CHÚA NHẬT I MÙA CHAY, NĂM B
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: St 9,8-15; 1Pr 3,18-22; Mc 1,12-15
- Canh tân đời sống
- Cải thiện
- Nơi hoang dã
- Chiến thắng lòng tham – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
- Sự cám dỗ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
- Ba cạm bẫy của ma quỷ
- Cạm bẫy – Thiên Phúc
- Sám hối thì được cứu rỗi – Anmai, CSsR
- Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người
- Đức Giêsu chịu Xatan cám dỗ
- Chay tịnh và cầu nguyện
- Lòng thương cảm sâu xa – Peter Feldmier
- Hàng ngày vào hoang địa
- Thần lành, thần dữ
- Ăn chay – Lm. Vũ Đình Tường
- Chiến đấu!
- Thách đấu – Lm Vũ Đình Tường
- Cám dỗ trong hoang địa – Cố Lm. Hồng Phúc
- Đức Giêsu trong hoang địa.
- Chúa Nhật 1 Mùa Chay
- Cám dỗ
- Suy niệm của Camille Gagnon
- Tầm quan trọng của một phản ứng tốt
- Sống là chiến đấu
- Chúa Nhật I Mùa Chay
- Vào hoang địa – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
- Vào hoang địa
- Chúa Nhật I Mùa Chay
- Hãy sửa đổi đời sống và tin vào Tin Mừng
- Từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa
- Tin là chấp nhận đường thập giá – Noel Quesson
- Nơi hoang địa – ĐGM. Arthur Tonne.
- Những cám dỗ của Mùa Chay
- Cát bụi tuyệt vời – Lm. Nguyễn Hữu An
- Chiến thắng cám dỗ với Chúa Giês
- Cám dỗ
- Hoang địa
- SNLC/128 – Cuộc chiến
- SLCVHV/110 – Dã thú
- CSTM/70 – Cám dỗ
- Đứa con của kẻ vô thần
- Suy niệm của JKN.
- Hãy cải thiện và hãy tin – Lm. Mark Link
- Yếu tố con người
- Chiến thắng cám dỗ
- Ngoại trừ tội lỗi
- Bị cám dỗ bởi việc lành
- Tái tạo cuộc sống
- Câu chuyện hồng thủy
- Chúa Nhật 1 Mùa Chay
- Đức Giêsu chiến thắng satan
- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
- Chú giải của Fiches Dominicales.
- Chú giải của William Barclay
- Hành trình với Đức Giêsu Kitô
- Vào hoang địa với Đức Giêsu
- Chúa Nhật I Mùa Chay
- Trung thành với lời giao ước Phép Rửa
- ** Xin Chúa ở bên con, giúp con sám hối
- Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu
- Món ăn năn: Lễ Tro.
- Biết mình đang đi về đâu
- Cát bụi tuyệt vời
- Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa
- Kiếp người vô thường
- Lịch sử Mùa Chay Thánh
- Xét tật mình
- Tro bụi – Lm Vinh Sơn
- Nhân phẩm là bụi tro
- Bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng
Lần kia, một vị vua đang thả bộ trên những con đường của thành phố thủ đô, thì có một người ăn mày đến và xin nhà vua chút ít tiền. Nhà vua không hề cho anh ta một đồng nào cả. Thay vào đó, nhà vua mời anh ta đến lâu đài thăm viếng ông. Người ăn mày nhận lời mời của nhà vua. Đến ngày hẹn, người ăn mày tìm đường tới cung điện và được gặp nhà vua. nhưng anh ta bỗng nhận ra bộ quần áo rách rưới của mình, và cảm thấy xấu hổ. Đây là một biểu tượng hùng hồn về tình trạng nghèo khổ trong cuộc sống của anh. Vốn là một người đặc biệt, nhà vua đón tiếp anh ta một cách nồng hậu, tỏ lòng thương xót, và ban cho anh ta một bộ quần áo mới, cùng với những thứ khác. Tuy nhiên, vài ngày sau, người ăn mày vẫn lê lết trên đường phố trong bộ quần áo rách nát của mình. Tại sao anh ta lại bỏ bộ quần áo mới? Bởi vì anh biết rằng khi mặc bộ quần áo đó, có nghĩa là anh ta phải sống một cuộc sống mới, phải từ bỏ cuộc sống của một người ăn mày. Nhưng anh chưa được chuẩn bị để làm như vậy. Không phải là cuộc sống mới không hấp dẫn đối với anh ta. Nó rất hấp dẫn. Nhưng chỉ vì anh ta đã quá quen thuộc với lề thói cũ, đến nỗi không thay đổi được.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa sau cuộc đời mình tuỳ thuộc vào những thói quen đã có từ nửa trước cuộc đời. Điều đó sẽ đem lại sự thoải mái cho người nào có những thói quen xấu.
Mùa chay đụng chạm vào một góc cạnh nào đó trong tâm hồn của tất cả chúng ta. Hình ảnh Chúa Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc gây xúc động cho chúng ta. Nhưng cũng bắt chúng ta phải nhìn vào cuộc sống của mình. Mùa chay thách đố chúng ta cải thiện con người mình. Nhưng những nỗ lực của chúng ta trong việc đổi mới thường không đủ sâu xa và kiên nhẫn.
Nếu muốn thay đổi những khía cạnh bên ngoài cuộc sống, thì trước hết, chúng ta phải thay đổi những thái độ tư tưởng bên trong của chúng ta. Sự thay đổi đòi hỏi chúng ta phải lấy những thói quen mới thay thế vào những thói quen cũ. Điều này mời gọi chúng ta phải biết làm chủ bản thân, và tự bắt mình phải thực hiện những gì cần thiết. Thông qua sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng ta có thể hoàn tất được sự thay đổi tâm hồn theo lời mời gọi của mùa chay.
