tất cả mọi người chứ không dành riêng cho nhóm người nào. Những ai có cách sống phù hợp sẽ được gia nhập Nước Trời.

Cách sống phù hợp với Nước Trời mời gọi chúng ta chiến đấu. Chiến đấu không phải với ai mà chiến đấu với chính bản thân của mình. Bản thân chúng ta thường hay ích kỷ, ham mê những sự đời này hơn là những thực tại thiêng liêng.

Lối sống ích kỷ sẽ đưa con người chúng ta đến một con người nghèo nàn, khô khan và ngày càng đánh mất bản chất nguyên thủy của một con người. Vì bản chất nguyên thủy của chúng ta được dựng nên để sống chung, sống với, sống cho và sống vì người khác. Nói cách ngắn gọn con người nguyên thủy là con người biết mở ra.

Cách đây 3 tuần Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12, 15 – 16). Chúng ta hãy biết tích lũy cho mình kho tàng trên trời ngay trong cuộc sống hôm nay.

Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng mong muốn được trở thành công dân Nước Trời. Muốn vậy, chúng ta hãy tự chiến đấu với sự ích kỷ của mình, chiến đấu với sự ham thích những thực tại đời này. Chúng ta hãy chọn cách sống mở ra vì người khác và ham thích những thực tại thiêng liêng cao quý. Đó là cách sống phù hợp với Nước Trời. [Mục Lục]

39. Hành trình đi tới niềm vui.

(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)

Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay từ khi ý thức và mỗi ngày, chúng ta phải lên đường tiến về với Thiên Chúa.

1.- Ngữ cảnh

Đoạn văn này bắt đầu phần thứ hai (Lc 13,22–17,10) trong hành trình lên Giêrusalem Tin Mừng Luca tường thuật (Lc 9,51–19,28), trong đó có những lời Đức Giêsu tuyên bố về ơn cứu độ và về việc được nhận hay không được nhận vào Nước Thiên Chúa. Riêng bản văn 13,22-30 có sự thống nhất bên trong nhờ những tuyên bố của Đức Giêsu; những tuyên bố này liên hệ rất chặt chẽ với hai dụ ngôn liên hệ đến Nước Thiên Chúa kết thúc phần thứ nhất (dụ ngôn Hạt cải, 13,18-19; dụ ngôn Men trong bột: 13,20-21).

Riêng về hình thức, dường như bản văn này đa tạp, quy tụ nhiều đoạn không cùng chiều hướng. Chẳng hạn, “cửa hẹp” (Lc 13,24) có ở Mt 7,13-14 (Bài Giảng trên núi); “cửa đóng” (Lc 13,25) kết thúc dụ ngôn mười người trinh nữ trong Mt (25,10-12). Câu trả lời của những người bị loại (Lc 13,26-27) lại đưa chúng ta về với Mt 7,22-23 (Bài Giảng trên núi). Còn chi tiết nói về bữa tiệc quy tụ mọi người (Lc 13,28-29) lại chính là cao điểm của truyện chữa lành người đầy tớ của viên sĩ quan có đức tin rất lớn (Mt 8,11-12).

Nhưng dù thế nào, khi đưa vào tác phẩm của mình, tác giả Luca đã làm cho các đoạn văn rời rạc ấy thành một khối có ý nghĩa (chi tiết “cánh cửa đã đóng” trở thành một dụ ngôn, và tất cả bản văn trở thành bài trình bày các đòi hỏi phải đáp ứng để được cứu độ.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (13,22-23);

2) Những lời đe dọa (13,24-29): Các ý tưởng được liên kết với nhau bằng từ móc “cửa” (cửa hẹp/cửa khóa):

– cửa hẹp (c. 24),

– cửa khóa (cc. 25-27),

– số phận của những kẻ làm điều gian ác (cc. 28-29),

– câu tục ngữ kết thúc (c. 30).

3.- Vài điểm chú giải

– Hãy phấn đấu để qua được cửa hẹp mà vào (24): “Qua được cửa hẹp” nghĩa là qua được cái cửa duy nhất của Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu dùng ngôn ngữ của cuộc tranh tài (agôn) hoặc chiến đấu để nhấn mạnh rằng cần phải cố gắng để vào được Nước Thiên Chúa. Chúng ta ghi nhận rằng ở Lc 13,3.5, Đức Giêsu kêu gọi hoán cải đúng lúc, còn ở đây Người lại diễn tả điều ấy bằng việc đi qua cửa hẹp.

– Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại (25): Dường như khung cửa hẹp lại còn bị chủ nhà kiểm soát. Đức Giêsu đã lưu ý về cửa hẹp, nay lại lưu ý là đừng để đến giờ chót. Ở đây, không rõ chủ nhà là Thiên Chúa hay là Đức Giêsu.

– Ta không biết các anh từ đâu đến (25) = Ta không biết các anh là ai.

– Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy (26): nghĩa là chúng tôi là những người quen biết và cùng thời với Ngài.

– đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (29): Đức Giêsu giới thiệu Nước Thiên Chúa theo kiểu Do Thái: Nước Thiên Chúa giống như bữa tiệc (x. Is 25,6), tại đó những người được chọn quy tụ chung quanh các tổ phụ và các ngôn sứ. Tuy nhiên, so sánh với Mt, ta thấy trong khi Mt gửi lời răn đe này đến toàn thể người Do Thái (Mt 8,12), Lc lại chỉ nhắm đến các thính giả cứng lòng tin mà thôi.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Đứng về phương diện phê bình (quan điểm lịch đại), chúng ta thấy bản văn gồm những ý tưởng thuộc nhiều ngữ cảnh được liên kết với nhau một cách giả tạo. Tuy nhiên, về phương diện đồng đại, chúng ta vẫn có thể coi đây là một đoạn gồm những lời răn đe của Đức Giêsu.

* Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (22-23)

Tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu vẫn rất lô-gích và cương quyết. Người vẫn đang thi hành nhiệm vụ và đi tới định mệnh của Người. Người loan báo sứ điệp từ làng này sang làng khác, đồng thời Người đến gần Giêrusalem, là nơi định mệnh đang chờ Người (x. Lc 13,33). Người không để mình bị lạc hướng trước những đe dọa của vua Hêrôđê (13,31-33). Người trả lời chắc nịch cho những cầu hỏi được đặt ra. Người nói lên cả những sự thật khó nghe. Người không hề muốn lừa dối hoặc đẩy ai vào ảo tưởng.

Câu hỏi “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” chạm thẳng vào tư cách của Người là Đấng Cứu thế (x. 2,11). Vậy có bao nhiêu người sẽ đạt được mục tiêu nhờ trung gian của Người? Đức Giêsu không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Người không nêu ra con số những người được cứu độ. Người muốn đưa cái nhìn của các thính giả về những gì cần phải làm. Người bảo cho chúng ta biết cách đi vào Nước Thiên Chúa, tức là lúc này phải trở thành môn đệ.

* Những lời đe dọa (24-29)

Chỉ có một cách duy nhất: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (c. 24). Khi nói về cửa hẹp, Đức Giêsu không có ý nói rằng tại “cửa ra vào” đời sống vĩnh cửu, có một đám đông huyên náo, và người ta đang chen lấn nhau. Người muốn nói rằng người ta phải cố gắng nhiều, phải chiến đấu. Không phải chỉ có ý muốn là đủ. Chắc chắn chúng ta không thể tự cứu mình bằng sức riêng, nhưng kết quả này không xảy đến nếu không có phần đóng góp của chúng ta, nếu chúng ta chỉ có một thái độ thụ động. Bởi vì làm thế nào để đi qua một cửa hẹp, nếu không phải bằng cách làm cho mình nhỏ lại? Một người to lớn không thể đi qua một cửa hẹp. Đức Giêsu đang bảo chúng ta rằng chúng ta không thể trở thành môn đệ của Người nếu chúng ta không buông ra cao vọng muốn thống trị kẻ khác. Nếu chúng ta không trở thành tôi tới mọi người, chúng ta sẽ không bao giờ vào được, cho dù chúng ta có cầu nguyện nhiều.

Rồi Đức Giêsu cho chúng ta một dụ ngôn. Một người tổ chức moat bữa tiệc và mời mọi người, với điều kiện họ phải đi qua khung cửa hẹp. Mọi người cố gắng đi vào, có người thì lọt, có người thì không. Đến một lúc nào đó, chủ nhà cho đóng cửa. Dựa vào Isaia (Is25,6), có thể hiểu chủ nhà là Thiên Chúa. Khi nói về cái cửa đã đóng kín, Đức Giêsu muốn nói rằng chúng ta phải cố gắng đúng lúc. Chúng ta phải ý thức rằng thời gian của chúng ta có giới hạn. Chậm nhất là với cái chết, cánh cửa sẽ được đóng lại và số phận chúng ta sẽ được quyết định. Lúc đó, có muốn vào, có gọi, có gõ cửa, cũng đã muộn rồi.

Ở bên ngoài, có những người muốn được vào, họ nói: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (c. 26). Ông chủ đã gọi họ là “những quân làm điều bất chính”. Trong thực tế, họ biết Đức Giêsu, họ đã nghe Người giảng, đã ăn uống với Người. Họ không phải là những người ngoại giáo. Như vậy, chúng ta hiểu là chỉ mang tên “môn đệ” Đức Giêsu mà thôi thì không đủ; chúng ta còn cần có những hành vi tốt lành. Chỉ hiệp thông với Thiên Chúa ở bề ngoài mà thôi, thì không đủ. Chỉ đã biết Ngài, nghe các giáo huấn của Ngài, thì không đủ. Hiệp thông với Ngài trước tiên là hiệp thông với ý muốn của Ngài.

Sau đó, Đức Giêsu không nói đến con số những người được cứu, nhưng phác cho biết cộng đoàn những người được cứu độ thì như thế nào. Thuộc về cộng đoàn này là các tổ phụ Israel (Abraham, Isaác và Giacóp), các sứ giả của Thiên Chúa (các ngôn sứ) và những người đến từ bốn phương trời, từ mọi dân tộc. Các tổ phụ và các ngôn sứ tượng trưng tất cả những gì Thiên Chúa đã ban cho Dân được tuyển chọn (Israel); “thiên hạ từ đông tây nam bắc đến” tượng trưng Dân ngoại. Như vậy, trong Nước Thiên Chúa, có sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, thì cũng thể hiện sự hiệp thông với mọi người. Hình ảnh “ngồi đồng bàn” (= dự tiệc) gợi ý đến tính cách vui tươi lễ mừng của sự hiệp thông này. Hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với loài người trong một bầu khí vui tươi và lễ hội là những đặc điểm của ơn cứu độ trong Nước Thiên Chúa.

Ai không cố gắng đúng lúc với hành động công chính, thì tự loại mình, không nhận được ơn cứu độ. Hậu quả là phải “khóc lóc nghiến răng” (c. 28): khi nhận ra những gì mình đã mất, người ấy sẽ cảm thấy đau đớn khôn nguôi và giận dữ khủng khiếp.

+ Kết luận

Tin Mừng của Đức Giêsu không nói với chúng ta những điều làm cho chúng ta vui lòng, cũng không hứa với chúng ta một cuộc sống dễ dàng, không cần cố gắng. Tin Mừng ấy có hàm chứa một số chân lý gây phiền toái. Nhưng chính bởi vì Tin Mừng này không giấu giếm chúng ta điều gì cả, chính bởi vì Tin Mừng này trình bày chân lý trọn vẹn, Tin Mừng này mới chỉ cho chúng ta con đường thật đưa tới niềm vui. Cũng chính vì thế mà Tin Mừng này là Tin Mừng và chúng ta chỉ có thể đón nhận với lòng biết ơn và ngoan ngoãn.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Tuy Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, nhưng Ngài coi trọng chúng ta là những nhân vị có tự do, có trách nhiệm. Do đó, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu: Thiên Chúa cứu chúng ta, nhưng Ngài muốn rằng chúng ta cũng muốn chinh phục sự hiệp thông với Ngài. Chúng ta cố gắng có nghĩa là chúng ta ý thức và cương quyết đến gần Ngài, thắng vượt các trở ngại và để tất cả mọi sự khác sang một bên.
  2. Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay từ đầu, chúng ta phải lên đường tiến về với Thiên Chúa. Chúng ta không thể sống một cuộc đời theo sở thích riêng, rồi chờ đến tuổi già mới lo cho việc cứu độ linh hồn. Bởi vì không phải chúng ta là người đóng cửa, mà là Thiên Chúa; do đó phải luôn luôn sẵn sàng.
  3. “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”. Đây là lý do khiến chủ nhà không muốn liên hệ gì nữa với những người ở ngoài. Sự cố gắng, định hướng đúng thời đúng buổi về Thiên Chúa phải được diễn tả ra bằng hành động, bằng việc thi hành ý muốn của Ngài. Ai không quy hướng về ý muốn của Thiên Chúa bằng cách hành động thực thụ, ai từ chối hiệp thông lúc này với Ngài, thì đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, khỏi sự hiệp thông vĩnh cửu với Ngài, dù họ thuộc về cộng đồng tín hữu, đã nghe công bố Tin Mừng và chia sẻ bí tích Thánh Thể. Họ quên mất một điều, là đã không làm cho mình nên nhỏ bé đủ để đi qua cửa hẹp!
  4. Trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, sự hiệp thông trọn vẹn với loài người cũng được thể hiện. Cuộc sống nhân loại viên mãn và phong phú của chúng ta hệ tại những tương quan viên mãn và sâu sắc của chúng ta với anh chị em loài người. Niềm vinh phúc của cuộc sống trong Nước Thiên Chúa hệ tại cả ở sự kiện các tương quan với loài người không bị cắt xén đi, nhưng lại được mở rộng và đưa đến chỗ thành toàn. Muốn thế, đang khi còn sống tại trần gian này, chúng ta cần nỗ lực. Buông trôi cuộc đời không chút cố gắng là con đường đưa tới tuyệt vọng sau này. [Mục Lục]

40. Suy niệm của Lm Augustine

Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

Anh Hướng đã chia sẻ kinh nghiệm anh sống liên quan tới “cửa hẹp”(c.24) trong bài Tin Mừng hôm nay như sau.

Hy sinh mười ngàn đô

Đã 32 năm nay anh vẫn làm cho một công ty. Trong những năm ấy, 5 lần anh được đề cử thăng chức. Nếu nhận, anh sẽ không có đủ thời giờ cho vợ và 4 con trai của anh vì anh sẽ phải làm các ngày cuối tuần nữa. Bù vào đó lương anh sẽ được tăng thêm mười ngàn đô. Nhưng anh Hướng đã khước từ vì tin rằng “tình yêu”mà anh dành cho vợ con quí giá hơn nhiều.

Cách đây hai năm ban điều hành của công ty một lần nữa, đề cử để anh được thăng chức. Lần này anh nhận, lý do vì các con anh đã khôn lớn mà vợ anh lại không thể đi làm được. Không may cho anh là vào đúng thời gian ấy, người chị ruột của anh qua đời khiến anh không chú tâm học hành được nên về cuối khóa anh đã thi rớt. Trở về công ty anh bị ông giám đốc quăng hồ sơ lên bàn rồi giận dữ nói: “Đáng lý tôi không cho anh đi học. Đáng lý ra tôi không nghe lời ai hết. Anh đánh mất cơ hội cuối cùng này của anh rồi, biết chưa!” Thật là ê chề nhục nhã cho anh Hướng. Anh chia sẻ nguyên văn như sau: “Lòng tôi tan nát. Điều đáng buồn là tôi đã để cho lời lẽ ông giám đốc hủy diệt tôi. Mọi sự đều trở nên vô nghĩa. Ý chí quyết tâm phụng sự Chúa bấy lâu nay bỗng trở nên vô dụng. Tôi thấy tôi không thể nào bước theo Chúa trong tình trạng này. Tôi tự hỏi “Tại sao lại xảy ra việc này?”Có vẻ như tôi không còn có thể yêu thương được nữa. Tệ hơn nữa là tôi cảm thấy như Chúa đã bỏ rơi tôi. Cái chết của người chị làm tôi đau khổ nay lại đưa đến việc ông chủ hạ nhục tôi.” “Mọi sự như sụp đổ quanh tôi. Tôi thấy tôi không còn đối diện được với việc làm ở sở cũng như với gia đình và cuộc sống. Tôi ngại ra khỏi giường mỗi sáng và chỉ muốn thu mình để tránh né thế giới bên ngoài. Mỗi khi gặp mặt ông giám đốc, tôi càng thấy thêm phẫn uất tức giận. Tôi trở nên cay đắng thù hằn. Suốt đời tôi chưa bao giờ cảm thấy như thế đối với ai cả. Tôi thấy tôi có bổn phận yêu thương nhưng vẫn bướng bỉnh cãi lại.”

Chọn theo một con người bị bỏ rơi

“Ngày kia tôi phải thú thực với vợ tôi: Anh không thể sống nổi mãi thế này. Vợ tôi chú ý lắng nghe và đề nghị cùng nhau cầu nguyện để xin Chúa giúp sức. Chúng tôi cùng nhau cầu nguyện và khi ấy tôi biết mình phải chọn theo Chúa Giêsu, chịu đóng đinh và bị bỏ rơi. Tôi cảm thấy được bình an và mạnh mẽ hơn.”

“Ngày kia khi rời khỏi văn phòng ông giám đốc, tôi cảm thấy có sức thôi thúc tôi quay lại nói với ông: “Tôi xin thưa là không phải tôi muốn lên án ai hoặc xin xỏ điều gì. Sau khóa huấn luyện khi ông nói chuyện với tôi, tôi bị mất tinh thần đối với công ty. Tôi trở nên oán hờn và nhiều lần tôi đã có những thái độ không tốt đối với ông.”

“Ông giám đốc ngắt lời anh Hướng khi nói: “Tôi chẳng bao giờ cố y làm cho anh buồn. Anh biết tôi giận thì la lối rồi sau lại quên ngay.”Khi anh Hướng xin ông giám đốc tha cho anh về cách anh đối xử với ông ta thì người đàn ông thường có vẻ lạnh nhạt ấy đã ứa đầy nước mắt. Ông thinh lặng một lúc rồi cất tiếng: “Tôi xin lỗi ông, tôi thật không ngờ việc tôi làm khiến ông phải buồn phiền.”Rồi ông bắt đầu thăm hỏi về tôi và gia đình tôi một cách thân mật. Tôi thấy chúng tôi đã nối lại được nhịp cầu đã đứt đoạn.”

Điều bất ngờ xảy ra là khi ông giám đốc về hưu, một người đàn ông trẻ hơn nhiều, đứng đầu công ty. Anh chỉ mới có 32 tuồi. Vì thiếu kinh nghiệm, anh gặp khó khăn. Anh đã xin gặp riêng tất cả các nhân viên trong công ty, mỗi lần bốn người. Chỉ có anh Hướng một mình được ông giám đốc mới mời riêng tới văn phòng để gặp. Kết quả là anh đã được gởi đi học một khóa huấn luyện rồi được thăng chức một cách ngon lành.

Câu chuyện kể trên gợi ý để ta suy nghĩ về cửa hẹp trong bài Tin Mừng. Chúa Giêsu khuyến cáo ta “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”(c.24). Nhưng lời dạy đó được nêu trong bối cảnh nào? Làm thế nào hiểu và áp dụng lời khuyên đó một cách chính xác? Nhất là ta được Chúa Giêsu khuyến cáo phải chiến đấu để qua cửa hẹp nhằm đạt tới điều gì đáng kể?

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy đây là lần thứ hai tác giả Luca nhắc nhớ ta về cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm tới đích điểm là Giêrusalem (c.27).

Luca cho thấy khó khăn và thử thách

Lần thứ nhất Luca gắn liền Giêrusalem dưới đất với Giêrusalem trên trời, dĩ nhiên ngang qua sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Đó là lúc Luca trịnh trọng loan báo: “Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem”(9,51). Ngay ở lần loan báo đầu tiên về cuộc hành trình đi Giêrusalem, Luca đã cho thấy khó khăn và thử thách. Thoạt tiên Đức Giêsu và các môn đệ bị một làng Samari từ khước (cc. 53-54). Kế đến chính Đức Giêsu muốn thách đố những ai muốn bước theo Người. Người thứ nhất xin theo liền được cho biết rằng “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”Người thứ hai xin về chôn táng cha già trước đã, thì đã không được phép vì “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa.”Người thứ ba cũng được yêu cầu phải có thái độ dứt khoát vì “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”(cc. 57-62).

Bây giờ là lần thứ hai, Luca cho biết Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem (c. 22). Vấn đề được nêu trầm trọng hơn lần thứ nhất nhiều với câu hỏi “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”(c.23). Bởi lẽ ơn cứu thoát nói đây là chính sự sống còn của con người, tức là ơn cứu độ, chứ không phải chỉ là vấn đề từ bỏ mọi sự hoặc phải từ bỏ ngay như nói ở trên (Lc 9,56-62).

Chính Đức Giêsu là cửa hẹp

Và để trả lời, Đức Giêsu đòi hỏi một sự chính xác. Người muốn người ta nhắm thẳng bản thân Người theo bề sâu, tức là biết Người. Không có gì có thể thay thế được cái biết nội tâm đó. Cho nên cả những kẻ sống sát bên Người, “ăn uống trước mặt Người, và Người cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố”của họ (c.26), họ cũng vẫn bị loại ra ngoài nếu họ thực sự không biết Người.

Như vậy, chính Đức Giêsu là cửa như Người tuyên bố trong Tin Mừng của Gioan: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.”(Ga 10,9). Cửa hẹp trong Luca còn có ý nói về chính bản thân Đức Giêsu chứ không thể là ai khác. Điều này Tin Mừng của Gioan cũng nói rõ với lời tuyên bố của Đức Giêsu là “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6). Đức Giêsu còn là cửa hẹp theo nghĩa Tân Ước như lời tông đồ Phêrô lớn tiếng công bố trong ngày lễ Ngũ Tuần rằng: “Toàn thể nhà Israen phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô”(Cv 2,36) và “Dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ danh đó mà được cứu độ.”(4,16).

Biết Đức Giêsu nơi con tim

Nhưng như vậy thì phải cắt nghĩa thế nào về Tin Mừng của Matthêu về cuộc phán xét chung? Nếu biết Đức Giêsu là điều kiện tiên quyết để vào hưởng Nước Thiên Chúa, theo bài Tin Mừng hôm nay, thì phải hiểu như thế nào về tình trạng hết sức sửng sốt của những người công chính chưa hề nhận biết Chúa khi họ thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, v.v… (Mt 25,37tt)? Thưa, những người công chính ấy đã được biết Đức Giêsu tận gốc do họ được đánh động bởi chính Thần Trí của Đức Giêsu phục sinh là Thần Trí luôn được ban cho họ để giúp họ làm việc lành. Họ không chỉ biết Đức Giêsu theo cái biết hời hợt nông cạn theo ý nghĩ mà thôi, nhưng còn biết Người thâm sâu nơi con tim mình. Quả thật, cũng chính cái biết nội tâm ấy đã giúp anh Hướng sống tinh thần chiến đấu để vào cửa hẹp. Anh và vợ anh đã cùng nhau cầu nguyện xin Chúa giúp sức để lướt thắng cơn khủng hoảng. Nhờ vậy anh nhận ra mình phải chọn theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi. Đó là lúc anh được bình an và có sức mạnh để giải quyết trực diện vấn đề khó khăn với ông giám đốc nơi sở làm việc của anh.

Một số câu hỏi gợi ý

  1. Trong câu chuyện anh Hướng chia sẻ, anh đã chọn dành thì giờ mỗi cuối tuần cho vợ con thay vì nhận làm việc thêm cuối tuần để lương được thêm 10 ngàn đô. Bạn nghĩ chọn lựa như anh Hướng, theo cái nhìn của bạn, có lợi hay có hại? Theo cái nhìn của những người cùng xóm ngõ của bạn thì chọn lựa ấy đúng hay sai?
  2. Dưới ánh sáng của bài Tin Mừng hôm nay, bạn thấy anh Hướng đã phấn đấu để sống tinh thần “cửa hẹp”như thế nào? [Mục Lục]

41. Chật hẹp – Lm. Vũ Đình Tường

Có người hỏi Đức Kitô phải chăng chỉ có một số người được nhận ơn cứu độ? Đức Kitô trả lời người đó là: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” Luca 13,24

Câu trả lời của Đức Kitô gây ngạc nhiên không nhỏ. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu í nghĩa cánh cửa hẹp. Thứ nhất, cửa thì luôn nhỏ hơn cổng. Cửa mà lớn hơn cổng sẽ trở thành dị hình, cấm địa, ngăn cản người ra vào. Thứ hai, vì là cửa hẹp nên việc ra vào không dễ dàng. Muốn ra vào cửa hẹp phải khắc chế, loại bỏ ‘mỡ béo’ không cần thiết ngăn cản ta lọt qua cửa. Loại bỏ bất cứ gì ngăn cản ta vào nước trời, những gì không mang lợi ích cho người và cho mình. Thứ ba, vì là cửa hẹp mỗi lần chỉ một người đi lọt và phải cố gắng mới có thể đi lọt vì thế không thể kết đảng, lập bè, tạo phái để cùng tiến vào. Thứ tư, cửa đó không phải mở vĩnh viễn mà đến một ngày giờ nhất định không ai biết trước cửa đó sẽ đóng. Một khi cửa đóng không ai có quyền mở trừ người giữ cổng. Ở đây chúng ta cũng dành vài hàng cho chữ đóng. Chữ đóng đây có lẽ ít nhắc đến cửa đóng, then gài nhưng nhấn mạnh đến tâm hồn đóng kín của người muốn qua cửa. Đóng kín tâm hồn không đón nhận lời mời qua cửa hẹp. Đóng kín tâm hồn để người đó phán đoán sai sự thật cho rằng cửa đó mở thường trực vĩnh viễn và người đó bất cứ khi nào muốn có thể ra vào tuỳ í. Thứ năm, cửa hẹp không phải nói đến vật chất tạo cửa mà nói đến con người giữ cửa. Người vừa là cửa vừa là người giữ cửa là chính Đức Kitô khi Ngài tuyên bố rõ:

Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Gioan 10,9

Qua cuộc tử nạn và thập giá của Đức Kitô, Người mở cửa thiên đàng cho nhân loại. Chúng ta bước theo thập tự Đức Kitô để được vào nước Ngài. Để bước qua cửa đó chúng ta cần kiên trì, cố gắng hết khả năng chống lại chước ma quỉ cám dỗ, chống lại bất cứ điều gì ngăn cản ta mến Chúa, yêu người. Những ai cố gắng làm điều đó đều được vào, bất kể người đó là dân Chúa chọn hay người đó là dân ngoại. Tất cả đều được mời. Bất cứ ai chân thành đáp lại lời mời sẽ được vào.

Một vài tư tưởng diễn giải sai trái giáo huấn của Đức Kitô. Hướng dẫn gây hiểu lầm cho đức tin nông cạn. Thứ nhất nói Thiên Chúa không loại ai ra khỏi nước của Ngài vì thế không cần phải làm gì cũng được vào nước Thiên Chúa. Thứ hai cho rằng làm thế nào một Thiên Chúa yêu thương lại có thể ngăn cản con người vào nước của Ngài. Nếu Ngài làm như thế thì đâu còn là một Thiên Chúa yêu thương nữa. Hai tư tưởng lí luận hợp lí này có được một số tín đồ. Hãy cẩn thận với lí luận lầm lạc đó vì nó không ăn khớp với giáo lí của Đức Kitô. Ngài dậy chúng ta phải cố gắng phấn đấu để vào nước Ngài. Một người không đón nhận lời Chúa, không quan tâm đến giáo huấn của Ngài, thờ ơ với nỗi thống khổ của anh em họ có thực sự cần đến Thiên Chúa và cần đến tha nhân chăng. Đức Kitô nói rõ cho chúng ta hay ngoài Ngài ra không ai có khả năng hay cách nào khác dẫn chúng ta đến nước của Ngài.

Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy Gioan 14,6

Điều này cho thấy không còn cửa hẹp thứ hai, không còn con đường nào khác ngoài Đức Kitô. Ngài là cánh cửa duy nhất, con đường duy nhất dẫn dến nước trời. Kitô hữu từ chối cửa hẹp đi theo con đường rộng mở là trái với giáo huấn của Đức Kitô. Từ chối nhận biết Đức Kitô nhưng mong được Ngài biết đến là điều nghịch lí. Không cố gắng phấn đấu vào nước trời đòi được đối xử như kẻ cố gắng phấn đấu vào nước trời là đòi hỏi ngang ngược, nghịch lí. [Mục Lục]

42. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

NHỮNG NGƯỜI DO THÁI BỊ LOẠI BỎ VÀ DÂN NGOẠI ĐƯỢC KÊU MỜI

Điệp khúc mở vào giai đoạn hai của cuộc hành trình (c.22) không chỉ nhắc tới đích điểm địa lý của cuộc hành trình này; nó còn loan báo một thông tri quan trọng sẽ được cung cấp trong cảnh tiếp theo (13,31-35).

Trình thuật này được dẫn nhập bằng câu 23. Một người lạ mặt hỏi: Phải tin ai? Phải tin các Kinh sư, là những người khẳng định rằng: Mọi người Israel đều tham dự vào thế giới tương lai (Misnha, Sanhedrin X, 1) hay tin những kẻ khác, đối với những người này những kẻ bị hư đi thì nhiều hơn những kẻ sẽ được cứu thoát (Edras quyển thứ tư IX, 15)? Cách thế mà Chúa Giêsu dùng để nói về tính cách cấp bách của việc hoán cải (13,3-5) phải chăng không xếp Ngài vào nhóm thứ hai?

Nhưng Chúa Giêsu lại không quan tâm đến vấn nạn kiểu kinh viện này. Trước khi trả lời, Ngài đóng khung nó bằng cách nói với tất cả các người xung quanh (cùng một cảnh như ở 12,13-14) và nhấn mạnh đến sự cố gắng:”Hãy chiến đấu để vào phòng tiệc qua được cửa hẹp” (c. 24). Thực vậy, điều quan trọng là mỗi người phải thay đổi cách sống. Chính vì thế, lời đáp của Chúa Giêsu không xác định về số ít người được cứu thoát nhưng về tính cách nghiêm trọng của cuộc sống hiện tại của con người. Nhiều người sẽ chen chúc vào cửa hẹp mà không vào được. Ngoài việc cửa hẹp dẫn đến niềm vui của bàn tiệc, thực ra còn phải nói đến một yếu tố thứ hai: thời gian gấp rút vì cửa sắp đóng. Tìm cách vào, giữa đám đông hỗn độn, ở phút chót là chuốc lấy thất bại.

Khi nói đến thời điểm mà cửa sẽ đóng, lời cảnh cáo trở thành đe doạ: Việc đóng cửa lại do lệnh của một nhân vật chủ chốt, ông chủ nhà, mà không ai khác hơn là những kẻ đối thoại với Ngài mới xin mở cửa cho họ và do đó, họ phải nhắc đến việc trước đây họ cùng ăn uống với Ngài (x. 7,36; 11,37; 14,1) và đã có nghe Ngài giảng dạy. Nhưng lời đáp nhắc tới hai lần”Ta không biết các anh từ đâu đến” –điều này, trong ngôn ngữ Kinh Thánh (x. Am 3,2) có nghĩa là:”Ta không chọn các ngươi, các ngươi không thuộc về những kẻ được chọn”. Ở đây không hề có việc tuỳ tiện theo ý ông chủ: bằng cách gián tiếp trích Thánh vịnh 6,9. Chúa Giêsu nói rằng họ bị loại bỏ bởi vì họ làm điều xấu. Có những liên hệ – hời hợt với vị Sứ Giả cũng chẳng ích lợi gì khi mà người ta không chịu hoán cải. Chẳng ai tự động mà được cứu rỗi. Việc thuộc về dân mà Thiên Chúa đã ký Giao Ước với Sinai, và là dân đầu tiên được nghe giảng Tin Mừng nơi công cộng và trong các hội đường, cũng chẳng cho người ta được tấm vé vào Nước Thiên Chúa đâu. Điều cần thiết phải làm là hoán cải và đón nhận lời rao giảng ấy.

Từ đó, Chúa Giêsu đi đến hai xác quyết (cc. 28-29). Trước hết, việc loại ra khỏi Vương Quốc đến liền sao phổ quát ở câu 27 sẽ gây ra khóc lóc và nghiến răng, giận dữ và hối hận cay đắng nơi kẻ đối thoại với Ngài. Bực bội, họ sẽ thấy những tín hữu Israel đích thực, đại diện bởi các tổ phụ và tất cả các ngôn sứ, hưởng hạnh phúc và bình an, đặc điểm của Vương Quốc trong khi chính họ phải ở lại bên Ngài. Thay chỗ của họ – xác quyết thứ hai: – thiên hạ sẽ đến từ bốn phương trời: đó là những dân tộc ngoại giáo sẽ vào tham dự ơn cứu độ vĩnh hằng. Khi dùng đề tài Kinh Thánh nói về các dân tộc hành hương về Giêrusalem để dâng lễ vật tôn thờ Thiên Chúa (x. Is 60,3tt), Chúa Giêsu để ý không nói đến tên của thành; vì vậy, thành này không còn là địa điểm nơi mà Thiên Chúa muốn người ta tôn thờ Ngài nữa: Vương Quốc là một thực tại siêu việt. Với hình ảnh được thanh lọc khỏi mọi tính cách quốc gia chủ nghĩa đó, Chúa Giêsu thêm một hình ảnh ở Is 25,6. Bữa tiệc trong Thế giới mới diễn tả một hiệp thông trọn vẹn giữa con người với Đấng cứu thoát họ:”Thiên Chúa sẽ dẫn đưa những kẻ được tuyển chọn vào tình thân mật với Ngài và biến họ thành những người nhà của Ngài” (J.Schlosser).

Phần kết luận (c.30) làm ta nhớ đến sấm ngôn của ông Simêon khi ông nói về sứ vụ của Chúa Giêsu như duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy (2,34) và nhắc lại rằng Vương Quốc sẽ kéo theo sự đảo ngược các tình trạng của con người (x. những mối phúc và hoạ ở 6,20-26). Giữa những kẻ đến sau cùng có nhiều kẻ sẽ vượt lên truớc những kẻ kỳ cựu, mặc dù những người này đã được các ngôn sứ loan báo từ lâu về việc Vương Quốc ngự đến. Tuy nhiên đây cũng không phải là luật tổng quát: câu kết luận hiểu ngầm rằng những kẻ kỳ cựu đến trước nhất sẽ chia sẻ chỗ nhất với những kẻ mới đến từ khắp thế giới. Ở Luca, lời Chúa Giêsu nói đây rõ ràng thuận lợi cho Israel hơn là ở những đoạn song song của Marcô và Matthêu.