Mặc dù sự thống hối và lời cầu nguyện luôn luôn phù hợp, nhưng những yếu tố đó lại càng đặc biệt phù hợp trong mùa chay. Đây là thời gian của ân sủng. Mùa chay là một cửa ngõ mở ra một cơ hội lớn cho mọi người. Đây là một thời kỳ của sám hối và cố gắng. Nhưng cũng là thời kỳ của niềm vui lớn lao, tương tự như mùa xuân. Trong khi chúng ta nỗ lực tiến tới mùa Phục Sinh, thì mặt trời càng ngày càng tươi sáng và ấm áp hơn.
Nói tóm lại, chúng ta phải quay trở về với sức mạnh của tình yêu. Sống tử tế, hành động theo lẽ phải, và bước đi một cách khiêm tốn cùng với Thiên Chúa. Hãy dẹp bỏ chiếc áo rách của tội lỗi, để mặc lấy tấm áo mới của ân sủng và sự sống. [Mục Lục]
Có một chàng thanh niên, vừa nghiện ma tuý, lại can tội giết người, nên bị kết án chung thân. Đêm kia anh đang nằm trên giường tại phòng giam, thì đột nhiên anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời anh. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Đợi cho người bạn nằm cùng giường ngủ yên, anh mới quỳ xuống cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tỏ bày cùng Chúa những gì chất chứa trong trái tim con. Anh nói với Ngài bằng những lời lẽ đơn sơ mộc mạc tất cả những gì anh muốn, từ những hy vọng đến những thất bại, từ những vui mừng đến những khổ đau. Sau khi anh cầu nguyện xong, người bạn tưởng chừng như đã ngủ buột miệng kêu lên: Amen. Và người bạn nói tiêp: Tôi cũng tin Chúa. Tôi nghĩ rằng Ngài luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài mà thôi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào lời Chúa truyền dạy: Hãy sám hối, nghĩa là hãy cải thiện đời sống, thành tâm thú nhận những gì xấu, không tốt, không đẹp trong đời sống chúng ta, rồi sau đó là từ bỏ chúng, quay lưng lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với những tội lỗi trong đời sống, rồi cương quyết uốn nắn sửa đổi.
Hẳn rằng có những lúc chúng ta cũng đã ý thức về những hỗn loạn xảy ra trong tâm hồn và trong cuộc sống chúng ta. Chẳng hạn về tính ích kỷ, luôn đặt nhu cầu của chúng ta trên quyền lợi của người khác. Chẳng hạn về tính kiêu căng, không muốn nhìn nhận những sai lỗi của mình. Chẳng hạn về sự lười biếng, không muốn giúp đỡ một ai.
Kinh nghiệm cho thấy: Những nhà truyền giáo thành công nhất trong việc làm cho người khác hối cải, đều là những người thực hiện theo đoạn Tin Mừng hôm nay. Họ làm cho người khác nhìn nhận rằng mình chỉ là những kẻ tội lỗi, rồi từ đó giúp họ quay trở về cùng Đức Kitô mà làm lại cuộc đời. Bởi vì nếu không phải là người tội lỗi, thì cần chi đến Đức Kitô.
Từ khởi điểm này, hôm nay chúng ta cùng nhau bước vào mùa Chay, là thời gian đặc biệt Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn sủng và giúp chúng ta cải thiện đời sống. Nếu như mùa Chay trở về, chúng ta biết cố gắng cải thiện đời sống, uốn nắn lấy một thói hư tật xấu mà thôi, thì có lẽ lúc này chúng ta đã trở nên một con người khác, đạo đức hơn, thánh thiện hơn, yêu thương hơn. [Mục Lục]
Có một vở kịch mang tựa đề là nơi hoang dã, kể lại câu chuyện như sau: Chàng thanh niên yêu say đắm cô gái hàng xóm. Thế nhưng cha nàng không ưng vì cuộc sống có phần bê bối của chàng. Ông ra sức dập tắt mối tình của chàng. Thất vọng, chàng đâm ra rượu chè bê bối. Ngày kia, sau khi đã uống rượu, chàng gây lộn và đánh nhau với một người trong quán, nên bị chủ quán tống cổ ra ngoài đường. Cha chàng rất hiểu và cảm thông với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại thế quân bình. Sau khi biết được cô gái hàng xóm cũng yêu chàng, thế là chàng quyết định hối cải và làm lại cuộc đời.
Vở kịch được trình diễn một cách rộng rãi và đã thu hút được nhiều người đến xem vì nó đưa ra một hoàn cảnh chung, vừa nhân bản, lại vừa gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Nó vẽ lên phần nào cảnh hoang dã mà chúng ta đang sống.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Thực vậy, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã vào sa mạc, nơi hoang dã để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ suốt 40 đêm ngày. Theo Kinh Thánh, sa mạc hay nơi hoang dã đã là nơi trú ẩn của thần dữ, của thử thách.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta đang sống trong một nơi hoang dã, một thế giới tràn ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức con người. Có gì hung dữ hoặc xấu xa cho bằng sự tàn bạo của con người thời đại. Giết người không gớm tay. Ngược đãi trẻ em cộng với những hành động gian tham, trộm cướp bất công. Có con thú dữ nào giết hại hằng triệu người mỗi năm? Thế nhưng, việc phá thai của con người thời nay còn vượt hơn con số đó rất nhiều.
Thú dữ mang hình người trong hoang địa của chúng ta đang phá huy không những sự sống thể xác, mà hơn nữa, còn đặc biệt phá huỷ sự sống tinh thần của chính chúng ta và của những người thân yêu. Chẳng hạn như những phim ảnh và sách báo đồi truỵ. Vậy liệu có phương cách nào để kềm chế những kẻ tàn phá thể xác và tâm hồn hay không?
Tôi xin thưa rằng có, đó là phương cách của Chúa Giêsu. Bởi vì chính Ngài đã đến để cứu chữa những gì đã hư đi. Cũng vì thế mà Ngài đã vào hoang địa để chiến thắng sự dữ bằng việc hãm mình và cầu nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng được sự dữ trong thế giới ngày hôm nay.
Đúng thế, chỉ bằng việc cầu nguyện và hy sinh, chúng ta mới có thể thuần hoá được những con thú tiềm ẩn trong cõi lòng chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy cầu nguyện và chấp nhận những hy sinh hãm mình, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ chiến thắng được những cám dỗ suốt dọc cuộc đời chúng ta. [Mục Lục]
Thông thường con người chúng ta thường hay ghen ghét, bất hoà, tranh chấp và có khi giết hại lẫn nhau vì những điều gì?
Thưa, về danh vọng và tiền tài. Ngay trong gia đình cũng có thể bị đảo lộn tất cả những nề nếp gia phong vì danh vọng và đồng tiền. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng, chồng ruồng bỏ vợ, anh em bạn hữu chém giết nhau cũng chỉ vì đồng tiền, bát gạo, và người ta cũng có thể chà đạp nhau, bất kể là thân hay quen, là bạn hữu xa gần chỉ vì một ngai vàng là địa vị, là quyền lực trong xã hội.
Thực vậy, có những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình mà hoá dại. Có những người vì quyền lực mà đánh mất tính người. Nhưng có lẽ, cái cám dỗ lớn nhất của con người qua mọi thời đại chính là đồng tiền, vì có tiền là có tất cả.
Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự, phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ, tình nghĩa thầy trò cũng không bằng ma lực của đồng tiền, như cha ông ta đã từng nói: “Còn tiền còn bạc còn đệ tử – Hết tiền hết gạo hết ông tôi”. Thật vậy, có biết bao kẻ đã bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất để tôn thờ vì thế dân gian mới có câu: “Ông tiền , ông Phật, ông Tiên – Ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn”.
Ngày xưa, có người ở nước Tề thích vàng đến mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi chạy đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:
– Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như thế?
Anh ta trả lời:
– Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa. Trước mặt tôi, chỉ có vàng mà thôi.
Đồng tiền liền khúc ruột nên họ lao mình vào lửa, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, bất chấp mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, miễn sao vơ vét, vun quén về cho đầy túi tham của mình.
Bài phúc âm hôm nay, thánh Marco nói về việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Vậy ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu điều gì? Thưa, ma qủy đã tìm cách lôi kéo Chuá Giêsu quay lưng lại với Chuá Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu, Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Những cám dỗ mà ma qủy tuy đã thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một sự so sánh, tính toán thiệt hơn và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại… Đó là những mối tội đầu đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và những người chung quanh.
Ở khởi đầu mùa chay khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma qủy cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ, của ma qủy luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta luôn phải sám hối và tin vào tình yêu của Chuá. Sám hối để nhận ra sự khiếm khuyết của mình mà cầu xin ơn Chuá bổ túc những thiếu sót của chúng ta. Sám hối để canh tân đời sống sao cho phù hợp với tin mừng của Chuá. Sám hối để chúng ta nhận ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ hoàn thiện con người của mình nên thánh thiện tinh tuyền như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
Lạy Chuá, Chuá đã dựng nên con giống hình ảnh Chuá. Xin cho con biết gìn giữ phẩm giá con người của mình bằng việc tránh xa những thói hư tật xấu, luôn nói không với tội lỗi và luôn giữ lòng trong sạch để xứng đáng nhìn xem Thiên Chuá. Amen. [Mục Lục]
Nhiều người hôm nay không tin ma quỷ, không tin sự cám dỗ của ma quỷ. Họ cho rằng tội là do mình tự ý phạm. Họ tin vào sự ý thức của con người. Họ không nghĩ đến sự yếu đuối của con người là do ngã lòng chiều theo cám dỗ. Chính do sự mất cảnh giác của cám dỗ nên con người dễ mất mắc sai lầm theo chủ quan, dễ hành động theo bản năng mà không hề kiểm soát hành vi của mình. Đó cũng là điều tệ hại dẫn con người đến mất ý thức về tội. Vì lấy mình làm trung tâm nên luôn cho mình là đúng, luôn biện minh cho hành vi sai trái của mình.
Khi con người mất ý thức về tội là lúc ma quỷ chiến thắng. Nó luôn tìm cách chứng minh không hề có sự hiện của nó. Nó chỉ tác động dưới những hình thức đẹp đẽ, tốt lành để hướng con người hành động theo ý mình. Và điều tệ hại là hành động theo ý mình thì luôn sai lầm vì thích chiều theo bản năng, chiều theo sự dễ dãi mà không cần đến lề luật.
Có một nô bộc da đen hộ tống ông chủ da trắng đi săn vịt trời. Anh ta là một ky-tô hữu. Nhân dịp nói chuyện về vấn đề tôn giáo, ông chủ hỏi người ở da đen:
“Ta chẳng hiểu tại sao mày thường xuyên nói đến tội, đến chống trả cám dỗ, nói đến Ma-quỉ. Ta chẳng phải chống trả Ma-quỉ bao giờ, mà ta vẫn sống tịnh, chẳng bao giờ bị quấy phá hoặc tấn công chi cả”
Người ở da đen trả lời lại: “Tôi xin phép được giải thích việc này. Chúng ta đang đi săn vịt. Những con nào bị ông bắn và chết liền khi rơi xuống, thì tôi để yên đó. Nhưng con nào chỉ bị thương khi rơi xuống và tìm cách chạy trốn, thì tôi dùng sào này mà phang cho chết hoặc không nhúc nhích được mới thôi”.
Ông ví như vịt đã bị Ma-quỉ bắn chết rồi, nên nó để yên ông; còn tôi ví như con vịt mới bị thương và đang tìm cách trốn thoát, do đó Ma quỉ đang giơ sào và tìm mọi cách đập tôi cho thật chết mới thôi.