Lời cảnh cáo có tính cách ngăn đe trước hết được nói với các thính giả Do Thái ở Giuđê – Galilê vào những năm 28-30; dưới cái nhìn của Luca, chỉ một số ít trong họ đã hoán cải, như nhóm Mười Hai và các môn đệ khác, và có thể vào được Nước Trời. Trong các thính giả này đặc biệt được nhắc tới, cũng là số ít thôi, những kẻ dám làm điều bất chính tột độ cộng tác vào việc hành quyết Chúa Giêsu (xcc. 31-35). Nhưng đừng quên rằng những lời Tin Mừng này vẫn còn tính thời sự và là tiếng mời gọi hoán cải. Sẽ càng không có việc cứu rỗi tự động cho các Kitô hữu cứ khất lần đến ngày mai. Việc canh tân đời sống luôn luôn cần được lặp lại không ngừng. Đối với mọi người, cửa đều hẹp cả: những ai trong họ làm điều bất chính không có thể nại vào sự thân thiết hời hợt với Chúa Kitô để xin mở cửa sau khi cửa đã đóng rồi. [Mục Lục]

43. Chú giải của Noel Quesson

Trang Tin Mừng của Luca mà chúng ta đọc hôm nay là một bức tranh ghép gồm những bản văn:

Câu 24, khung cửa hẹp (Mt 7,13) trong bài giảng trên núi.

Câu 25, “thưa ngài, mở cửa cho chúng tôi với” (Mt 25,11) là kết luận của dụ ngôn mười cô trinh nữ khôn ngoan và rồ dại.

Câu 26, “Ta không hề biết các ngươi” (Mt 7,22) là một giáo huấn về sự cầu nguyện.

Câu 28, “từ phương đông sang phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc” là kết luận của việc chữa lành người đầy tớ của ông đại đội trưởng dân ngoại (Mt 8,11).

Câu 30, “những người sau rốt trở thành những người đầu tiên” (Mt 19,30 và 20,16).

Vậy Luca liên kết những lời mà Đức Giêsu đã nói trong những trường hợp khác nhau. Tuy nhiên chúng ta có một bản văn mang tính nhất quán cao: Khi trả lời câu hỏi về con số người được chọn. Đức Giêsu khẳng định hai chân lý có vẻ trái ngược nhau. Cánh cửa Thiên đàng thì hẹp, nhưng những dân ngoại sẽ đến đông đủ, tiến vào bàn tiệc của Đấng Mêsia, còn những người đầu tiên được mời ở lại bên ngoài.

Trang sách này của Luca mà chúng ta đọc hôm nay là kết quả của sự cầu nguyện, của việc dạy giáo lý thờ phụng của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Trong một chừng mực, chúng ta thấy xuất hiện một dụ ngôn mới gồm toàn những câu của Đức Giêsu, mặc dù không trực tiếp là dụ ngôn của Người Thay vì ngạc nhiên về sự khám phá này, tại sao chúng ta lại không vui mừng. Đức Giêsu đã không “biết” gì cả, cũng không làm “xơ cứng” điều gì. Hiển nhiên, đây là một điều có chú ý. Người đã thật sự trao Lời cho Giáo Hội Ngay để Giáo Hội nói Lời ấy và thích nghi Lời với các nhu cầu của mỗi thời kỳ lịch sử. Vì danh nghĩa gấp đôi ấy, lòng Tin Mừng của Luca là của Đức Giêsu: Do miệng Chúa nói ra trong những lúc khác nhau… đồng thời cũng là công việc của Đức Giêsu sống động trong Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người… “Ai nghe anh em là nghe Thầy”. Một cách đọc Tin Mừng có khoa học thay vì mâu thuẫn với một cách đọc ngây thơ hơn và làm cho chúng ta hoài nghi tính chính thống hẳn phải đến chúng ta đến chỗ chấp nhận thái độ của Luca: Trung tín với suối nguồn… tự do trong Thần Khí… để việc giải thích Lời Chúa luôn luôn sống động và có thể soi sáng những vấn đề của chúng ta hôm nay.

Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy.

Luca trở lại việc Đức Giêsu đang trên đường lên Thành thánh ở đó chúng ta biết điều gì sắp xảy ra. Đức Giêsu “du hành”. Người không xơ cứng. Người bước đi! Luca, bạn thông hành của Phao lô, nhà “du hành cao cả” đã dùng từ đó tám mươi tám lần. Đời sống Kitô hữu cũng là một cuộc lữ hành, tiến lên phía trước. Phần tôi, tôi có xơ cứng, dừng lại bất động không? Lịch sử với sự tiến hóa của nó là một phần của kế hoạch Thiên Chúa. “Thời gian” là tạo vật của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã hội nhập trong thời gian. Người không làm thời gian ngừng lại. “Thầy ở với các con mỗi ngày cho đến tận thế”.

Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”

Một câu hỏi nóng bỏng, luôn luôn hiện thực. Một câu hòi rất nhân bản, căng phồng máu của những quan hệ tình cảm của chúng ta: Làm sao tôi có thể hưởng hạnh phúc trên trời nếu những Người thân không có ở đó? Một câu hỏi rất tự nhiên: “Bạn chớ đến dự tiệc Nước Trời một mình; trên những nẻo đường bạn đi, bạn hãy cao rao Tin Mừng: Lời Chúa hứa là bánh được ban cho để chia sẻ”. Bất kỳ người nào không ước ao “tất cả” đều được cứu, chính người ấy không thể được cứu, bởi lẽ người ấy không hoàn thành luật của Nước Thiên Chúa là tình yêu phố quát… “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4).

Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”

Một lần nữa, Đức Giêsu không trả lời trực tiếp. Người không nói những người được cứu sẽ nhiều hay ít. Người làm như thể câu hỏi lý thuyết ấy không làm Người quan tâm và ngay sau đó, Người đưa các thính giả trở về với tránh nhiệm của họ. “Thay vì tranh luận một cách trí thức, bạn hãy làm gì cụ thể để “bước vào” sự sống đời đời… vấn đề là phải vào được!” Sự tò mò về con số người được cứu thoát bộc lộ sự tìm kiếm điều an toàn là điều có thể thiếu lành mạnh: Nếu mọi người đều lên trời, cần gì phải lo lắng? Nếu rất ít người được lên trời, tại sao lại phải tốn bao công sức mà chắc gì đã được? Vì thế, Đức Giêsu đã không xác định con số nhưng trả mỗi Người về với quyết định mà mỗi người phải có đồng thời khẳng định rằng như thế mới là nghiêm túc. Đức Giêsu không muốn “trấn an”, Người muốn người ta sống có trách nhiệm. Từ đây, Người dùng một hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Kinh thánh: Nước Chúa như một phòng tiệc. Nhưng Người thêm: người ta xô đẩy nhau trước cửa vì cửa phòng “hẹp”. Từ Hy Lạp mà chúng ta dịch là chiến đấu là một động từ mạnh bạo “agonizesté” nghĩa đen là “đánh nhau để được vào”. Từ “agonie” (hấp hối) trong tiếng Pháp có ngữ căn lấy từ động từ Hy Lạp: Cuộc chiến đấu cuối cùng của sự sống. Để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, Đức Giêsu là người đầu tiên đã chiến đấu, ở vườn Ghet-sê-ma-ni và đồi Gôn-gô-tha.

Người không cho chúng ta lời khuyên nào mà trước hết chính Người đã không sống nó. Trong một đoạn văn khác, Người đã nói rằng “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được Nước Trời” (Mt 11,12; Lc 16,16).

Để chiếm được Nước Trời, cuộc chiến đấu của tôi là gì? Tôi phải chiến đấu ở điểm chính xác nào, trong hoàn cảnh của tôi, với tính khí của riêng tôi, khi vượt qua những điều kiện giới hạn là những bó buộc đang đè nặng trên cuộc đời tôi?

Thánh Phaolô cũng dùng từ “ngôn” “cuộc chiến đấu” để nói đời sống Kitô hữu là gì.. “Tôi tìm thấy niềm vui trong những đau khổ mà tôi phải chịu, để loan báo Đức Kitô: Đó là công việc và cuộc chiến đấu của tôi” (Côlôxê 1,29; 1 Côrintô 9,25; Côlôxê 4,12; 1 Timôthê 4,lo). “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết công đường, đã giữ vững niềm tin”. (2 Timôthê 4,7). Làm thế nào chúng ta lại có ảo tưởng “vào” nước trời mà không phải nỗ lực? Đời sống Kitô hữu không phải là một cái ghế bành. Dĩ nhiên đó là một ơn không mất tiền, ban cho cả những người tội lỗi. Còn phải chấp nhận ơn đó… mà không hoàn toàn khép kín lại trên ơn đó.

“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: `Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo anh em: `Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!’

Dụ ngôn mạnh mẽ tiếp tục: Cánh cửa vốn đã hẹp giờ đây đóng kín. Lời mời gọi bước vào trở nên cấp bách: Thời gian gấp lắm, ngày mai sẽ quá trễ. Ngay hôm nay phải “bước vào trong Nước Trời”. Vâng, đối với tôi, thêm một ngày cũng là quá trễ. Tôi còn lại bao nhiêu thời gian? Chúng ta phải sống mỗi ngày như thể đó là ngày sau rốt.

Bấy giờ anh em mới nói: ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ Nhưng ông sẽ đáp lại: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’

Dân Israel, ý thức về giá trị của Giao ước khó mà chấp nhận những người dân ngoại bước vào trong Nước Thiên Chúa. Giáo trưởng Méir viết: “Để trở nên một con cái của đời sau, phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do Thái là ngôn ngữ thánh và sáng chiều đọc kinh Shema Israel”. Trái lại, đối với Đức Giêsu, những đặc quyền về chủng tộc này không đáng kể. Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Kitô trước tiên áp dụng cho những người đã từng được ăn uống trước mặt Người, và những người đã từng nghe Người “giảng dạy” giờ đây áp dụng cho chính chúng ta, những người chia sẻ bàn tiệc thánh thể. Một giờ ngắn ngủi sống với Đức Giêsu ngày Chúa nhật không thể bù đắp tất cả những giờ khác trong tuần mà chúng ta dùng làm điều ác xa cách Người.

“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”

Cách nói này có thể cho chúng ta cảm tưởng rằng những người có thiện chí, thật sự tìm cách vào Nước Trời bị loại trừ một cách độc đoán bởi quyết định độc tài của một ông chủ không có lòng thương xót. Hẳn đó là một bức ảnh biếm họa về Thiên Chúa. Thiên Chúa không tàn nhẫn và bất công. Thật vậy, ai không vào được bữa tiệc chỉ có thể trách cứ chính mình. Quả thật, ngay cả dân ngoại, bởi một thái độ quay ngược lại (kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu!) sẽ đến từ mọi phương trời. Thiên Chúa đã làm tất cả để cánh cửa nổi tiếng là “hẹp” ấy, thật ra đó là sự nghiêm trọng của vĩnh cửu, trở thành một cánh cửa mở rộng cho mọi người không phân biệt.

Số phận bi thảm của Israel, được mời gọi đầu tiên, đã bị các dân tộc khắp nơi vượt qua phải thức tỉnh sự mê ngủ của chúng ta. Người ta không thể vào Nước Trời như thế, nghĩa là không nhận thức điều vừa nói. Phải ao ước có Phải chiến đấu vì nó. Phải chọn Đức Giêsu. Thuộc về một nhóm người, một chủng tộc, một gia đình, hoặc thực hành một vài nghi thức không thể đem lại cho chúng ta một sự an toàn nào, có chăng chỉ là ảo tưởng… Điều chủ yếu là sự dấn thân bằng tất cả con người chúng ta trong mọi lúc, theo Đức Giêsu. Và nhất là, chúng ta chớ phán xét những người khác. Chúng ta biết được hai điều: 1% về phía Thiên Chúa, tất cả đã sẵn sàng để cứu chuộc mọi người… 2% về phía con người, chỉ cần có sự nghiêm túc của tự do, tự do này có thể từ chối ơn Thiên Chúa ban cho và tự do này là một cuộc chiến đấu… ở trần gian này, chúng ta không bao giờ biết được có phải tự do ấy no anh em chúng ta đã nói tiếng nói sau cùng. Sự gặp gỡ sau cùng với Thiên Chúa vào lúc chết phải là hồi chung cuộc. Mọi người đều đã hiểu rằng tiền đặt cuộc siêu nhiên ấy chỉ có thể trở thành “cứu độ” với Thiên Chúa: Chớ đến dự tiệc Nước Tròi một mình. Trên những nẻo đường bạn hãy loan báo Tin Mừng: Lời Chúa hứa là bánh được ban cho để chia sẻ: Thiên Chúa thúc giục các bạn bước vào nơi ở duy nhất và quy tụ các bạn trong tình yêu. Lạy Đức Giêsu, niềm hy vọng của con người, xin làm cho chúng con trỏ thành những chứng nhân ơn cứu chuộc của Ngài. [Mục Lục]

44. Chú giải của Fiches Dominicales

DỤ NGÔN CỬA HẸP

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

  1. Vào qua cửa hẹp

Một lần nữa Luca xác định Đức Giêsu đang “trên đường lên Glêrusalem”. Một nhận xét có tính thần học hơn là địa lý: Người đang tiến gần đến Thành Thánh, nơi chính Người phải đi trước qua “cửa hẹp” của cuộc khổ nạn để dẫn đưa anh em mình vào dự tiệc Nước Trời. Sau đó, Người còn tuyên bố trong câu 33: “Tôi phải tiếp tục đi, vì một Ngôn sứ mà chết ngoại thành Giêrusalem thì không được”.

Chính lúc đó một người đối thoại vô danh – Luca viết: “Có kẻ hỏi Đức Giêsu: ‘Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?’. Một vấn nạn thường được đưa ra tranh luận giữa các kinh sư và luật sĩ thời đó: kẻ thì bảo “mọi người Israel sẽ được dự phần vào thế giới đang đến”, người khác lại quả quyết “chắc chắn số kẻ bị hư mất sẽ nhiều hơn số người được cứu”.

Theo thói quen thường làm trong tình thế tương tự, Đức Giêsu tránh không trả lời trực tiếp câu hỏi có tính lý thuyết của người đối thoại, nhưng mượn một dụ ngôn, trong trường hợp này là dụ ngôn Cửa Hẹp, Người đưa ra một lời cảnh báo mạnh mẽ cho thính giả mọi thời, xưa cũng như nam Thay vì đoán xa đoán gần về số lượng ít hay nhiều kẻ sẽ được chọn, tốt hơn họ nên lo cho phần rỗi của chính mình một cách sao cho thật thiết thực. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào người nói rõ như thế. Động từ Hy Lạp được Luca dùng ở đây và được dịch là “Hãy chiến đấu”, chính là “agoomdesthé”: một động từ gợi lên ý tưởng đấu tranh vật lộn, từ đó có chữ “agonie” (có nghĩa là ‘lâm chung’ ‘cuộc vật lộn sau cùng’). Như thế đủ thấy tầm quan trọng mà Đức Giêsu dành cho kiếp sống hiện tại của con người.

  1. Trước khi cánh cửa được khoá lại

Bởi cánh cửa, cái cửa chật hẹp ấy, sẽ được “khoá” lại, nên người ta cần phải khẩn trương đón nhận lời dạy của Đức Giêsu và đem ra thực hành. Thời giờ không còn nhiều. Không hề có chế độ ưu tiên trong việc tham dự bàn tiệc Nước Trời. Đâu phải cứ thuộc giống nòi Abraham, “từng được ăn uống trước mặt Ngài”, từng được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, là đương nhiên được Đức Giêsu, vị chủ nhà, mở cho vào khi gõ cửa. Nhưng là phải biết đón nhận lời loan báo nước Trời và mau mắn hoán cải, nếu không sẽ phải nghe tiếng trả lời từ trong nhà: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”.

Thật đau đớn vỡ mộng cho những kẻ tưởng rằng cứ thuộc về dân của Chúa là đương nhiên nắm chắc trong tay tấm vé vào dự bàn tiệc Nước Trời. Họ sẽ phải đứng ngoài cánh cửa đã khép kín, trong lúc cả một đám đông dân ngoại “từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.

Và để hoạ lại lời tiên tri của ông già Ximêon: “Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng những kẻ đứng chót (dân ngoại) sẽ lên hàng đầu, và cả những kẻ đứng đầu (dân Đo Thái) sẽ xuống hàng chót”. Hugues Cóusin lưu ý, “Lời cảnh báo được gởi đến trước hết cho những thính giả Do thái cư ngụ ở Giuđê là Galilê trong những năm 28-30. Tuy nhiên chúng ta đừng quên: những lời của Phúc Âm luôn luôn mang tính hiện tại và nhằm mời gọi một sự hoán cải. Không thể có một thứ ơn cứu độ dọn sẵn cho những Kitô hữu không lo thực hành ngay việc canh tân liên lỉ đời sống mình” (“L’evangilc de Luc”, Centurion, trg 198-199).