Ma quý cám dỗ là sự thật. Ma quỷ luôn tìm cách cám dỗ con người đi nghịch lại với đường lối Thiên Chúa. Chúa Giê-su cũng từng bị cám dỗ. Ma quỷ đã bủa vây Chúa Giê-su bằng nhiều lời hứa đường mật, nhưng luôn theo một chủ đích là từ bỏ Chúa Cha để hành động theo ý mình. Quả thực, trên đời chẳng có gì cho không. Ai cho chúng ta điều gì thì thường họ cũng muốn đòi lại chúng ta một điều nào đó, huống hồ là ma quỷ, nó sẽ không bao giờ cho không chúng ta.
Năm xưa trong vườn địa đàng ma quỷ đã chiến thắng Adam-Eva, khi hai ông bà quay lưng lại với Thiên Chúa. Ma quỷ cũng chiến thắng dân Chúa chọn trên hành trình đất hứa khi thờ bò vàng để tìm kiếm miếng ăn. Nhưng ma quỷ đã hoàn toàn thất bại trước Con Thiên Chúa làm người. Chúa Giê-su đã nhắc ma quỷ phải tuân phục Thiên Chúa. Ngài cũng nhắc ma quỷ cuộc sống này cái ăn cái mặc đáng quý nhưng thực thi ý Chúa còn quý hơn nữa.
Hôm nay khởi đầu mùa chay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy sám hối. Sám hối vì đã có những lần chúng ta quay lưng lại với Thiên Chúa. Sám hối vì đã có những lần chúng ta chiều theo cám dỗ của ma quỷ mà hành động theo tính xác thịt, thiếu tự chủ bản thân. Sám hối là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có thể chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những yếu đuối của bản thân.
Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng cám dỗ ban ơn sức mạnh để chúng ta vực dậy sau những lần vấp ngã, và canh tân đời sống theo tin mừng. Xin cho chúng ta đừng bao giờ tự phụ về khả năng tự chủ của mình nhưng luôn khiêm tốn trông cậy vào ơn Chúa giúp để nói không với sự xấu, với điều nghịch lại với lề luật của Chúa. Amen. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta nói rằng cư dân miền Bắc Cực có cách bẫy chó sói rất độc đáo. Họ mài những con dao thật bén, rồi đem nhúng dao đó vào máu súc vật cho đến khi lưỡi dao bọc toàn máu. Đêm đến, họ đem dao đó cắm ngoài đồng. Chó sói thính hơi nghe mùi máu, chạy đến liếm lưỡi dao tới tấp. Đến khi chính lưỡi nó bị dao cắt đứt, máu chảy ra, nó vẫn mải mê cắm đầu liếm mà không biết mình đang liếm máu mình cho tới lúc kiệt sức ngã lăn ra chết.
Con sói vì khát máu mà chết. Con người chúng ta đôi khi cũng khát tiền, khát tình, khát danh vọng, quyền lực mà chết. Quả đúng là “mật ngọt chết ruồi”. Danh lợi thú luôn là cạm bẫy của ma quỷ vây bắt linh hồn con người. Con người chúng ta đôi khi cũng vì những hào nhoáng bên ngoài mà vướng vào cạm bẫy của ma quỷ. Con người chúng ta đôi khi cũng đang bị chết dần mòn trong những đam mê cuồng si của mình. Bài phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy sự chọn lựa dứt khoát của Chúa Giê-su trước những cạm bẫy của ma quỷ. Ngài không lập lờ nước đôi. Ngài cũng không tìm thoả hiệp với ma quỷ. Ngài luôn chọn lựa Chúa và ý Chúa Cha để sẵn lòng loại bỏ những gì nghịch với ý định của Thiên Chúa Cha. Ngài đã chiến thắng cám dỗ nhờ tình yêu trung tín với Chúa Cha. Ngài đã tín thác hoàn toàn vào Chúa Cha đến nỗi “lương thực của Ngài chính là thi hành ý muốn Chúa Cha.
Kính thưa, Quý OBACE
Ba cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chiến thắng cũng là ba cám dỗ mà ma qủy vẫn tiếp tục gieo vào tâm hồn con người hôm nay.
Cám dỗ thứ nhất đó chính là của cải và cơm bánh hằng ngày. Cha ông ta vẫn nói:
“Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ mang phần cho ta”
Đó chính là sự công bằng đích thực. Có làm có hửơng. Có những ngày tháng lặn lội ngược xuôi bôn ba nơi chốn chợ hay dầm mưa dãi nắng nơi nương đồng mới có ngày nhàn hạ hưởng dùng hoa trái mình làm nên. Nhiều người đã không ý thức điều đó. Vì thói tham lam và lười biếng họ muốn “ngồi nhà mát ăn bát vàng”. Họ đang tâm làm giầu bằng thủ đoạn, bằng lừa gạt. Họ vì tiền mà đánh mất tình bạn. Họ vì miếng cơm manh áo mà đánh mất lương tri. Họ muốn biến đá thành bánh mà chẳng cần lao động cực nhọc. Lòng tham đã khiến họ quên đi phẩm giá cao đẹp của loài người là hình ảnh của Thiên Chúa, thế nên cần phải tìm kiếm những gì cao siêu hơn là những miếng bánh mau hư nát và cũng chẳng bao giờ thoả mãn lòng tham con người.
Cám dỗ thứ hai chính là tính đòi hỏi người khác phục vụ cho những đam mê sở thích của mình. Đó là lối sống hưởng thụ và thác loạn. Ngày nay người ta vẫn sợ các cậu ấm cô chiêu. Con của những người giầu có và quyền thế. Từ nhỏ đã được cha mẹ cưng phụng, chiều chuộng nên chỉ biết đua đòi, phóng khoáng. Sống ngông cuồng đến độ bất tuân phục lề luật. Sống hành xử theo ý mình, cho dù đó là những trò mạo hiểm gây hại cho bản thân và cho đồng loại như: xì kè, ma túy, mại dâm, đua xe, lạng lách… Đó chính là con đường mà ma qủy đã gieo vào lòng người: “cứ gieo mình xuống đi…. và mọi sự sẽ có các thiên sứ lo liệu…”. Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở họ: “chớ thử thách Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng công thẳng. Mọi việc con người làm hôm nay đều phải trả lẽ trước mặt Chúa trong ngày sau nơi toà phán xét chí công của Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ ba chính là lòng tự mãn, kiêu căng của con người. Ma qủy luôn cám dỗ con người “coi trời bằng vung”. Họ hành động như thể không có Thiên Chúa. Họ sống theo ý mình, tệ hại nhất chính là sự nuông chiều theo những đam mê sở thích của mình. Ma qủy luôn làm cho con người cảm thấy thoả thích trong những vinh hoa phú qúy trần gian. Nó dẫn con người đi trong những đam mê bất chính, những hưởng thụ lầm lạc. Con người vì kiêu căng muốn hưởng thụ tất cả nên dễ dàng bỏ Chúa, bỏ lề luật để tôn thờ những con bò mộng, lợn vàng là danh lợi thú trần gian. Tôn thờ những tạo vật thấp hèn nên con người cũng có những lối hành xử đê tiện và thấp hèn.
Chúa Giêsu Ngài đã chiến thắng ba cám dỗ đó trên nền tảng căn tính của con người. Con người là hình ảnh Thiên Chúa và vượt xa muôn loài thụ tạo nên chẳng có vật gì đáng cho con người phải bán rẻ lương tâm để tôn thờ. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên con người, mới đáng để con người phải cúi mình tôn thờ. Thế nên, chỉ khi con người sống tôn thờ Thiên Chúa, con người mới sống đúng phẩm giá của mình hơn, vì “nhân linh ư vạn vật”. Chỉ khi con người thoát ra khỏi sự ràng buộc khỏi những tham sân si, con người mới sống an bình hơn.
Ước gì Mùa chay sẽ giúp chúng ta tìm lại đúng phẩm gía cao đẹp của chính mình. Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng sự dữ nâng đỡ và giúp chúng ta chiến thắng những cám dỗ đang đeo đuổi và ràng buộc tâm hồn chúng ta. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết thanh luyện chính mình để mỗi ngày nên hoàn thiện như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Amen. [Mục Lục]
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ lông áo da thú.
Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.
Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình đang liếm máu của chính mình.
Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết.
***
Mùa chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa chay cũng là lúc dừng lại, để nhận ra những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác nên đã không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mùa quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc, kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy.
Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan luôn cảnh giác những cạm bẫy như thủy lôi trôi trên giòng đời.
Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ: “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ” (Mc 1,13). Đây không phải là cám dỗ một lần thay cho một đồi, nhưng là cuộc cám dỗ triền miên trọn cả kiếp người. Wendell Philips viết: “Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ”.
Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.
Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng.
Nếu thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt.
Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết: “Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình”. Vì chưng, có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
***
Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. [Mục Lục]
Mở đầu những trang Thánh Kinh, chúng ta thấy trình thuật Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trời đất muôn loài muôn vật. Đỉnh điểm của công trình tạo dựng của Thiên Chúa đó là Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài. Không chỉ dựng nên giống hình ảnh mình mà thôi, Thiên Chúa còn cho con người được ơn, được quyền sử dụng tất cả những tạo vật mà Chúa đã dựng nên ấy. Thiên Chúa một mực yêu thương con người ngay từ những ngày đầu tạo thiên lập địa nhưng con người, con người mãi quay lưng lại với Thiên Chúa.
Cũng ngay những chương đầu của sách Sáng Thế, chúng ta thấy Thiên Chúa ban đầu cảm thấy vui khi tạo dựng con người. Thế nhưng, chẳng được bao lâu, con người cứ mãi hận thù, ganh tỵ, chém giết lẫn nhau như Ca-in đã giết A-ben em mình. Không chỉ có như vậy mà lòng con người cũng bắt đầu thay đổi. Lòng con người không được như trước nữa mà lòng con người đã trở nên chai đá trước tình yêu của Thiên Chúa. Sách Sáng Thế đã ghi lại: “Đức Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. Đức Chúa phán: “Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời, vì Ta hối hận đã làm ra chúng.”(St 6, 5-7)
Giận thì giận mà thương thì thương. Thiên Chúa thấy Nôê là người công chính nên Ngài đã thương và Ngài đã bày tỏ tình thương của Ngài với Nô-ê và gia đình của ông.
Như sách Sáng Thế đã thuật lại, chúng ta thấy Thiên Chúa giận thì có giận đấy nhưng mà Ngài không nỡ bỏ con người. Ngài vẫn chờ đợi sự hoán cải, sự hối lỗi của con người.
Nhìn vào Thiên Chúa và con người, cách hành xử của Thiên Chúa và con người chúng ta thấy rất ư là buồn cười. Con người thì cứ mãi miết đi trong tăm tối, đi trong tội lỗi còn Thiên Chúa thì cứ mãi biểu lộ tình thương, sự tha thứ của mình. Một trong những người cảm nhận được lượng từ bi lân tuất, tình yêu thương hải hà của Thiên Chúa đó chính là vua Đa-vít. Vua Đa-vít hơn một lần đã dâng lời chúc tụng Chúa, chúc tụng về tình thương bao la của Thiên Chúa:
Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
Chúa phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức,
mặc khải cho Mô-sê biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. (Tv 103, 1-13)
Thiên Chúa là Cha hay thương xót, chạnh lòng thương và chờ đợi con người đáp trả.
Trở về với trường hợp của Nô-ê. Thiên Chúa giận, Ngài đã quyết định số phận mọi xác phàm và rồi Ngài bảo Nô-ê chuẩn bị cho quyết định ấy. Nô-ê tin tưởng vào lời của Thiên Chúa và ông đã thực hiện những gì Thiên Chúa bảo ông làm. Nếu như ông không tin tưởng và không kiên nhẫn chờ đợi trong trong 150 ngày thì số phận của ông cũng như những người kia. Thiên Chúa không những cứu sống cho đại gia đình của Nô-ê mà Thiên Chúa còn chúc phúc cho đại gia đình ấy nữa.