BÀI ĐỌC THÊM:

  1. Quyền công dân Nước Trời

“Nước Thiên Chúa là một thực tại mầu nhiệm. Nước ấy hiện diện như một hạt giống bé nhỏ đang vươn lên thành cây cao bóng cả. Nó được vùi vào trong bột như chút men làm dậy cả khối bột. Để được đự phần vào nước ấy, con người phải để cho Nước ấy biến đổi, phải để cho men của Nước ấy làm dậy bột. Nếu chỉ đóng vai kẻ ngoài cuộc hay kính nhi viễn chi thôi thì không đủ phải bước vào, mà cánh cửa lại chật hẹp, nó chỉ mở ra cho những ai nỗ lực bước qua. Đức Giêsu đã đến giữa nhân thế, và loài người có thể lui tới gặp gỡ Người: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Nhưng như thế không đủ. Nhưng sau đó phải bước theo Chúa, phải vào trong Nước Trời qua chính cửa hẹp đó, nếu không sẽ mãi là kẻ xa lạ: “Ta không biết các anh từ đầu đến”. Để gặp gỡ Đức Kitô không nhất thiết ưu tiên cho những ai đã từng gần gũi với Người. Dụ ngôn trực tiếp nhắm đến dân tộc đã sinh ra người trên đời, nhưng đồng thời cũng liên can đến tất cả chúng ta. Thuộc thành phần “từ đông tây nam bắc đến dự tiệc, chính chúng ta cũng dễ dàng tháo lui không dám bước qua cửa hẹp. Hành trình của sự hoán cải không có lối đi vòng nào khác: “Cút di cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”. Chỉ có một thứ giấy thông hành thôi, đó là phải đổi đời. Chính nó sẽ cấp cho chúng ta quyền công dân của Nước Trời. Khi điều đó được sáng tỏ, chúng ta mới thấy mọi thứ giả tạo sẽ lộ nguyên hình: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”.

  1. Trở lại với nguồn mạch Tin Mừng

Dựa vào lời dạy của Đức Giêsu, Thánh Luca muốn đưa ra câu trả lời chính xác cho một tình huống khá cụ thể, trong đó kẻ thuận người chống về vấn đề dân ngoại xin gia nhập Hội Thánh. Người thuận thì cho rằng Nước Thiên Chúa luôn mở rộng cho tất cả những ai tìm kiếm và muốn bước vào. Người chống thì chủ trương phải thuộc thành phần ưu đãi, nghĩa là phải được cắt bì theo luật Do Thái mới được gia nhập. Giáo huấn của Đức Giêsu đã qua rõ. Rõ đến nỗi đụng chạm và gây vấp phạm đến tất cả những ai từng bám vào những đặc ân và ngoại lệ, những bảo hiểm an toàn dành cho những tín hữu “ngoan đạo”. Nhưng Đức Giêsu lại chẳng để ý gì đến chuyện thuộc thành phần nào, chuyện đặc quyền đặc lợi hay việc giữ đúng phép đạo.

Nếu cánh cửa có hẹp, nó vẫn đủ rộng để đón mời mọi người và mỗi người. Nhưng lối vào không thênh thang. Để lọt được vào trong, đòi phải có sự mềm mại của tình yêu đáp trả tình yêu đang thao thức, đang xét xử và đón mời. Ở đây, chúng ta được nghe nhắc lại tầm quan trọng của đức tin và việc sống đạo, mà chủ yếu là thực hành hai giới răn chính mà thực tế chỉ là một giới răn tình yêu. Cần phải lên án cả lối nhìn nghiêm khắc của Jansénisme lẫn chủ trương dễ dãi buông thả, cả sự bối rối sợ hãi lẫn thái độ thoải mái vô tư.

Hãy dẹp sang một bên những bảng thống kê và con số, những suy đoán vô ích, những nỗi lo lắng và tin tưởng vu vơ. Tốt hơn, chúng ta hãy trở về với nguồn suối Tin Mừng. Chính nơi đó người ta tìm được tất cả những gì mình phải là và phải làm, để trở nên và mãi là “công dân Nước Trời”. [Mục Lục]

45. Đường vào Nước Trời – William Barclay

Đây là biến cố đầu tiên trong một loạt các biến cố mới trong chặng hành trình cuối cùng của Chúa hướng về Giêrusalem. Ngài biết tình hình đã đến lúc nghiêm trọng. Ngài biết đây là lần cuối cùng Ngài đi rao giảng sự cứu rỗi cho dân tộc, nên Ngài cố gắng để có thể đạt sứ điệp của Ngài đến cho mỗi thành mỗi làng.

Trong đám thính giả có người hỏi: “Thưa Ngài, phải chăng những người được cứu thoát thì ít?” Chúa không trả lời trực tiếp, nhưng câu Ngài trả lời ngụ ý nhiều người Do thái nghĩ mình được cứu thì lại bị hư mất, có nhiều người ngoại bang mà người Do thái cho là hư mất thì lại được cứu. Chúa Giêsu ví sánh những người phước hạnh của Nước Ngài như một tiệc cưới dọn trong tòa lâu đài. Cửa vào lâu đài này hẹp nên nhiều người được mời từ chối không chịu đi qua. Sau một thời gian cửa này đóng lại, rồi những người không chịu vào kia lại năn nỉ chủ nhà mở lại, nhưng vô hiệu, họ đã bị loại trừ vĩnh viễn, lòng tràn ngập hối hận buồn khổ. Cửa hẹp là cánh cửa của lòng ăn năn sám hối và đặt niềm tin cậy nơi Chúa Giêsu, cơ hội vào rất sẵn sàng, nhưng không phải là vô thời hạn, những kẻ chối bỏ Đức Kitô sẽ bị lọai ra khỏi Nước của Ngài, rồi bấy giờ những người này mới thấy mình dại dột.

Trong câu chuyện, họ khẩn khoản nài xin được vào, chính điều này là lý do buộc tội họ. Đây là hạng người đã biết Chúa rồi, họ đã từng ăn với Ngài, từng được Ngài dạy dỗ. Thế thì tại sao họ lại không nhận Ngài? Những đặc ân ấy chỉ làm tăng thêm tội trạng của họ. Chúa đã từ chối không nhận họ thuộc về Ngài. Như vậy Chúa mô tả nhiều người Do thái bị loại bỏ, rồi thêm một câu không kém kích động về việc tiếp nhận dân ngoại: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.

Như vậy Chúa Giêsu đã ứng dụng cách thực tế câu hỏi mà người ta chỉ đặt ra vì tò mò. Chúa dạy chúng ta nhiều điều:

  1. Chúa tuyên bố rằng sự gia nhập Nước Trời không bao giờ là việc đương nhiên, nhưng đó là kết quả và là phần thưởng của một cuộc tranh đấu. Chúa Giêsu phán: “Hãy chiến đấu mà vào” từ ngữ dịch chiến đấu hay gắng sức trong nguyên ngữ có nghĩa là sự “thống khổ”. Sự chiến đấu để vào Nước Trời phải gay go đến nỗi có thể diễn tả như một sự thống khổ của tâm hồn và tinh thần.

Chúng ta dễ sa vào cơ nguy: sinh ra trong gia đình có đạo, sống trong cộng đoàn tin Chúa, hay một khi đã chính thức tin nhận Chúa là đã đi đến cuối đường và bây giờ có thể ngồi chơi như thể đã đi tới nơi, đã hoàn thành mục đích. Đời sống Kitô hữu không bao giờ có cái gọi là chung cuộc. Kitô hữu luôn luôn tiến tới, còn không thì sẽ lùi lại.

Con đường đạo khác nào một cuộc leo núi mà đỉnh chót không bao giờ đạt được ở thế gian này. Người ta nói về hai nhà leo núi nổi tiếng đã chết tên ngọn Everest rằng: “Khi người ta thấy họ lần cuối cùng thì họ vẫn hăng hái tiến lên đỉnh núi”. Người ta đã ghi khắc vào bia mộ một hướng dẫn viên leo núi Alpe chết ở sườn núi rằng: “Chàng chết lúc đang lên”. Con đường Kitô hữu luôn luôn là con đường đi lên, tiến mãi.

  1. Những người đó đã mượn lý do rằng: chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng từng dạy dỗ trên đường phố của chúng tôi”. Có những người nghĩ rằng họ đã ở trong đạo Chúa thế là đã đủ rồi. Họ có ý phân biệt họ với đám dân ngọai. Nhưng con người sống trong Giáo Hội của Chúa Kitô chưa chắc chắn đã phải là Kitô hữu, những người đó đang hưởng thụ các lợi ích, các tiện nghi mà những người đi trước đã xây dựng nên. Nhưng đó không phải là lý do để ngồi chơi, thỏa lòng và yên trí rằng mọi sự đều tốt đẹp cả. Ngược lại, chúng ta phải tự vấn?” Chúng ta không thể sống bằng cái tất vay mượn của tiền nhân.
  2. Sẽ có những bất ngờ trong Nước Chúa. Những người nổi danh ở thế gian này có thể sẽ rất thấp kém trong đời sau. Những người chẳng ai biết đến trong đời này có thể sẽ là những vương tử ở đời sau. Có câu chuyện về một người đàn bà giàu sang được thế gian này rất mực tôn trọng. Bà ta chết và khi tới thiên đàng thì có một thiên sứ đưa bà đến nhà bà sẽ ở. Bà ta thấy nhiều ngôi nhà xinh đẹp và mỗi lần đi qua bà cứ tưởng nhà đó dành cho bà. Khi đi qua các dãy phố chính ở trên trời, tới khu ngoại ô, tại đó các nhà nhỏ hơn nhiều, và đến cuối phố, gặp một cái nhà chỉ hơn cái lều một chút. Thiên sứ bảo: “Đây là nhà của bà”. Bà nói: “Cái gì vậy? Tôi không thể nào sống trong đó”. Thiên sứ đáp: “Tôi rất tiếc, nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có thể kiến thiết với những vật liệu bà đã gửi lên đây!” Các tiêu chuẩn trên trời không giống các tiêu chuẩn dưới đất. Hạng nhất của thế gian thường sẽ là hạng bét và hạng bét của thế gian là hạng nhất ở trên trời. [Mục Lục]

46. Lý tưởng sống – Phêrô Trần Đình Phan Tiến

Vâng! Kính thưa quý vị, lý tưởng sống có nghĩa là sống có lý tưởng, sống có lý tưởng là sống như thế nào? Hay nói cách khác, thế nào là sống có lý tưởng.

Vâng! Xin thưa ngay đó là sống theo gương Chúa Giêsu, vâng chính Người là Thiên Chúa, nhưng Người đã từ bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, sống kiếp phàm nhân… (Pl 2,6-11).

Có lẽ không có từ ngữ nào của Kinh Thánh nói rất rõ ràng mà quy chiếu mạch lạc về Đức Giêsu Kitô cho bằng (Pl 2,6-11), nghĩa là tóm lược chân dung Đấng Cứu Thế Giêsu-Kitô.

Lời Chúa (Lc 13,22-30) hôm nay có hai ý chính:

– Vào Cửa Hẹp (Lc 13, 24a)

– Thiên Chúa khước từ sự bất trung của dân Do thái và kêu gọi dân ngoại. (Lc 13, 24b)

Sau khi được Chúa Giêsu giảng dạy, người ta hỏi Người rằng: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (c23). Chúa Giêsu bảo: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào (c24a)”.

Như vậy “Cửa Hẹp” là gì? Cánh cửa tượng trưng cho sự đóng mở, cũng tượng trưng cho quyền lực. Theo nghĩa đen, ngày xưa người ta đã biết sử dụng “cái cửa”. Cửa là nơi để qua lại, để ra vào, để ngăn chặn, để đón chào. Vâng, cánh cửa thật là rắc rối! Tại sao? Thưa, chức năng của nó thật đa dạng. Thật ra nó chỉ là một tấm ván chặn đường mà thôi! Nhưng, được gọi là “cái cửa”.

Vâng, lý sự hơi rườm rà một chút, vì sự thật là như vậy. Tại sao Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cái cửa để dẫn chứng về sự sống đời đời. Trong Tin Mừng, Người thường dùng hình ảnh nầy. Vâng! Thưa quý vị, vì Chúa Giêsu không dùng từ ngữ triết học, ngoại thương, kinh tế, hay chính trị mà Người dùng từ ngữ bình dân, dễ hiểu, nhưng ý nghĩa triết lý thật cao siêu. Theo đó, Nước Trời được ví như cái cửa, và cái cửa ấy chính là Chúa Giêsu, Người chính là cánh “Cửa Hẹp”, mà những ai muốn vào Nước Trời phải bước qua. Nhưng muốn qua “Cửa Hẹp” phải chiến đấu. Ngày nay, chúng ta không sống ở thời đại đương thời của Chúa Giêsu, cũng như người Do thái. Nhưng Lời Chúa là Lời Hằng Sống, vì vậy lý tưởng sống là sống theo lý tưởng của Chúa Giêsu. Vì Người khẳng định: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì Tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”. (Lc 13, 24).

Khởi đi từ bài đọc I (Is 66, 18-21) hôm nay, chúng ta thấy Thiên Chúa sẽ kêu gọi mọi người từ khắp tứ phương thiên hạ vào dự tiệc Nước Trời, là nơi có Thiên Chúa ngự trị. Thiên Chúa sẽ không còn độc quyền cho dân Dothai nữa, mà là cho hết mọi dân tộc.

Bài đọc II (Dt 12, 5-7.11-13), thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng: sự sửa dạy của Thiên Chúa thì cần thiết cho chúng ta. Có nghĩa là Thiên Chúa sẽ lấy tình phụ tử mà sửa dạy ta. (Dt 12, 5-7).

Như vậy “cửa hẹp” chính là con đường mà Chúa Giêsu đã đi, một con đường đầy thử thách, chông gai, đồng thời cũng là con đường tình yêu mà Chúa Cha đã chỉ định cho Người và cho chúng ta. Cửa hẹp, hay là con đường hẹp chính là cuộc đời Chúa cứu thế Giêsu đã đi, chính là con đường Thập giá. Vậy câu hỏi được đặt ra là: Tại sao tôi phải sống con đường hẹp. Thưa theo nghĩa đen, nơi nào rộng rãi, dễ dãi thì tụ tập đông người. Người đời thường chuộng sự dễ dãi, chứ không ai chuộng sự khó khăn. Nhưng nếu trên một chiếc cầu mà quá nhiều người chen chúc, chắc chắn sẽ có ngày chiếc cầu ấy không chịu đựng nỗi,tất cả sẽ rơi xuống dòng sông. Nhưng những ai khôn ngoan thì không chen chúc trên chiếc cầu ấy, thì họ sẽ được bình an.

Đời sống thiên liêng cũng vậy, nếu chúng ta sống dễ dãi buông xuôi, chúng ta chẳng thể nào vào được Nước Thiên Chúa. Như vậy, cuộc sống phải có lý tưởng, nhưng không có lý tưởng nào cao đẹp bằng bước theo Chúa Kitô bằng con đường Thập giá của Người. Vì Người chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Một Sự Sống từ Thiên Chúa mà thế gian không có được.

Ngày nay, thiên hạ đua tranh làm giàu, kiếm tiền bất chấp luân lý, đạo lý. Người Công giáo sống cùng người vô thần, cũng lao theo kiếm tiền, như vậy há chẳng phải là họ đang chiến đấu để vào cửa rộng sao? Cửa rộng cũng phải chiến đấu, tranh giành và sát phạt nhau, phương chi là cửa hẹp.

Như vậy, muốn vào cửa hẹp cũng phải chiến đấu cam go, chiến đấu với bản thân với vô vàn nghịch cảnh. Có nghĩa là từng ý nghĩ, từng hành vi, từng lúc, từng thời luôn quy chiếu về Chúa Giêsu là “Cửa Hẹp” của đời mình, và Chúa chính là mục đích của đời ta, là kim chỉ nam cho cuộc sống của ta. Muốn được vậy, ta phải chấp nhận mọi hy sinh cho cuộc đời mình để bước theo Chúa. Vì cuộc đời Chúa Cứu Thế Giêsu không phải là một cuộc đời trải thảm hoa, mà là một cuộc đời hy sinh, hy sinh trọn vẹn cho Thiên Chúa. Mầu nhiệm thập giá càng vinh quang, thì sự hy sinh càng lớn. Chúa Giêsu đã tự hiến tế để dâng mình lên làm hy lễ đền bù cho nhân loại lên đến Tôn nhan Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sửa dạy chúng ta qua chính Con Một của Ngài là Chúa Giêsu-Kitô, đến độ trên Thập giá Người đã kêu lên: “Êloi. Êloi, lamma sa bat tani”, nghĩa là “Lạy Chúa tôi, Lạy Thiên Chúa của tôi, nhân sao Ngài lại bỏ tôi!”. (Mt 27,46), (Mc 15,34).

Như vậy, Chúa Giêsu không nói suông mà chính Người đã hợp tác với Thiên Chúa Cha để cứu độ thiên hạ, và trao ban cho thiên hạ một con đường sống qua cuộc tử nạn của Người. Do đó, Người không chỉ là Thiên Chúa ở trên cao, mà là một Vị Thiên Chúa hữu hình thật sự đã mang lấy tội lỗi của nhân thế, để trở nên như phàm nhân, sống một kiếp phàm nhân, nhưng không sống như phàm nhân, mà là sống như Thiên Chúa, vì Người đã mang lý tưởng sống đến cho nhân loại, là sống một lý tưởng vì Thiên Chúa và đồng loại là phàm nhân, bởi vì chính Người là Thiên Chúa thật. Amen

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một lý tưởng sống của Chúa, để chúng con sống có lý tưởng là chính Chúa, là cửa hẹp mà Chúa đã dạy chúng con phải chiến đấu mà vào. Amen [Mục Lục]

47. Suy niệm Chúa Nhật 21 Thường Niên

(Trích dẫn từ ‘Tin Vui’ – Giáo phận Xuân Lộc)

Chúng ta đứng trước một Vương Quốc mở ra cho tất cả mọi người, nhưng chỉ được một số ít người khám phá. Thiên Chúa mời gọi tất cả chúng ta, và không có dân tộc nào được lựa chọn một cách độc quyền. Thiên Chúa giúp chúng ta đi thẳng đường và tin tưởng tiến tới bằng các cuộc can thiệp của Người trong cuộc sống của chúng ta. Dù nhiều lúc rất căng thẳng. Khẳng định rằng cánh cửa hẹp không phải là dấu chỉ của sự bi quan, nhưng là bằng chứng cho thấy rằng ơn gọi của con người được chú trọng một cách nghiêm chỉnh.

Is 66, 18-21

Trở về sau lưu đày, người Do thái vấp phải một thực tại đời thường đáng thất vọng. Nịềm phấn khởi lúc trở về đã tan biến đi và nhường chỗ cho thái độ dửng dưng, bỏ mặc muốn ra sao thì ra. Tiếp nối lời rao giảng của Isaia, một Tiên tri tìm cách mang lại can đảm khi mô tả tương lai vinh quang của Dân tộc ưu tuyển. Giê ru sa lem sẽ trở nên kinh thành vinh quang nơi mọi người sẽ đến để gặp gỡ Thiên Chúa.

Thánh Vịnh 116

Tất cả các dân tộc trên hoàn vũ đều được mời gọi họp tiếng ca tụng Thiên Chúa.

Hr 12,5-7.11-13

Gợi lại cuộc lữ hành dài của người tín hữu về Kinh thành của Thiên Chúa, tác giả khuyến khích độc giả mình hãy chứng tỏ lòng kiên trì. Con đường khó khăn có thể khiến người ta thất vọng, nhưng điều cốt yếu là cần phải hiểu các thử thách trong cuộc đời như là một lời Chúa mời gọi chúng ta chỉnh sửa lại các khiếm khuyết làm chậm đà tiến của chúng ta.

Tin mừng Lc 13,22-30

NGỮ CẢNH

Với câu chuyển đoạn (13,22), ở đây Lu ca tiếp tục cấu trúc dàn dựng các biến cố của Chúa Giê su trong viễn cảnh một chuyến đi về Giê ru sa lem (9,51).

Đây là chuyến đi của một người chinh phục sẽ đánh đuổi quân đế quốc La mã chăng? Các môn đệ của Chúa Giê su có thể đã nghĩ như cậy, đặc biệt sau khi đã nhận biết Ngài là Đáng Cứu thế, Đấng Messia (9,20). Nhưng chương trình của Chúa Giê su hoàn toàn khác hẵn.

TÌM HIỂU

Đoạn tin mừng nầy trả lời cho câu hỏi nền tảng: Ai sẽ được cứu độ? Chúa Giê su trả lời: đó là những người đi qua cửa hẹp (13,24). Hình ảnh cái cửa được lặp lại trong một dụ ngôn để cho thấy rằng những ai nại vào những ưu quyền mình đang có sẽ bị lọai trừ (13,25-28), còn những người khác, đến từ các khắp mọi nơi, sẽ được chấp nhận (13,29). Bài tin mừng khép lại bằng một câu nói khẳng định sự đảo lộn tình thế ấy (13,30).

Những người được cứu thoát: X. Mt 7,13-14. Động từ “cứu” trong tin mừng Lc chỉ sự cứu độ toàn bộ con người ở bên kia cái chết (1,77; 2,30; 3,6t; 7,50; 9.24; x. Cv 2,47; 4,12).

Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ai? Theo những điều kiện nào? Đó cũng là câu hỏi được đặt ra khi ý thức về sự cần được một Đấng Khác cứu độ (x.18,26). Chúa Giê su từ chối đưa ra con số chính xác những người được chọn, nhưng nhắc nhở cho những người được chọn đầu tiên, người do thái và chúng ta, rằng ơn cứu độ không bao giờ là một điều đắc thủ có sẵn.

Hãy chiến đấu: từ hi lạp chỉ cuộc chiến đấu, trận đấu (x. Pl 1,30; 1Tm 6,12; 2Tm 4,7). Do đó cần phải có sức mạnh (16,16). (Trong 22,44 một từ tương đương được một vài tác giả dịch là “hấp hối”). Cả khi sự cứu độ là một ơn ban, cũng không lọai trừ sự nỗ lực về phía con người.

Vào qua: vào đâu? Trong c.25 tác giả nói là vào nhà và trong c.29 lại vào bàn ăn. Động từ mạnh nghĩa không có tân ngữ, ám chỉ đến việc đi vào Nước Thiên Chúa (x. 11,52;18,17.25), được trình bày như một bữa tiệc (14,15). Do đó, từ “vào” đồng nghĩa với “được cứu độ”: người được Thiên Chúa cứu độ là người đi vào nhà của Thiên Chúa.

Cửa hẹp: không dễ tìm ra ý nghĩa của hình ảnh nầy. Trong Mt 7,13-14 cửa hẹp đối nghịch với cửa rộng, con đường thênh thang, nghĩa là sự dễ dãi. Do đó, cần phải nép mình, uốn mình mà đi vào, trở nên nhỏ bé (9,48), liều mất mạng sống mình (9,23-24).

Có thể tìm theo hướng khác, Chúa Giê su nói Ngài là cửa (Ga 10,7-9). Tại cửa đền thờ, Phê rô và Gioan chữa lành một bệnh nhân “nhân danh Chúa Giê su”, và danh ấy cho phép người bệnh đi vào trong đền thờ (Cv 3,1-10). Do vậy, Chúa Giê su là đấng cho phép đi vào trong Nước Trời. Nhưng người đi theo phải chấp nhận vác thập giá như Ngài (9,23) và chấp nhận phép rửa (12,50). Cánh cửa đích thực của ơn cứu độ là thập giá Chúa Giê su: Chúa Giê su bị đóng đinh cho phép người trộm lành cùng với Ngài đi vào Thiên đàng (23,43).

Không thể được: câu tuyên bố gây ngạc nhiên: tại sao người muốn vào lại không thể vào đó được ? câu trả lời ở phần sau.

Chủ nhà: trong đoạn 12,36-40 cũng nói về một ông chủ nhà hi vọng nhìn thấy đầy tớ của mình tỉnh thức khi ông đi ăn cưới trở về; chủ nhà đó được đồng hóa với Con Người, nghĩa là với Chúa Giê su. Ở đây, Chúa Giê su một lần nữa là chủ nhà, và người gõ cửa, dường như là cửa nhà Quan Án, không còn phải là Ngài nữa, mà là các đầy tớ; ở đây chủ nhà đang ở trong nhà, còn người đầy tớ đứng ở ngòai. Hai cách nhìn bổ túc cho nhau: nói về việc tính sổ trong lần gặp cuối cùng với Chúa. Câu truyện tương đương với dụ ngôn mười người trinh nữ trong Mt 25,1-13, nhưng chủ điểm của nó hơi khác một chút. Mt nhấn mạnh hơn về việc thấy trước, còn Lu ca thì lại chú ý đến sự kiện là người ta không biết lợi dụng thời cơ để đi vào khi thời cơ đến (Is 55,6).

Thưa Ngài: tước hiệu nầy chắc chắn là của Chúa (x.6,46), nhưng không đủ để nói rằng Ngài là Chúa, cần phải có các điều kiện tương xứng (6,47).

Chúng tôi đã từng được ăn uống: x. Mt 7,22-23. Bị từ chối ngay từ lần đầu tiên khiến những người gõ cửa phải nài nỉ. Ám chỉ đến những bữa ăn mà Chúa Giê su dùng với họ (7,36;11,26), đến giáo huấn mà ngài ban cho họ trên các công trường (7,30-34). Đối lại với đám người nầy, chúng ta có thể nhớ lại các môn đệ, với các bữa ăn với Chúa Giê su phục sinh (Lc 24,3-.41-43; Cv 10,41).

Khác với trường hợp trong dụ ngôn người bạn quấy rầy trong đêm (11,5-8), anh ta đạt được điều mình muốn, ở đây sự nài nỉ chẳng những không đưa đến kết quả nào, mà còn chống lại họ. Lời quở trách của Chúa Giê su nhắm đến những người đương thời cậy dựa vào các ưu quyền của mình để đòi được cứu độ. Nhưng “Thiên Chúa có thể biến những hòn đá nầy thành con cái ông Abraham” (3,8). Thánh Phao lô sau nầy sẽ khai triển luận chứng nầy trong Rm 2.

Ta không biết các anh: câu nói thật khủng khiếp! Chúa Giê su từ chối chấp nhận các tước hiệu mà người ta lạm dụng để phá cửa xông vào Vương quốc. Huyết tộc hoàn toàn vô hiệu trước sự thân thuộc đích thực từ việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa (8,19-21).

Cút đi cho khuất mắt ta: trích dẫn Tv 6,9 ở đây chỉ một sự bất tương ứng tuyệt đối giữa sự sống với Thiên Chúa và đời sống gian ác. Nó không lọai trừ sự thương xót, nhưng cho thấy rằng trách nhiệm của sự chọn lựa hôm nay ở trong tay chúng ta.

Khóc lóc nghiến răng: kiểu nói chỉ có ở đây trong Lc, trong khi ở Mt xuất hiện đến 6 lần.

Các câu 28-29 là một vài lời nói mà Mt 8,11-12 gom lại sau khi người đầy tớ viên bách quan được chữa bệnh. Chúng nhấn mạnh sự mâu thuẩn giữa sự khước từ của những người nói rằng mình gần gủi với Chúa Giê su, và sự tiếp nhận của các người dân ngọai đến từ khắp các chân trời: họ sẽ gặp các tổ phụ và các tiên tri trong nước Thiên Chúa. Bên đây vang tiếng kêu đau đớn, còn bên kia rộn rã niềm hân hoan dự tiệc. Đây là lần đầu tiên Lu ca nói đến tiệc cưới, hình ảnh chỉ Nước Trời (x. Is 25,6), sẽ được lặp lại trong đoạn 14,7-24 và trong 22,30. Đặc tính phổ quát của ơn cứu dộ là một chủ đề Lu ca rất ưa thích.

Dự tiệc: x. 14,15

Đứng chót: trong một ngữ cảnh khác, Mt (19,30;20,16) nói: “nhiều người đứng chót”. Mc cũng nói như thế trong 10,31 (x. chú thích). Dường như chỉ có Luca áp dụng câu nói nầy cho những người được kêu gọi vào lúc chót, tức là các dân ngọai và những người được kêu gọi trước tiên, tức là người Híp pri. Nhưng bản văn không nói đến việc một dân khác thay thế dân nầy, mà chỉ khẳng định rằng trước mặt Thiên Chúa không có ưu tiên hay đặc quyền đặc lợi gì cả: mỗi người sẽ bị xét xử theo cách sống của mình (x. Êd 18).

SỨ ĐIỆP

Bài tin mừng hôm nay khá lạ lùng. Nó nói với chúng ta về khung cửa hẹp, về cửa đóng kín, về những người bị lọai trừ khỏi Vương Quốc Thiên Chúa. Nhưng nếu chúng ta chịu khó đào sâu các bản văn Thánh Kinh, chúng ta sẽ khám phá thấy rằng đây là một trang tin mừng đem lại nhiều hi vọng. Quả thật, nó nói với chúng ta về Thiên Chúa muốn qui tụ tất cả mọi người trong Vương Quốc của Ngài. Đó là điều mà tiên tri Isaia đã loan báo trong bài đọc thứ nhất: “Ta đến qui tụ mọi người thuộc mọi dân nước và mọi ngôn ngữ. Chúa Giê su đến xác nhận sứ điệp đó: “Người ta sẽ từ Phương Đông, phương Tây, từ Bắc chí Nam đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.

Vấn đề là nhiều người đã không hiểu đúng. Họ quên rằng để vào Nước Thiên Chúa, phải qua cửa hẹp. Và để vượt qua, phải giải thoát mình khỏi những ưu tiên. Giàu sang, vinh dự mà chúng ta ki cóp trong suốt cuộc sống của mình sẽ không có ích lợi gì cả. Đã cùng ăn cùng uống với Đức Ki tô không thôi chưa đủ. Điều quan trọng là đã cho Ngài ăn qua những người nghèo mà chúng ta gặp trên đường chúng ta; đó là đã chia sẻ cho người đói, cho người mất tất cả. Ngang qua họ, chính Đức Ki tô hiện diện và gõ cửa nhà chúng ta.

Việc có được vào Nước Thiên Chúa hay không tùy thuộc vào vị trí mà chúng ta dành cho Đức Ki tô trong đời sống chúng ta. Đi lễ, làm tuần cửu nhật, hòan thành những việc đạo đức là rất tốt; nhưng những điều đó phải nói lên một ý muốn thâm sâu của tâm hồn. Phải làm điều Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta, là rủ bỏ tất cả những gì cản trở chúng ta. Đó chính là bước qua cửa hẹp. Sự chọn lựa ấy dẫn chúng ta đến việc từ bỏ những cái vô giá trị để thực sự chọn lựa kho tàng đích thực.

Đó là cánh cửa hẹp mà Chúa Giê su đã vượt qua. Ngài đã mở lối cho chúng ta đi theo Ngài. Một lần nữa, điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta vất bỏ gánh nặng mà chúng ta mang trong mình. Những hành lí cồng kềnh chỉ làm cho bước đi trở nên khó khăn hơn mà thôi.

Trong cuộc lữ hành về với Thiên Chúa cũng thế. Chúng ta chỉ có thể thực sự tiến tới trước nếu chúng ta bước đi một cách nhẹ nhàng. Đi một cách nhẹ nhàng là tạo khỏang trống trong chúng ta, đó là ra đi khỏi những chuyện cãi cọ trong giáo xứ, đó là giải phóng khỏi những ý tưởng của chúng ta, những thành kiến, những truyền thống của chúng ta. Điều quan trọng nhất không phải là trung thành với truyền thống mà là tiến lên trong sự trung thành hơn đối với Chúa Giêsu Kitô. Vào qua cửa hẹp là chấp nhận những sự thanh tẩy cần thiết. Những ai muốn được cứu độ bằng sự dễ dãi sẽ bị bỏ lại bên ngòai. Những ai cho rằng ơn cứu độ là của riêng mình có thể bị thất vọng. Người ta không chiếm hữu cho mình ơn cứu độ, nhưng phải tiếp nhận như một ơn ban nhưng không.

Đi theo Chúa Giê su qua cửa hẹp. Đó là điều đòi hỏi chúng ta. Nhưng khi suy nghĩ kĩ, chúng ta khám phá ra rằng vần đề đích thật ở chỗ khác: Cái gì hẹp? Có thật sự là cái cửa không? Hay là chính tâm hồn ? Bài tin mừng mời gọi chúng ta mở tâm hồn ra cho Thiên Chúa và người khác. Cánh cửa tâm hồn có được mở rộng ra không tùy thuộc mỗi người chúng ta. Chính đó là nơi mà Đức Ki tô chờ đợi và hẹn hò với chúng ta.

Vào qua cửa hẹp còn là đi ra khỏi sự tự mãn của mình và đặt trọn vẹn cuộc đời chúng ta trong tay của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi đi vào bằng cách đặt bước chân của chúng ta trong bước chân của Ngài và đi theo Ngài trong tình yêu, tha thứ và phục vụ anh em. Cánh cửa đó chính là cánh cửa mà Chúa Giê su đã đi qua từ hang đá đến thập giá. Chúng ta đang trên đường đi theo Ngài. Nhiều khi việc đi theo đòi hỏi chúng ta phải hi sinh, nhưng điều quan yếu là biến tất cả cuộc đời chúng ta thành một hành vi yêu thương như Chúa Giê su đã làm.

Nhiều người thất vọng vì họ đang sống trong bóng tối đằng sau một khung cửa hẹp và đóng kín. Họ không còn biết gán cho cuộc sống họ ý nghĩa gì. Nhưng qua kẽ hở cánh cửa, họ phải nhìn thấy một tia sáng mặt trời rọi vào. Đó là ánh sáng Đức Ki tô đấng chiến thắng sự chết và sự dữ. Như đã nói trong bài đọc thứ hai, ánh sáng ấy sẽ mang lại sức sống cho “những đôi tay rã rời và những đầu gối mệt mỏi”; nó sẽ giúp cho chúng ta can đảm trên đường. Ngày Chủ nhật, Đức Ki tô chịu đóng đinh và sống lại cho chúng ta nghe Tin mừng cứu độ và ban cho chúng ta Bánh sự sống để tất cả cuộc sống của chúng ta trở thành lời Tạ ơn. Ngài đến gặp chúng ta để dạy cho chúng ta trở thành những dấu chỉ của đời sống vĩnh cửu cho tất cả mọi dân tộc. [Mục Lục]

48. SCĐ/670 – Cứu rỗi

Thời Chúa Giêsu nhiều người Do thái tưởng rằng ơn cứu rỗi chỉ dành riêng cho dân tộc họ mà thôi. Vì thế khi họ hỏi Chúa Giêsu “Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số ít người sẽ được cứu rỗi?”thì họ thầm mong Chúa Giêsu sẽ trả lời “phải” để xác nhận quan điểm của họ.

Nhưng Chúa Giêsu đâu có muốn xác nhận một quan điểm hẹp hòi như vậy, và Chúa Giêsu cũng không muốn trả lời thẳng câu hỏi của họ. Nếu Chúa đáp “phải”chỉ có một số ít người sẽ được cứu rỗi thì sẽ sinh hậu quả là những người Do thái thành ra kiêu căng tự mãn vì nắm chắc phần rỗi: vì tự mãn như thế họ không cần cố gắng gì thêm nữa. Và những người khác không phải là Do thái thì sẽ nản lòng, tự nhủ “Ơn cứu rỗi không thuộc về mình, thôi thì cố gắng làm chi cũng vô ích”. Ngược lại nếu Chúa Giêsu đáp “Ơn cứu rỗi được ban cho số đông”thì cũng làm cho mọi người ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắn sẽ được rỗi mà.