Để được sống, được hưởng chúc như ông Nô-ê không đơn giản như chúng ta nghĩ. Phải thật kiên nhẫn, phải thật tin tưởng, phải thật tín thác cuộc đời mình trong tay Chúa. Đâu có đơn giản để sống 150 ngày lênh đênh trên sóng nước? Phải chiến đấu, phải đối diện với biết bao nhiêu gian nan khốn khó của cuộc đời thì gia đình của Nô-ê mới được đi vào trong vinh quang với Thiên Chúa.
Trong thư của mình, Thánh Phêrô nhắc nhở mỗi người chúng ta về ơn cứu độ, về sự phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu. Ngài viết: “Chính Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi – Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương – hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh” (1 Pr 3, 18-19). Đức Kitô muốn vào vinh quang phục sinh với Cha của Ngài, Ngài cũng phải trải qua nhiều đau khổ và nhất là phải đón nhận cái chết và cái chết tủi nhục trên thập giá. Chúng ta thừa biết rằng, cuộc đời của Chúa Giêsu, từ khi sinh ra cho đến khi chịu chết, Ngài phải chấp nhận biết bao nhiêu đau khổ.
Để thi hành sứ vụ rao giảng công khai của mình về Nước Trời, Chúa Giêsu đã phải đối diện với biết bao nhiêu đau khổ, biết bao nhiêu là thử thách.
Để bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã vào hoang địa để chịu sự cám dỗ của ma quỷ. Không đơn giản để vượt qua những cám dỗ đó dẫu đó là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng mang trong mình phận của một con người yếu đuối, mỏng dòn, cũng biết cảm thương, cũng biết giận, biết hờn … Chúa Giêsu cũng có trong mình cảm nghĩ về sự đau khổ, về sự thử thách mà chúng ta đã từng được nghe Thánh Kinh thuật lại. Chúa Giêsu cầu xin với Chúa Cha là cất khỏi Ngài chén đắng mà Chúa Cha trao ban nhưng xin đừng theo ý của Ngài nhưng là theo ý Cha. Với tâm tình đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng quá vất vả, quá khó khăn khi đối diện với ma quỷ, với cám dỗ. Thế nhưng, chung cuộc, kết cục của cơn cám dỗ mà ma quỷ đưa ra đó Chúa đã thắng.
Tại sao Chúa đã thắng được những cơn cám dỗ của ma quỷ? Chúa đã sống kết hợp mật thiết với Cha, Chúa đã cầu xin Chúa Cha ban ơn cho mình và đặc biệt Chúa Giêsu đã hoàn toàn tin tưởng và phó thác cuộc đời mình trong tay của Cha. Hơn một lần chúng ta nghe Chúa Giêsu thỏ thẻ với Cha: “Lạy Cha! Nếu có thể được xin Cha cấy cho con khỏi chén này nhưng xin theo ý Cha chứ đừng theo ý con”. Qua câu thỏ thẻ ấy, chúng ta thấy tâm tình của Chúa Giêsu như thế nào. Chúa Giêsu cũng như mỗi người chúng ta, Ngài phải đón nhận những cơn cám dỗ của cuộc đời nhưng Ngài đã thắng.
Bước vào Mùa Chay Tịnh, chúng ta bước vào hoang địa với Chúa Giêsu để sống thời gian đặc biệt: Thời gian sám hối.
Đừng như một số người suy nghĩ về cuộc đời họ thường nói là “kệ nó! tới đâu thì tới!” hay là “sao cũng được!”. Nếu nghĩ như thế, nếu nói như thế thì chẳng còn gì phải bàn, phải bận tâm nữa. Cuộc đời con người mau qua chóng tàn, nay còn mai mất. Mất và tàn ấy không phải là chuyện của chúng ta mà là của Thiên Chúa. Và nếu như người khôn ngoan thật thì luôn luôn hướng đến ngày mau qua chóng tàn ấy để cân chỉnh cuộc đời của mình cho tốt hơn.
Chúa luôn luôn chờ đợi, Chúa luôn luôn bao dung tha thứ. Phần chúng ta là ăn năn sám hối, sửa đổi cuộc đời.
Mùa Chay là mùa thuận tiện, mùa cơ hội để chúng ta hồi tâm quay về với Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Nguyện xin Chúa là Cha giàu lòng thương xót thương mở rộng vòng tay ra để ôm chầm chúng ta là những con người tội lỗi biết quay về với Chúa. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúng ta đang ở trong Chúa Nhật thứ nhất mùa chay. Giáo Hội giúp chúng ta cảm nhận tình yêu Thiên Chúa với chúng ta qua việc nhìn ngắm Đức Giêsu sống thân phận con người.
- Cám dỗ nơi con người và nơi Đức Giêsu
Đức Giêsu mà cũng bị cám dỗ sao?
Ngài chấp nhận sống với dã thú sao?
Là người, nghĩa là, với thể xác và tinh thần, con người luôn có thể bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về điều này.
Cám dỗ là khuynh chiều đòi thỏa mãn những đòi hỏi của thân xác và của tinh thần, không muốn đáp trả tiếng gọi từ trên. Chẳng hạn người ta nhận thấy nơi mình những đòi hỏi của thân xác về tính dục hay khuynh hướng muốn mình giầu hơn người khác, hoặc những đòi hỏi của tinh thần muốn mình trổi trang hơn người khác…
Khuynh chiều đi tìm và dừng lại nơi danh lợi tiền bạc địa vị, không muốn vươn lên điều tốt hơn nhưng dừng lại ở cái tầm thường, đó là những cám dỗ thường xảy ra trong đời mỗi người.