Chính vì những lý do nêu trên mà Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, Chúa nhắm đến phẩm chất: Ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một dân tộc nào, của một phe nhóm nào cả, mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo lời Chúa dạy. Vì thế mà sẽ có những cảnh trớ trêu:

– Những kẻ trước hết sẽ có thể nên sau hết; ngược lại những kẻ sau hết có thể thành trước hết. Dân tộc Do thái dù được biết Chúa sớm hơn hết nhưng nếu không sống theo lời Chúa thì có thể đi sau các dân khác tuy biết Chúa muộn hơn nhưng đã biết sống theo lời Chúa.

– Chúa còn nói: “Nhiều người từ đông sang tây nam bắc sẽ được mời vào nước Chúa đang khi con cái trong nhà bị đuổi ra”, nghĩa là có thể các dân tộc khác sẽ vào chiếm chỗ dân Do thái vì các dân tộc ấy đã biết sống theo lời Chúa.

Trên đây ý nghĩa trực tiếp của đoạn Tin Mừng, áp dụng cho dân Do thái và các dân tộc khác thời Chúa Giêsu. Còn ý nghĩa hiện thực áp dụng cho thời đại chúng ta ngày nay là: không phải hễ có rửa tội, có đạo, có dự lễ, rước lễ, xưng tội, đọc kinh, nghe giảng… thì đương nhiên sẽ được cứu rỗi đâu. Nhưng ơn cứu rỗi được ban cho bất cứ kẻ nào sống theo lời Chúa, cho dù người đó có đạo hay là không có đạo. Thực vậy, có đạo mà không sống theo lời Chúa thì không bằng người tuy không có đạo, không biết Chúa nhưng cuộc sống của họ lại theo đúng những điều Chúa dạy. Giáo thuyết này đưa đến hai quan niệm mới trong nền thần học ngày nay: (1) thứ nhất là quan niệm về những người Kitô hữu vô danh: đó là những người tuy không có đạo, nhưng vì cuộc sống của họ phù hợp với tinh thần Tin Mừng nên vẫn được coi là Kitô hữu mặc dù họ không có danh hiệu Kitô hữu. (2) Còn quan niệm thứ hai là về những người “Kitô hữu ngoại đạo”, nghĩa là những người tuy có đạo nhưng lại không sống theo tinh thần Tin Mừng nên bị coi là ngoại đạo mặc dù họ có danh hiệu Kitô hữu.

Nếu danh hiệu không làm nên thực chất của người Kitô hữu, thì là cái gì? Thưa là cuộc sống được thể hiện qua những phản ứng của mình trước mọi tình huống trong đời.

Một nữ tu già ngồi sau một chiếc xe đạp, rồi có một chiếc xe hơi trên đó có một số cán bộ chạy lướt qua. Chiếc xe hơi lái hơi ẩu nên chạm chiếc xe đạp làm cho bà sơ già té ngửa xuống, dập đầu xuống đường. Những cán bộ trên xe hơi vội vã xuống đỡ bà dậy. Mặc dầu đau lắm nhưng bà cố gắng nói “Không sao đâu các con, xin Chúa chúc lành cho các con”. Câu nói đột ngột đó làm cho các ông cán bộ kia vừa tức cười vừa nghĩ ngợi: tức cười vì các ông ấy đâu có tin Chúa mà cần tới phúc lành của Chúa, nhưng các ông phải nghĩ ngợi vì phản ứng đầy bác ái và đầy đức tin của bà sơ: chỉ có kẻ nào quá quen với tha thứ và lúc nào cũng luôn nhớ tới Chúa mới có thể thốt ra một câu như vậy”. Và sau đó những ông cán bộ ấy hay tới lui chăm sóc và thăm viếng vị nữ tu ấy, lòng rất mến phục.

Đó là những phản ứng, phản ứng thì lẹ làng, bất ngờ nhưng rất trung thực. Trước một tình huống xảy ra, trong lòng mình thế nào thì mình sẽ phản ứng đúng như vậy. Người nào chỉ có đạo trên danh nghĩa nhưng không quen sống theo lời Chúa thì không thể nào có được phản ứng mang tính chất Kitô giáo đích thực. Như thế, thước đo của lòng đạo chúng ta chính là những phản ứng của chúng ta.

Thí dụ như khi bị trộm mất đồ, không ít người có đạo đã đi coi thầy bói để đoán xem ai đã lấy đồ của mình. Đây rõ ràng là phản ứng của người không đạo.

Còn ông Gióp khi dồn dập nhà cửa bị cháy rụi, các vật bị cướp đi, con cháu bị chết hết, bản thân mang chứng phong cùi gớm ghiếc đã biết nói “Xưa Chúa đã ban, nay Chúa lấy lại, xin ngợi khen Chúa”. Ông còn khuyên người khác “Mình biết lãnh nhận những ơn lành của Chúa thì sao không biết chịu đựng những thử thách của Chúa. Đó mới là phản ứng của người có lòng đạo thực.

Thế nhưng không thiếu người cho rằng: sống giữa một xã hội đầy tráo trở mà phản ứng theo tinh thần Tin Mừng thì là khờ dại quá. Xin hỏi lại: Thế thì đạo không có ăn nhập gì với cuộc đời sao? Con người chúng ta phải chia ra làm hai sao: một con người hiền lành lúc ở nhà thờ đọc kinh dự lễ và một con người tráo trở gian manh khi cư xử với người đời sao! Không được, con người chúng ta phải là một ở nhà thờ cũng vậy mà ở giữa chợ đời cũng vậy. Đạo chúng ta là đạo nhập thể vào đời chứ không phải chỉ là đạo ở nhà thờ.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói rằng không phải hễ mang danh nghĩa là người Do thái ngày xưa, hay người Công giáo ngày nay là đương nhiên được ơn cứu rỗi; không phải hễ có rửa tội, hễ có thường xuyên đọc kinh rước lễ là đương nhiên được ơn cứu rỗi. Nhưng ơn cứu rỗi là dành cho bất cứ ai biết sống theo lời Chúa và có những phản ứng hợp với tinh thần Tin Mừng trong mọi tình huống cuộc đời. [Mục Lục]

49. Thiên Chúa của mọi dân tộc

Con người vốn có tính ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, đến gia đình, làng xóm, dân tộc hay quốc gia mình, nên cũng hình dung ra những vị thần thánh ích kỷ không kém.

Mỗi làng có vị thần làng riêng, mỗi quốc gia cũng có thần riêng. Thần của làng nào, của quốc gia nào thì chỉ bênh vực che chở làng ấy, quốc gia ấy mà thôi. Mỗi khi tranh chấp đất đai hay quyền lợi nào khác, người ta kêu cầu vị thần của làng mình hay quốc gia mình ra tay đánh bại kẻ thù và thần linh của chúng. Loài người đánh nhau thì thần thánh cũng phải đánh nhau.

Dân Do Thái cũng không thoát khỏi quan niệm hẹp hòi và sai lầm ấy. Khởi đầu Giavê đối với họ cũng chỉ là thần riêng của họ, cũng như Baal là thần của người Canaan. Phải qua nhiều thời đại, nhiều kinh nghiệm họ mới học cho biết được rằng: Giavê Thiên Chúa không phải là một vị thần trong số các vị thần khác, không phải là một chúa giữa các chúa khác. Trái lại, Ngài là Thiên Chúa độc nhất, ngoài Ngài ra, không có một thần hay một chúa nào khác.

Tất cả các thần các chúa đó chỉ là ngẫu tượng, chỉ là những đồ vật do tay con người làm ra: có mắt có miệng mà không nhìn không nói, có mũi có tai mà không ngửi, không nghe, có tay mà không sờ không mó, có chân mà không bước không đi. Từ cổ họng không thốt lên được một tiếng.

Những ý thức về một Thiên Chúa độc nhất ấy lại khiến người Do Thái đi tới một sai lầm khác vô cùng tai hại: họ nghĩ rằng Thiên Chúa độc nhất ấy là Thiên Chúa của họ, hay nói cách khác, họ độc quyền chiếm giữ Thiên Chúa, bắt Ngài phải về phe với họ, có bổn phận phải che chở và giáng phúc cho họ, và do đó luôn chống lại các dân ngoại.

Để chuẩn bị mạc khải cho dân Do Thái biết Ngài là Thiên Chúa của muôn nước, là Cha của mọi dân và nhất là chuẩn bị cho họ đón nhận Đức Kitô, Đấng cứu độ nhân loại, Thiên Chúa đã phải dùng đến những bài học đôi khi cay đắng, đó là họ đã phải mất nước, đã phải chịu cảnh lưu đày, sống thân phận tôi đòi giữa những kẻ mà họ nghĩ rằng không bao giờ là dân của Chúa. Nhưng cũng chính nhờ đó mà họ mới có được một quan niệm về một Thiên Chúa phổ quát, nghĩa là Thiên Chúa của mọi dân mọi nước.

Tất cả những điều vừa trình bày đã được Đức Kitô thực hiện một cách trọn vẹn. Thực vậy, với cái chết trên thập giá, Ngài đã ký kết một giao ước mới và tụ tập mọi dân mọi nước về cùng Thiên Chúa. Ý tưởng này đã được Ngài diễn tả bằng hình ảnh một tiệc cưới, trong đó những người tham dự không phải chỉ là người Do Thái, mà còn là tất cả những người từ mọi ngả đường trần gian. Tuy nhiên, không phải cứ lãnh nhận bí tích Rửa tội, cứ có tên trong sổ sách của giáo xứ, là chúng ta nghiễm nhiên trở nên thành phần của dân Chúa, điều quan trọng là mỗi người chúng ta phải có một tấm áo cưới, tức là tâm hồn trong sạch, đã tẩy trừ khỏi những vết nhơ tội lỗi, đã ra sức uốn nắn lại những khuyết điểm của mình.

Với một con người mới như thế, chúng ta thực sự là người Kitô hữu thứ thiệt, chứ không phải chỉ là người Kitô hữu thứ dổm, hữu danh vô thực mà thôi. [Mục Lục]

50. Suy niệm của nhóm Đồng Hành

Chi Tiết Hay

(c.22) Lên Giêrusalem, đối với Đức Giêsu có nghĩa là đi để thực thi thánh ý của Cha, mặc dù đó là chịu cực hình và chịu chết. Đức Giêsu cũng dùng dịp này để dạy dỗ các môn đệ cách sống của một Kitô hữu

(c.23)… người được cứu thoát thì ít”. Đức Giêsu khi trả lời câu hỏi này đã chuyển sự chú ý từ con số người được cứu thoát sang việc chú ý vào ai là người sẽ được cứu thoát: những ai biết đi vào qua cửa hẹp

(c.24) “Tranh đấu để vào” nói lên hai điều: thứ nhất là sự cố gắng phải có của những ai muốn được cứu rỗi, thứ hai nói lên sự việc không phải tất cả mọi người sẽ đạt được mục đích này

“Cửa hẹp”. Đức Giêsu cũng chính là cửa (xem Gioan 10:7). Chúng ta được cứu rỗi do chấp nhận bước theo Đức Giêsu mặc dù phải chết cho chính mình.

(c.25) Không phải chỉ có sự chật hẹp của khung cửa vào là chướng ngại phải vượt qua mà thôi, nhưng thời gian cũng là yếu tố quan trọng: “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại” thì không ai, dù là “ít người” (23) hoặc “nhiều người” (25) và ngay cả “anh em” nữa (25) cũng sẽ không vào được.

“Có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không đủ sức” ở đây không phải là sức lực thể lý nhưng là sức mạnh tâm linh để trung thành với ơn gọi làm môn đệ và bước theo Đức Giêsu lên Giêrusalem.

(c.27) Làm môn đệ của Đức Giêsu đòi hỏi nhiều hơn là chỉ biết Ngài và những lời giáo huấn của Ngài, nhưng đòi hỏi ta phải cùng chia sẻ cuộc sống, sứ mạng để cùng chết và cùng phục sinh với Ngài

(c.29) Vương Quốc của Thiên Chúa được ví như một yến tiệc. Những ai không muốn cam kết sống theo giáo huấn của Đức Giêsu sẽ bị để đứng bên ngoàị Nhưng do lòng nhân từ của Thiên Chúa, tất cả mọi người từ đông tây nam bắc nếu chấp nhận, đều được mời gọi.

(c.30) Là người đứng chót hết nghiã là biết chết đi cho chính mình, biết đi qua cửa hẹp mà vào. Đây là điều Đức Giêsu mời gọi những người đứng đầu hãy xuống hàng chót.

Một Điểm Chính

Muốn được cứu rỗi chúng ta cần trở nên những môn đệ trung tín sẵn lòng chết đi cho chính mình và cùng bước theo Đức Giêsu lên Giêrusalem.

Suy Niệm

Để tranh đấu mà qua được cửa hẹp tôi cần thay đổi những gì trong cuộc sống?

Tôi được mời gọi trở nên bé nhỏ trong phương diện nào. [Mục Lục]

51. Phấn đấu qua cửa hẹp vào Nước Trời

  1. LỜI CHÚA: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24).
  2. CÂU CHUYỆN: SỐNG DỄ DÃI SẼ DẪN ĐẾN BẤT HẠNH

Một đôi vợ chồng trẻ kia đều là công nhân trong xí nghiệp may. Họ mới lấy nhau và sống hòa hợp hạnh phúc trong một căn phòng chật hẹp. Họ bàn nhau phải kiếm nhiều tiền để mua một căn nhà khang trang đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng với đồng lương công nhân như hiện nay thì đủ sống được cũng còn là may. Rồi một hôm cô vợ được một người quen giới thiệu làm chiêu đãi viên trong một quán bia ôm. Công việc này được tiền “bo” của khách cao gấp chục lần so với đồng lương công nhân trước đó. Anh chồng vì muốn sớm đổi đời nên đã đồng ý cho vợ đi làm. Anh hy vọng sau một thời gian vài ba năm ăn nhịn để dành, hai vợ chồng sẽ mua được ngôi nhà ưng ý và sẽ cho vợ nghỉ làm. Nhưng sự việc xảy ra lại không đơn giản như họ nghĩ. Từ khi đi bán bia ôm, cô vợ làm ra nhiều tiền và được nhiều người vừa giàu có lại vừa có địa vị theo đuổi tán tỉnh, dần dần đã thay đổi tính nết, trở thành một con người khác hẳn. Cô không còn mặn nồng với người chồng mà cô đánh giá là bất tài, lười biếng và chỉ biết ăn bám vào vợ. Từ suy nghĩ trên, cô hay tỏ ra khinh chồng và ăn nói chua ngoa. Cô cũng thường gắt gỏng và la lối chồng với những lời thô tục khó nghe, khiến anh cảm thấy rất buồn bực. Anh ta chỉ còn biết bầu bạn với rượu bia để giải sầu. Cuộc sống chung của hai người không còn nồng ấm và vui vẻ như trước. Cuối cùng họ đã ra tòa xin ly hôn. Thật đúng như lời Chúa phán: “Con đường rộng rãi là đường dẫn tới hư mất” (Mt 7,13), và người đời cũng có câu “sự thành công không đến một cách ngẫu nhiên, nhưng chính là kết quả của những cố gắng liên tục kèm theo sự kiên nhẫn lâu dài” hoặc “Có công mài sắt có ngày nên kim”.

  1. SUY NIỆM:

Tin mừng hôm nay trình bày về những điều kiện để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa do Đức Giê-su thiết lập là: Phải vào qua cửa hẹp, phải vào kịp thời trước khi cửa đóng, và phải đủ các điều kiện để được vào trong Nước Thiên Chúa.

1) PHẢI BƯỚC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA NGANG QUA CỬA HẸP:

– Đức Giê-su đã tự ví Người là cửa: “Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7). Người đòi những ai muốn vào Nước Thiên Chúa phải bước qua cửa hẹp: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Theo thánh Phao-lô: “Bước qua cửa hẹp” là phải chiến đấu đến cùng, phải đi con đường hẹp của thập giá, phải can đảm chống lại sự cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt, đồng thời luôn làm theo thánh ý Chúa Cha như Chúa Giê-su đã dạy:”Không phải cứ kêu “lạy Chúa, lạy Chúa” mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý cha Ta ở trên trời mới được vào” (Mt 7,21).

– Bước qua cửa hẹp là chọn sống theo các đòi hỏi của Tin Mừng: là đi con đường chật hẹp, leo dốc ít người muốn theo, là đường thập giá mà Đức Giê-su đã xin bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa Cha (x Lc 22,41). Người cũng đòi các môn đệ phải chọn cửa hẹp noi gương Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo (Lc 9,23).

– Bước qua cửa hẹp là phải loại trừ “cái tôi”: Ở đây là chiến đấu với “cái tôi” ích kỷ của mình, cái tôi nặng nề vì những vun quén cá nhân, “cái tôi” phình to ra vì sự tự mãn tự kiêu và tham vọng cao. Thật ra cửa vào sự sống không hẹp bao nhiêu, nhưng đã trở nên hẹp vì “cái tôi” quá to. Cần phải làm cho “cái tôi” ấy nhỏ lại mới được vào Nước Trời (x. Mt 18,3). “Cái tôi” của chúng ta luôn có khuynh hướng phình to do sự thu tích tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, chức vụ cũng có thể làm cho “cái tôi” ấy bị xơ cứng và to ra. Để trở nên như trẻ nhỏ, chúng ta cần phải đươc ơn Chúa dần dần biến đổi nên khiêm nhường tự hạ hơn (x. Mt 18,3-7). Đây là một cuộc chiến đấu với chính mình. Khi huỷ mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp và dễ vào trong Nước Trời. Hãy noi gương khiêm hạ của Gio-an Tiền Sứ khi trả lời các môn đệ về tương quan giữa ông với Đấng Thiên Sai Giê-su: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30).