Muốn trổi trang, không là tội, nhưng còn là điều tốt. Chỉ xấu, chỉ là tội, khi mình coi mình là nhất, đòi mình trên người khác hoặc trên Thiên Chúa, và xúc phạm người khác.
Không ai thoát cám dỗ, nhưng con người tự do trước cám dỗ, con người có thể không thuận theo cám dỗ. “Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. “Ơn Ta đủ cho con” (2Cor.12, 8-9).
Chúa không hứa cho chúng ta khỏi bị cám dỗ, nhưng Chúa hứa sẽ giải phóng chúng ta, nếu chúng ta bám vào Ngài: “cứ xin thì được, tìm sẽ gặp, gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt.7,7).
Thiên Chúa là tinh thần, Ngài mời gọi con người vươn lên Ngài qua những giá trị tinh thần con người thấy được qua lý trí.
- Phép rửa khởi đầu đời sống mới
Dù chúng ta có thuộc về thế gian và ma qủy trong những chọn lựa ở qúa khứ, thì bây giờ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở lại, để chúng ta khởi đầu một đời sống mới, hầu chúng ta sống hạnh phúc.
Đức Giêsu đã chịu phép rửa ở sông Yordan (Mc.1, 9), và Ngài cũng đã chịu một phép rửa rất đặc biệt (Lc.12, 50). Mỗi người chúng ta cũng đã chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu, nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa (Mt.28, 19), chính phép rửa này đã làm chúng ta thành một thụ tạo mới.
Phép rửa đã làm chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa, chúng ta là tạo vật mới, được được Thiên Chúa cứu chuộc qua Đức Giêsu Kitô. Nhận phép rửa nhân danh Đức Giêsu, là dìm mình trong cái chết của Ngài và sống lại trong sự sống của Ngài.
Với phép rửa, Thiên Chúa ghi ấn tín trong tâm hồn chúng ta, dấu chỉ chúng ta thuộc về Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
III. Giao ước biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa
Con người là gì mà Thiên Chúa phải ký kết giao ước với! Chẳng lẽ người nặn bình gốm lại phải ký kết với bình gốm?
Thiên Chúa ký kết giao ước với con người, để không bao giờ tiêu diệt con người nữa! Ôi tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật tuyệt vời biết bao. Những gì Thiên Chúa đã nói, thì Ngài trung thành thực hiện, không bao giờ thất tín. Ngài vẫn trung thành dù con người có bất trung phản bội.
Tình thương của Thiên Chúa đối với con người, được thể hiện trong suốt dòng lịch sử. Lịch sử ghi dấu con người phản bội, nhưng lịch sử lại ghi dấu tình thương nhân từ tha thứ cho con người. Lịch sử, là lịch sử Thiên Chúa cứu độ con người.
Lịch sử đánh dấu những giao ước Thiên Chúa thực hiện đối với con người. Lịch sử cũng cho thấy Thiên Chúa điều khiển dòng lịch sử, can thiệp vào lịch sử dân Do thái để cứu dân, và qua đó cứu độ tất cả loài người.
Biến cố Đức Giêsu Kitô, là biến cố đỉnh cao cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Cũng với chính Đức Giêsu, con người tìm được con đường để nên thánh, con người được bảo đảm mình được yêu thương và sẽ là thánh, được thuộc trọn về Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài bị cám dỗ, Ngài vượt qua, “Ngài là đường, là sự thật và là sự sống”. Ngài là thầy, và không có Ngài, không có ai là thầy đích thực. Nếu có ai trên trần gian này là thầy, là người đó được tham gia “chức thầy” của Đức Giêsu.
Chúa Giêsu là mẫu mực, là thầy dạy của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được theo gương Ngài, được hoàn toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Ngài. [Mục Lục]
Sau khi chịu phép Rửa, Đức Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đi vào hoang địa, ở đó Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ nhưng Ngài đã chiến thắng. Chúa Giêsu đi vào hoang địa là ý muốn của Thiên Chúa, có Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Chúa Giêsu không bao giờ hành động một mình mà luôn có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cùng hiện diện trong hoạt động của Chúa Giêsu.
Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ? Đây là dịp cho chúng ta thấy thêm ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm nhập thể nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu vốn là Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người và tệ hơn nữa là làm một người nghèo cô thế cô thân, không có một ngôi nhà đàng hoàng ấm cúng để sinh ra, rồi lại phải sớm chạy nạn trốn sang Aicập để tránh hoạ sát thân.
Khi hoà nhập vào dòng người tội lỗi đang bước xuống dòng sông Gioa-đan để chịu thanh tẩy mình bởi phép rửa của Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã tự đồng hoá mình với những con người tội lỗi trong thế gian dù Ngài chẳng có tội tình gì.
Hôm nay Chúa Giêsu chịu cám dỗ là Ngài đứng trong thân phận con người để cùng với con người Ngài cũng chịu cám dỗ để đồng thân phận với con người tro bụi, mỏng dòn yếu đuối, dễ thay đổi, dễ sa ngã. Nhưng có một điều khác là con người chúng ta thì dễ sa ngã truớc cám dỗ; còn Chúa Giêsu đã mở môt con đướng mới: đó là Ngài đã chiến thắng cám dỗ nghĩa là chiến thắng ma quỷ.
Ma quỷ vốn là tên cám dỗ đã có mặt trong lịch sử, đã gieo mầm tội lỗi nơi con người và nó vẫn còn họat động mạnh mẽ trong nhân loại nhưng nay tên cám dỗ đã bị Chúa Giêsu đánh gục, và trong tương lai nó vẫn còn tiếp tục thất bại dài dài.
Chiêm ngưỡng hành động của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta hay dâng lên Chúa tâm tình vui mừng và lời cảm tạ vì tình thương lớn lao Chúa đã dành cho nhân loại tội lỗi chúng ta. Trong thân phận con người Chúa Giêsu đã không ngừng đi sâu vào mầu nhiệm nhập thể mỗi ngày một triệt để hơn, để cảm thông, để yêu thương, để mở đường cho con người đi về cùng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chiến thắng tên cám dỗ, bước theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải hạ tên cám dỗ như Thầy của mình.