2) PHẢI NHANH CHÂN BƯỚC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA CHO KỊP THỜI:

Thời gian rất cấp bách, đòi mỗi người phải mau chóng quyết định bước vào Nước Thiên Chúa ngay hôm nay, vì để sang ngày mai sẽ là quá trễ. Phải bắt đầu ngay từ hiện tại, vì mỗi giây phút, mỗi biến cố trong cuộc đời chúng ta đều có giá trị đưa ta vào hay ngăn chặn ta trước cửa Nước Thiên Chúa bị đóng lại. Tránh đừng để “khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại” ta mới đến gõ cửa nài van: “Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!” thì đã quá muộn. Vì bấy giờ chủ sẽ bảo: “Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!” (Lc 13,25).

3) ĐIỀU KIỆN PHẢI CÓ ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯƠC THIÊN CHÚA:

– Phải chiến đấu để vào Nước Trời: Đời sống Ki-tô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục để vượt qua “cái tôi” ích kỷ và phải nhanh chân chiến đấu để vào Nước Trời trước khi quá muộn. Ơn Cứu độ là của Chúa ban cho, nhưng đòi ta phải kiên trì cầu xin và biết giơ tay đón nhận. Ước gì đừng bao giờ chúng ta tự hào vì mình đã biết Chúa, nhưng phải luôn khiêm hạ, đơn sơ như trẻ thơ để Chúa biết và thừa nhận ta trong giờ phán xét khi nói với chúng ta: “Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21).

– “Ta không biết các ngươi”: Nhiều người Do thái đã đến chậm khi cửa Nước Trời đã đóng lại. Họ gõ cửa đòi vào. Họ tưởng mình chắc sẽ có một chỗ nơi bàn tiệc Nước Trời, vì họ đã từng ngồi đồng bàn với Đức Giê-su, đã nhiều lần nghe Người giảng dạy và đã chứng kiến các phép lạ Người làm. Thế nhưng họ đã bị Chúa từ chối: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi những quân làm điều bất chính!” (Lc 13,27). Chúa cũng có thể nói với mỗi người chúng ta như vậy, nếu chúng ta dù có chăm chỉ học hỏi Kinh thánh và cầu nguyện, có siêng năng xưng tội rước lễ, nhưng lại không thực hành theo Lời Chúa dạy, không muốn mở cửa tâm hồn cho Chúa vào làm chủ cuộc đời của ta.

– Sống sứ điệp Tin Mừng hôm nay:

Có khi nào chúng ta nghĩ rằng mình cũng ở trong số những người bị đuổi đi cho khuất mắt Chúa và trong số những quân làm điều bất chính nói trên hay không? Lời chữa mình của người Do-thái cũng có thể là của nhiều ngừơi hôm nay. Vì chúng ta cũng đã từng tham dự thánh lễ và nghe rao giảng lời Chúa, từng là thành viên Hội đồng Mục vụ hay tham gia vào các hội đoàn công giáo tiến hành… Nhưng điều quan trọng Chúa đòi là chúng ta có sống lời Chúa không? Mỗi người cần thực hành lời Chúa hôm nay: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”.

Để bước qua một cánh cửa hẹp, chúng ta phải bỏ lại bên ngoài những đồ đạc cồng kềnh làm nghẽn lối, là thói tham lam tiền bạc của cải, những sự tranh giành địa vị quyền hành, những đam mê lạc thú bất chính, những cuộc nhậu nhẹt thâu đêm thừa mứa, những cuộc bài bạc cá độ có thể gây tán gia bại sản. Đó cũng còn là thói ích kỷ, làm ngơ trước những nỗi đau khổ bất hạnh của người bên cạnh… Vất bỏ những thói hư nói trên thật không dễ dàng, vì đây là một cuộc “chiến đấu” nội tâm trường kỳ và đầy khó khăn. Tuy vậy, chúng ta không được nản lòng, vì xác tín rằng Chúa luôn ban ơn Thánh Thần cho chúng ta và đang chờ để đón chúng ta vào hưởng hạnh phúc đời đời ở phía bên kia cánh cửa cuộc đời là giờ chết của chúng ta.

  1. CÂU HỎI:

1) Cửa hẹp đối với các tín hữu hôm nay là gì?

2) Tôi hiện đang mắc thói hư nào nghiêm trọng nhất?

3) Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì cụ thể để tu sửa thói hư ấy hầu xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Trời đời sau?

  1. NGUYỆN CẦU

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Cửa hẹp ít người muốn bước vào, nhưng Chúa lại chọn đi qua cửa hẹp và đòi chúng con cũng phải qua cửa ấy để vào Nước Trời. Cửa hẹp chúng con phải qua chính là những đau khổ thập giá, là những hy sinh từ bỏ các đam mê lạc thú bất chính… Xin cho chúng con luôn chọn đi con đường hẹp, dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe của Tin Mừng. Ước gì khi dâng lên Chúa những lời cầu nguyện, kèm theo sự hãm mình cùng những đau khổ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, chúng con sẽ cảm nghiệm được niềm vui có Chúa và hy vọng chắc sẽ được Chúa đón nhận vào hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Trời đời sau.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH [Mục Lục]

52. Cửa hẹp – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Thoạt nghe đến từ cửa hẹp người ta nghĩ ngay đến những gian truân, khó khăn, vất vả. Sự liên tưởng này không sai, nhưng nguời ta có thể lầm khi chỉ dán mắt vào độ hẹp của cánh cửa mà quên nhìn thực tại đằng sau nó. Đó là Nước Trời, là Vương quốc của tình yêu, là hạnh phúc vĩnh cửu. Các biến cố lịch sử thường được nhìn nhận cách khách quan và trung thực hơn sau một thời gian cần thiết nào đó. Tương tự như thế, có nhiều sự thật chỉ được biểu lộ hay được nhận biết cách khá chính xác hơn với cái nhìn từ phía sau. Chúng ta cần phải tự hỏi rằng Thiên Chúa ban hạnh phúc vĩnh cửu, vương quốc Nước trời cho những ai? Thật dễ dàng trả lời đó là cho tất cả những tạo vật mà Người dựng nên, các loài hữu hình và vô hình mà trong đó có loài người chúng ta, loài thụ tạo cao cả nhẩt trong các loài hữu hình được tạo dựng.

“You get what you pay” (tiền nào của nấy). Để có được những thiện hảo đời này hẳn nhiên không thể thiếu sự gắng công nỗ lực. Và chắc chắn để có hạnh phúc vĩnh cửu thì sự nỗ lực gắng công càng nhiều hơn gấp bội. Có nhiều cách thế cũng như lãnh vực phải gắng công để đạt hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng trong tất cả những sự gắng công ấy thì việc nỗ lực trở nên “con người” là một nỗ lực nền tảng, không thể thiếu. Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời cho con người thì có thể nói cách không thể sai lầm rằng những ai đích thực là con người thì sẽ được hưởng nhận hạnh phúc ấy.

Theo nhãn quan này thì việc bước qua cửa hẹp chính là những cố gắng để trở nên con người như thuở ban đầu được tạo dựng. Trước khi Ngôi Lời nhập thể, dù được ánh sáng Thiên Chúa soi dẫn qua vũ trụ thiên nhiên và đặc biệt qua tiếng lương tâm, nhưng con người khi tìm cách trở nên chính mình, trở nên con người, thì vẫn một cách nào đó còn mò mẩm như đi trong đêm tối. Các hiền triết cổ đại thường mời gọi đồng loại ưu tiên cho việc “biết mình”. Biết mình là cái biết nền tảng để thành nhân. Đến thời viên mãn với mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa thì chân dung và căn tính “con người” đã được mạc khải cách toàn hảo nơi chính Đức Giêsu Kitô. “Người chính là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” là “Trưởng tử giữa các loài thọ tạo”(x.Col 1,1). Lần giở các trang Tin Mừng, chúng ta cùng xem Chúa Kitô đã trình bày chân dung “Con Người” như thế nào.

Con người được tạo dựng có nam có nữ (x.Mc 10,6): Con người là loài được dựng nên chứ không phải tự mình mà có hay hiện hữu cách ngẫu nhiên. Dữ kiện phái tính cách nào đó khẳng định tính hữu hạn và tính hướng tha của con người. “Người đi một nửa hồn tôi mất. Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”. Nhiều thi nhân ví von cuộc đời như là quá trình tìm kiếm cái phần nửa của bản thân mình. Hội Thánh dạy rằng con người là hữu thể hướng đến tha nhân và hướng về Tuyệt đối. Như thế bước qua cửa hẹp là nỗ lực làm chủ khuynh hướng tìm mình cách vị kỷ cũng như làm chủ sự tự mãn, tự cao cho mình hoàn hảo hay toàn năng.

Con người là loài có thể xác nên có các nhu cầu ăn uống nghỉ ngơi…(x.Mt 11,19). Tuy nhiên con người còn có linh hồn thiêng liêng làm linh động thân xác. Mặc dù có sự góp phần không thể thiếu của thân xác, nhưng chính linh hồn qua các cơ năng luận suy, phán đoán, chọn lựa mới làm nên giá trị tốt, xấu, đúng sai của các hành vi. Vì không phải những gì bên ngoài vào trong con người làm cho con người ra ô uế mà chính những gì bên trong phát xuất ra… (x. Mt 15,11). Bước qua cửa hẹp là nỗ lực thanh luyện linh hồn đồng thời dùng linh hồn để hướng dẫn và làm chủ thân xác.

Lề luật hay ngày Sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người có ra vì ngày Sabbat hay vì lề luật (Mt 12,8; Mc 2,28). Khi sống thành bầy đoàn, loài vật giành giật và duy trì địa vị thống trị của chúng chủ yếu bằng sức mạnh của cơ bắp. Dĩ nhiên khi đã già yếu thì vị trí thống trị của chúng bị đe dọa và đến lúc nào đó bị tước đoạt bởi cá thể khác mạnh hơn. Con người thì nhờ có lý trí đã biết vận dụng lề luật để duy trì quyền uy và sự thống trị của mình. Là sản phẩm do tay con người lập nên, lề luật đã được khách quan hóa thành ý của thần minh, thành ý trời, để một cách có chủ ý phục vụ quyền lợi cho những người làm nên lề luật ấy. Như thế, một cách nào đó con người đã tự phong thần phong thánh cho bản thân. Khi bắt người khác tuyệt đối quy phục lề luật mình làm ra thì mình đã nô lệ hóa tha nhân bằng chính ý chí chủ quan của mình. Bước qua cửa hẹp chính là nỗ lực cởi bỏ những ràng buộc khiến ta và tha nhân trở thành nô lệ cho sản phẩm của con người, để đưa chính mình và tha nhân trở thành những chủ nhân thực sự đối với các thực tại trần thế theo thánh ý Thiên Chúa truyền ngay tự buổi đầu thưở tạo dựng (x.St 1,26; 2,20)

Con Người đến thế gian không phải để được người ta hầu hạ nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x. Mc 10,45). Đến thế gian này, một trong những sứ mạng của Ngôi Hai Thiên Chúa đó là mạc khải cách đủ đầy và hoàn hảo căn tính của con người, vốn là loài được dựng nên, là hình ảnh của Thiên Chúa. Nét khác biệt và sự trỗi vượt của loài người trên các loài thọ tạo hữu hình không chỉ được thể hiện bằng trí khôn, một khả năng giúp con người ngày càng phát triển mọi mặt, mà còn được thể hiện qua ý chí tự do. Các loài vật bậc thấp khi yêu thích sự gì thì bị thôi thúc chiếm hữu nó bằng mọi giá. Trái lại tình yêu nơi con người lên đến đỉnh cao nơi động thái dâng hiến. Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu tự hiến thân vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Bước qua cửa hẹp là gột bỏ những rào cản khiến chúng ta không thể yêu thương tha nhân bằng sự tự hạ mà dâng hiến, bằng sự quên mình để phục vụ như Chúa Kitô đã yêu thương (x. Ga 13,34).

“Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”(Lc 12,32). Thiên Chúa yêu thương trao ban Hạnh Phúc Nước Trời cho con người. Như thế chúng ta có thể nói rằng để được vào Nước Trời, tức là để có được hạnh phúc đích thật thì chúng ta phải là con người. Vào qua cửa hẹp chính là sự nỗ lực gắng công từng ngày gột bỏ những gì khiến chúng ta không còn là con người hoặc làm chân dung con người nơi chúng ta bị biến dạng. Một vài điều cần gột bỏ đó là sự tự cao, tự đại cho mình toàn năng, toàn hảo hay toàn tri; đó là sự vụ lợi ích kỷ; đó cũng là những ý đồ thống trị tha nhân bằng sức mạnh của quyền lực, thế quyền và lẫn thần quyền, bằng các thể chế luật lệ phi nhân, bất hợp lý do chính mình dựng nên để phục vụ cho quyền lợi của bản thân mình, tập thể của mình… [Mục Lục]

53. Cửa hẹp – Lm. Anphong Trần Đức Phương

Chúa Nhật hôm nay chỉ dẫn cho chúng ta con đường sống đạo là con đường khó khăn, phải leo dốc, phải qua “Cửa Hẹp.” Nhưng chúng ta cứ cố gắng và cầu nguyện rồi Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả để tới đích điểm là quê hương thật Nước Trời.

Bài đọc I (Tiên tri Isaia 66:18-21): Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa hứa sẽ hướng dẫn Dân Chúa đi theo đường lối Chúa và quy tụ thành một Dân của Chúa được sống trong một “Trời Mới và Đất Mới.” (Hình ảnh cuộc sống mới, cuộc sống hạnh phúc trên Nước Chúa). Bài Đọc II (Thơ Do Thái 12: 5-7,11-13): Chúa sửa dậy chúng ta qua những đau khổ chúng ta gặp trong suốt cuộc đời; chúng ta hãy vui vẽ chấp nhận mọi khổ đau hằng ngày để được đi theo Chúa; đồng thời cũng nâng đỡ lẫn nhau, cùng vác đỡ gánh nặng cho nhau để cùng bước đi trong cuộc Hành Trình Đức Tin hướng về quê hương thật Nước Trời. Bài Phúc Âm (Luca 13:22-30): Mọi người chúng ta “từ Đông sang Tây” đều được mời dự tiệc “Nước Chúa” nhưng chúng ta phải đi qua “Cửa Hẹp,” đó là sự cố gắng sống đức tin hằng ngày và chấp nhận những Thánh Giá trong cuộc sống.

Ai trong chúng ta cũng thích đi qua cửa rộng thênh thang; ai trong chúng ta cũng thích đi con đường bằng phẳng, chứ không ai thích đi con đường lên dốc. Nhưng Chúa bảo chúng ta muốn vào Nước Chúa ” Hãy qua Cửa Hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn Cửa Hẹp và đường chật thì đưa đến Sự Sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Matthêu 7:13-14).

“Cửa hẹp” để chỉ những khó khăn mà chúng ta phải trải qua, nếu chúng ta muốn theo Chúa đi về cuộc Sống Mới, cuộc sống vĩnh cữu. Có rất nhiều khó khăn mà chúng ta phải chấp nhận để theo Chúa là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống; vì thế Chúa bảo chúng ta “Nước Trời dành cho những ai biết nổ lực!” (Matthêu 11:12) và “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình đi, vác thánh giá hằng ngày mà theo tôi.” (Matthêu 16:24).

Thánh giá đầu tiên chúng ta phải vác là chính thân xác yếu hèn của chúng ta. Thân xác chúng ta luôn đòi hỏi những thỏa mãn nghịch với giới răn Chúa do tính ham danh, ham lợi, ham thú gây ra. Lòng ham hư danh đưa đến những tranh chấp địa vị và gây ra tị hiềm, thù hận. Tính ham mê tiền của sinh ra tham lam, gian lận. Ham mê thỏa mãn các dục vọng thể xác sinh ra những sa ngã đắm đuối. Muốn theo Chúa, chúng ta luôn phải vượt thắng những đòi hỏi đó của xác thịt để chu toàn các giới răn Chúa và sống xứng đáng các tín hữu, những người con tốt lành, thánh thiện của Chúa, như Chúa bảo “Hãy nên Thánh vì Ta là Đấng Thánh.”

Ngày nay trong “thời buổi văn hóa sự chết,” người ta coi thường lề luật sống của Chúa; nhưng chúng ta, các tín hữu của Chúa, chúng ta phải can đảm đi ngược lại: nhất định không phá thai, không chủ trương tự do luyến ái, không chủ trương ly dị, không chấp nhận đồng tình luyến ái, không chấp nhận “nam lấy nam, nữ lấy nữ mà thành vợ chồng.”

Hơn nữa, nhiều khi vì quyết tâm sống theo lề luật Chúa qua sự giảng dạy của Giáo Hội mà chúng ta phải chấp nhận hy sinh: phải mất việc, mất địa vị trong xã hội. Mới đây (Trong tháng 7/2010), Giáo Sư Kenneth Howell tại Đại Học Illinois đã bị đe dọa sa thải vì giảng dạy theo đúng đường lối của Giáo Hội. Đã có những bác sĩ, y tá mất việc vì nhất định không chịu cộng tác vào việc phá thai tại bệnh viện. Nhiều chính trị gia thất cử vì chủ trương bảo vệ giáo huấn của Giáo Hội. Đó là những hy sinh thật lớn lao, những “Cửa Hẹp” mà chúng ta phải đi qua, nếu chúng ta muốn là những tín hữu thật của Chúa.

Chấp nhận những hy sinh đó là chúng ta chấp nhận đi theo “Cửa Hẹp,” là chúng ta muốn sống như những tín hữu của Chúa, những con người luôn tôn trọng sự sống, tôn trọng hạnh phúc gia đình, tôn trọng bản thân và giá trị thật của con người biết sống theo lý trí, chứ không chạy theo những trào lưu hỗn loạn của thời đại (2 Phêrô 3:3-10).

Cả cuộc đời, Mẹ Maria và các Thánh đều đã đi qua “Cửa Hẹp,” đã luôn sống theo thánh ý Chúa, chứ không sống theo thế gian, xác thịt, và ngày nay Mẹ và các Thánh đã được vinh hiễn trên Nước Trời.

Xin Chúa, nhờ lời Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu, giúp chúng ta luôn can đảm sống Đức Tin trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, dù vì thế mà phải hy sinh, nhiều khi phải hy sinh cả mạng sống của mình, như các Thánh tử đạo xưa nay. Xin cùng hiệp lời cầu nguyện chung cho nhau. [Mục Lục]

54. Phải chăng ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ?

(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương)

Ai sẽ được cứu độ và bao nhiêu người được cứu? Đó là câu rất hỏi nóng bỏng thường được đặt ra vào thời Chúa Giêsu và ngay cả ngày hôm nay.

Extra ecclesiam nulla salus?

Đối với những người Do thái, họ quan niệm rằng: Để được cứu độ, phải thuộc về đạo Do thái, nói tiếng Do thái và sống trên đất Do thái.

Ngày xưa, Giáo Hội Công giáo chúng ta cũng có quan niệm rằng: “Extra ecclesiam nulla salus: ngoài giáo hội thì không có ơn cứu độ”(san Cipriano). Quan niệm này đã bị hiểu cách méo mó và cũng đã tồn tại trong Giáo hội rất lâu hàng thế kỷ. Phải chờ đến Công Đồng Vatican II mới cho ta một cái nhìn quân bình và mới mẽ về ơn cứu độ của những người ngoài Giáo hội.

Trong hiến chế Lumen Gentium, Ánh Sáng Muôn Dân, số 16 nói đến những người sau đây dù không thuộc về Giáo hội một cách hữu hình nhưng vẫn hy vọng được cứu độ: trước hết phải kể đến những người tin nhận Thượng Đế và tôn thờ Người như là đấng Tạo Hóa của đời mình, họ là những người Do thái và Hồi giáo. Kế đến là những người vô tình không biết Tin Mừng Đức Kitô và Giáo hội, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và sống theo tiếng lương tâm ngay thẳng, thì có thể được cứu độ. Một cách vô hình họ cũng thuộc về Giáo hội.

Cái nhìn này có nền tảng Kinh thánh và thần học rất vững chắc: Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ (x 1 Tm 2,4). Thiên Chúa có những cách thế riêng để cứu độ họ. Ơn cứu độ của Đức Kitô mang đến không giới hạn bởi khu vực, chủng tộc, quốc gia, nhưng mang tính phổ quát, cho hết mọi người. Đức Kitô chết cho hết mọi người không loại trừ ai.

Và tôi thấy đây cũng là cái nhìn của Lời Chúa hôm nay: ở bài đọc I, tiên tri Isaia loan báo về viễn tượng cánh chung trời mới đất mới của nhân loại, trong ngày đó Thiên Chúa quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ về với Người (x. Is 66,18-21). Và bài Tin mừng cũng xác nhận: “Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa”. Vâng, ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, đó là niềm hy vọng lớn lao cho tất cả chúng ta và cho những ai không thuộc về Giáo hội.

Không phải “bao nhiêu”, nhưng “làm sao” để được cứu rỗi.

Nhưng nói như thế không có nghĩa là ơn cứu độ chỉ tùy thuộc vào Thiên Chúa thôi, nhưng để được cứu độ Thiên Chúa đòi sự cộng tác của con người. Thánh Augustino có một câu nói rất nỗi tiếng: “Để dựng nên con, thì Thiên Chúa không cần đến con, nhưng để cứu độ con, thì Thiên Chúa cần đến con”.

Đức Kitô hôm nay không trả lời bao nhiêu người được cứu, nhưng Người chỉ cho chúng ta làm sao để được cứu độ: “Các ngươi hãy cố gắng vào qua hẹp”. Người đang nói tới sự cộng tác của con người. Đó là nét dễ thương của Thiên Chúa chúng ta, Người không làm hết, không “bao sân” mà Người mời gọi chúng ta cộng tác với Người để cứu độ mình. Nếu Người làm hết thì không còn công trạng của chúng ta nữa.

Muốn thi đậu thì phải ôn luyện kỹ càng. Muốn chơi bóng rổ giỏi thì phải tập luyện mỗi ngày. Muốn tránh cao mỡ và cao máu thì phải kiêng dầu mỡ và muối. Muốn có thân hình đẹp, gầy như sương mai thì phải “diet”. Cũng vậy, muốn vào thiên đàng thì phải làm gì? Phải “diet”, vì phải “qua của hẹp”! Mập thù lù làm sao mà vào được! (just kidding)

“Vào của hẹp” là nói NO với những cám dỗ của những phim ảnh đồi trụy, những cuộc tình trộm vụng, nói NO với những cách kiếm tiền phi đạo đức và nhân bản. Nói NO với những thái độ tự cao tự đại, gây chia sẽ bè phái…

“Vào của hẹp” là nói YES với những giá trị của Tim mừng, sống thật thà và trong sạch, sống bác ái, giúp đỡ tha nhân nhất những người nghèo khổ. Mẹ Terêxa Calcuta nói rằng: “Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên lòng bác ái. Bác ái là thẻ căn cước đích thực cho phép chúng ta bước qua cửa hẹp vào Thiên Đàng”.

“Vào cửa hẹp” là để cho Chúa “quở trách… sửa dạy…và đánh đòn” (Dt 12:5-6) mình khi chúng ta sai lỗi. Chúa thương mới cho “cho roi cho vọt” đó.

Và khi chúng ta nói Yes như thế với Chúa là chúng ta đang đi vào cửa hẹp, cửa dẫn chúng ta tới hạnh phúc, tới ơn cứu độ, tới Thiên Chúa là hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta. Hạnh phúc đó, thiên đàng đó đã bắt đầu từ ngày hôm nay rồi. Amen. [Mục Lục]

55. Cuối con đường hẹp..–Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn

Một lần nữa, thánh sử Luca nhắc đến lộ trình của Chúa Giêsu đang tiến về Giêrusalem cùng với các môn đệ. Hành trình lên Giêrusalem phải chăng là hành trình đi qua cửa hẹp nhưng đồng thời cũng là hành trình mở ra tiệc cánh chung mà ở đó một khi cửa phòng tiệc đã đóng lại, thì không ai có thể bước vào.

Một vấn nạn vẫn thường xảy ra những cuộc tranh luận trong giới chức tôn giáo thời đó về việc vào thời sau hết, ai sẽ là người tham dự vào thế giới mới? Phải chăng là dân tộc Israel hay còn một dân tộc nào khác nữa? Và, phải chăng số người được cứu rỗi sẽ rất ít, mà kẻ hư mất thì lại nhiều? Vấn nạn đó vẫn chưa có lời giải đáp cho đến khi có người đặt ra với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, những người được cứu thì ít, có phải không?”.

Sở dĩ người Dothái hỏi Chúa vấn nạn trên là bởi vì họ vốn cho rằng ơn cứu rỗi chỉ dành cho riêng họ mà thôi. Nay họ chờ mong Chúa xác nhận lại quan điểm đó của họ. Dụng ý của họ ở đây là gì? Chúng ta thấy nếu Chúa Giêsu đồng tình với cách họ quan niệm, vô hình trung, người Dothái sẽ dựa vào đó mà sinh ra kiêu căng, tự mãn vì đã nắm chắc phần rỗi, chả cần cố gắng cho bản thân cũng như cho cộng đồng. Còn những người không phải Dothái thì sao? Chắc một điều họ sẽ sinh ra chán nản, căm ghét tất cả, vì cho rằng có cố gắng cũng vô ích bởi ơn cứu rỗi đâu có dành cho mình. Ngược lại nếu Chúa Giêsu cho rằng ơn cứu rỗi cho một số đông thì chắc chắn sẽ có kẻ tự cho mình đang nằm trong số đông đó, rồi sinh ra căn bệnh ỷ lại, bình chân như vại, chả cần cố gắng tập tành nhân đức gì nữa, vì biết chắc đã có giấy “thông hành” vào nước trời rồi, sợ gì.

Chính vì thế, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi này. Trái lại Người đưa ra một lời cảnh báo cho hết mọi người đừng đoán già đoán non ai sẽ vào hưởng hạnh phúc mai sau, số lượng ít hay nhiều,… mà phải lo cho lợi ích phần rỗi của mình cho xứng đáng bằng cách “chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”.

Cửa hẹp ở đây là gì? Trước hết, cửa hẹp ở đây chính là hành trình lên Giêrusalem của Chúa. Chúng ta biết Chúa Giêsu nhất quyết tiến về Giêrusalem, tức là Người chấp nhận bước vào con đường hẹp- con đường sẽ dẫn Người đến cái chết bi thảm trên thập giá. Con đường hẹp mà Chúa đi cũng là con đường thách đố của lòng tin, tình yêu và nguồn cậy trông; con đường đó đòi hỏi cần phải có sức phấn đấu cao và sự kiên trì thật vững vàng. Sau nữa, con đường hẹp đó còn là một cuộc vận lộn sau cùng, nghĩa là cuộc chiến đấu sau hết trong giờ phút lâm chung- giờ phút quyết định trước khi cửa tiệc cánh chung nước trời khoá lại. Thấy được như thế, chúng ta mới hiểu rõ lời cảnh báo của Chúa Giêsu mang tính cấp thiết trong đời sống hiện tại như thế nào.

Như thế, Chúa Giêsu không hề có chế độ ưu đãi nào trong việc tham dự bàn tiệc Cánh chung. Con đường hẹp và đàng sau đó là phòng tiệc cánh chung không dành cho những ai “hữu danh vô thực”. Tức là không phải cứ mang danh Kytô hữu, là con cháu Apraham thì đương nhiên được chủ nhà Giêsu mở cửa mời vào. Cuối con đường hẹp là căn phòng dự tiệc nước Thiên Chúa chỉ mời đón những ai biết đón nhận giáo huấn của Chúa Giêsu và đem ra thực hành, những con người không ngừng hoán cải, không ngừng cải thiện đời sống mình theo gương Thầy Chí Thánh.

Đường theo Chúa Giêsu không thênh thang dễ đi nhưng là gồ ghề chật hẹp, vì đó là con đường chứng nhân, con đường mời gọi sống các giá trị Tin mừng. Thế nên, đối với những ai yêu mến con đường này, tuy có hẹp nhưng vẫn đủ rộng để mời gọi, để hấp dẫn họ bước vào. Một khi chúng ta chấp nhận bước vào con đường hẹp Tin mừng với một trái tim nồng cháy, chắc chắn cửa nước trời sẽ rộng mở đón chúng ta vào dự tiệc và được chính chủ nhà là Thiên Chúa không ngừng yêu mến và trở nên người phục vụ chúng ta. [Mục Lục]

56. Cửa hẹp – Lm. Vũ Đình Tường

Rộng lớn có cửa biển. Nhỏ hơn nhắc đến cửa sông. Nhỏ hơn nữa là cửa giao thông hào. Cửa gắn liền với cuộc sống con người. Sống nhờ cửa miệng, thác kí cửa mồ. Đi lại, di chuyển có cửa xe. Mạnh khoẻ ra vào cửa nhà; đau ốm đến cửa bệnh viện. Việc đạo thăm cửa thánh đường, ăn chơi viếng cửa phòng trà. Các cửa lớn nhỏ trên chưa phải là cửa hẹp vì trừ cửa mồ ra thì các cửa đều dễ ra vào. Khi người mời ta. Khi ta mời người. Khi mình tự đến, khi được chở đến. Hôm nay Chúa nói đến cửa hẹp. Muốn vào cửa hẹp phải chiến đấu. Cửa hẹp không người canh giữ nhưng muốn vào phải chiến đấu. Chiến đấu có kẻ thắng, người thua. Không phải lúc nào cũng thắng nhưng nếu ngưng chiến đấu sẽ thua suốt đời. Vào qua cửa hẹp là có tất cả, bị loại ra là mất tất cả. Cửa hẹp ban sự sống vì thế ‘có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được’.

CANH CỬA

Cửa có lính canh ngày đêm như cửa nhà tù, cửa trại lính, cửa ngân hàng, cửa khách sạn sang trọng. Cửa có những giờ mời đón mọi người không phân biệt tuổi tác. Hoàn toàn tự do thích thì đến buồn thì đi như cửa nhà chùa, nhà thờ. Cửa có giờ giấc nhất định thông báo giờ mở, giờ đóng như cửa tiệm, văn phòng. Cửa lúc nào cũng then gài, khoá kĩ là cửa nhà, cửa di trú. Những cửa này chưa phải là cửa hẹp, đủ điều kiện là qua lọt. Vào cửa hẹp phải tranh đấu để vào.

LUẬT CỬA

Cửa nào cũng có những luật lệ phải giữ, hướng dẫn phải tuân theo và điều kiện phải hoàn hành. Luật trước khi vào cửa phải gọi điện thoại giữ chỗ như nhà hàng, khách sạn; luật phải theo sau khi vào cửa như đi coi văn nghệ, xem thể thao, đôi khi phải giữ luật ngay cả khi đã về nhà chẳng hạn như làm điều bác sĩ dặn phải thực hành khi xuất viện. Vào cửa tiệm có luật trong tiệm; vào xe có luật trong xe. Nhà hàng có luật nhà hàng; tư gia có luật gia đình. Nói đến cửa là nói đến những điều kiện dán trên cánh cửa hay luật lệ sau cánh cửa đó.

LUẬT CỬA HẸP

Cửa hẹp có những luật buộc phải theo. Tuy là cửa hẹp nhưng luật của cửa này lại không hẹp. Ảnh hưởng của nó lớn lao, bao trùm nhiều lãnh vực trong cuộc sống cá nhân và tha nhân.

Luật cửa hẹp đơn giản, ngắn gọn và thực tế. Vì luật đơn giản nên người ta coi thường. Vì coi thường nên dễ phạm luật. Vì dễ phạm nên luật đơn giản lại khó hoàn thành càng đơn giản càng khó giữ.

Luật ngắn gọn giữ cả đời cũng không xong. Luật ngắn gọn nên dễ nhớ. Nhờ dễ nhớ nên khi phạm luật là nhận ra ngay, biết sai lầm, phạm luật.

Luật cửa hẹp thực tế đến độ nó gắn liền với cuộc sống, khi thức làm việc cũng như khi nghỉ xả hơi và ngay cả khi ngủ. Ở đâu, nói gì làm gì cũng thấy luật thật gần, hữu dụng.

Cửa hẹp rất hẹp nhưng kiểm soát thế nào cũng có sơ sót, lầm lỗi vẫn nhiều, sơ sẩy vẫn lắm. Cửa rất gần nhưng rất khó kiểm soát, canh chừng. Cửa rất gần nhưng tiếng vang lại xa. Cửa hẹp nhưng ảnh hưởng của cửa rộng lớn.

CHIẾN ĐẤU

Muốn vào cửa hẹp phải chiến đấu mà vào, phải cố gắng vận dụng khả năng riêng để vào. Không thể vào cửa hẹp bằng tìm cách luồn lọt, hối lộ, nịnh bợ hay bằng mánh khoé giảo hoạt, tính toán. Phúc Âm nói rõ

‘hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào’.

Phúc Âm không nói rõ chiến đấu với ai, hay chiến đấu với thứ gì để vào được cửa hẹp.

CỬA MIỆNG

Cửa hẹp đây không gì khác hơn chính là cửa miệng con người. Muốn vào cửa hẹp việc đầu tiên cần phải làm là kiểm soát cửa miệng. Rõ ràng cửa miệng không có người canh giữ thì không thể chiến đấu với người khác mà là chiến đấu với chính mình. Thất bại kiểm soát cửa này sẽ đóng các cửa ta muốn vào và bắt ta vào cửa ta không muốn đến.

Như đã phân tích ở trên cửa này hẹp, rất gần với ta nhưng lại cũng rất khó kiểm soát. Không kiểm soát, ăn bậy dẫn đến cửa bệnh viện; hút bậy dẫn đến tàn gia bại sản; uống bậy dẫn đến rượu vào lời ra; nói bậy dẫn đến gây gỗ, cãi vã: nhẹ thì tức giận, nặng thì bè phái, hằn thù. Người ta không thể mánh lới, gian dối, luồn cúi với chính mình. Điều có thể làm được, cần làm là phấn đấu với chính mình. Phúc Âm ghi rõ

‘hãy chiến đấu để qua cửa hẹp’.

Để điều khiển được cuộc sống trước hết phải phấn đấu với chính cửa miệng, kiểm soát cửa miệng, miếng ăn, lời nói. Động lực bên trong thúc đẩy không ai rõ nhưng lời nói ra từ cửa miệng ảnh hưởng đến cuộc sống. Lời nói khôn mang phước lộc, lời nói khờ nhận tiếng cười chê, lời nói dại giết tình bạn, gây tình thù, hiềm khích.

Phương thể duy nhất lọt qua cửa hẹp là phấn đấu, điều khiển cửa khẩu. Chiến đấu với cửa này chính là chiến đấu với chính mình, với cá nhân, bản thân, cá tính, phương cách sống, lề lối suy nghĩ và ngay cả đức tin. Thắng được cửa miệng là thắng được chính mình. Làm chủ được mình đáng hưởng sự sống đời đời. [Mục Lục]