Ngoài tâm tình tạ ơn, chúng ta còn phải học nơi Chúa bài học chiến thắng những cám dỗ của ma quỷ. Trong đời sống con người, chúng ta phải đối diện với vô vàn những cám dỗ lúc nào cũng vây quanh chúng ta với nhiều hình thúc khác nhau có khi còn rất tinh vi, có khi cám dỗ được nguỵ trang kín đáo bằng một việc xem ra hoàn toàn tốt đẹp kiến chúng ta không thể nhận ra được đó là một cám dỗ của ma quỷ. Những cám dỗ đó có thể là miếng ăn, tấm áo, có thể là danh vọng quyền lực hay là tiền bạc, cũng có thể là một thứ tình cảm nào đó….Cám dỗ thì vô vàn vì đó là việc làm của ma quỷ mà, nó phải ra sức làm việc để lôi kéo con người về phía nó, để những ai nghe theo chúng thì sẽ dần dần xa lìa Thiên Chúa và thuộc trọn quyền của ma quỷ.
Chúng ta phải làm gì đây? Phải đề cao cảnh giác, phải nghe Lời Chúa và Hội Thánh dạy trong Mùa Chay là hãy thường xuyên chay tịnh, hãm mình ép xác, nhìn nhận thân phận mòng giòn yếu đuối, dễ sa ngã, dễ phạm tội của chúng ta; làm thế không phải để mạc cảm nhưng để ý thức rõ về mình để bám chặt vào Chúa hơn. Siêng năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Giải tội và Thánh Thể, làm các việc lành phúc đức, đem Lời Chúa thực hành trong đời sống để múc lấy sức mạnh từ trên cao hầu chiến thắng mưu mô của tên cám dỗ. [Mục Lục]
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Tháng Ba năm 1976, người ta chở Má từ nơi quản thúc tại gia ở Cây Vông đến nhà biệt giam Nha Trang… Má bị đưa vào ở trong một căn phòng giam nhỏ không cửa sổ, ngột ngạt, dưới chân tường chỉ có một lỗ nhỏ để thông hơi. Má thường nằm xuống đất để mũi gần đó và thở. Vài tuần sau Bảy cũng bị bắt đưa vào phòng biệt giam, cách Má bức tường ngăn. Ban đầu hai phòng hoàn toàn cách biệt, nhưng về sau người ta cho đục một cửa sổ nhỏ giữa bức tường ngăn cách, và có lệnh cấm Má và Bảy không được liên lạc với nhau qua nơi này…
Một ngày nọ qua cửa sổ, Má bảo Bảy:“Má và Bảy không biết sống chết ra sao. Má có thể ra đi bất cứ lúc nào! Má xin Bảy cho Má một ân huệ được không?” “Má cứ tự nhiên, con có thể làm gì để giúp Má?” Bảy đáp. “Má muốn tĩnh tâm ba mươi ngày, nhờ Bảy giảng cho Má.” “Má nói sao? con giảng tĩnh tâm cho Má? Con làm gì có đủ khả năng giảng cho Má. Chính Má giảng cho con chứ?” Bảy ngạc nhiên vô cùng và tưởng chừng mình nghe lầm nên hỏi lại. “Bảy cứ làm theo ý Má đi. Vì đây là ân huệ Má xin.” Má ôn tồn và nhỏ nhẹ bảo… “Má nói vậy thì con xin khiêm tốn vâng lời Má.” Bảy đáp lại. Thế là mỗi ngày Bảy giảng cho Má ba bài, bắt đầu từ lúc Chúa Giêsu sinh ra, sống cuộc đời ẩn dật và công khai rao giảng Tin Mừng, đối đáp lại những bắt bẻ của người Do Thái, dạy dỗ, kể dụ ngôn và làm phép lạ, đến lúc bị bắt, chất vấn, sỉ nhục, đánh đập, con đường khổ nạn và chết trên thập giá, rồi vinh hiển sống lại và hiện ra cho các tông đồ nhiều lần, trước khi về trời gởi Thánh Thần xuống. Mỗi bài giảng kéo dài từ hai mươi đến ba mươi phút, sáng trưa chiều. Sau đó Bảy còn kéo thêm được bài thứ tư vào buổi tối trước khi ngủ. Cứ vào những giờ giấc cố định Bảy đến bên cửa sổ, phía bên kia Má đã đứng chực đó từ lúc nào rồi. Má chăm chú lắng nghe các bài giảng, sau mỗi bài Má đều góp ý rồi cả hai cùng hát thánh ca có khi bằng tiếng Việt, hoặc La Tinh và Má dâng lời cầu nguyện kết thúc. Mỗi ngày lúc ba giờ chiều là giờ tử nạn của Chúa Giêsu, Má dâng thánh lễ với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay với mẫu bánh nhỏ được bẻ vụn ra. Bên kia bức tường của phòng giam Bảy cũng làm như thế… Cuộc tĩnh tâm linh thao theo phương pháp thánh Ignatiô Loyola của Má kéo dài đúng một tháng… (Nguyễn Hồng Phúc, Câu chuyện của Má và Bảy)
ĐGM Fx Nguyễn Văn Thuận (Má) đã mời Lm Giuse Nguyễn Quang Thạnh (Bảy) giảng cấm phòng cho ngài, để chuẩn bị cuộc lữ hành gian lao ròng rã 13 năm. Ngài noi gương Thầy Giêsu vào sa mạc 40 ngày đêm, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, chay tịnh cầu nguyện, chuẩn bị đi gieo Tin Mừng.
Hoang địa
Sau khi vào hoang địa 40 ngày đêm chay tịnh, Đức Giêsu vẫn còn luôn ra nơi hoang vắng để cầu nguyện trong suốt thời công khai rao giảng. Hiện nay, trong cuộc sống ồn ào, xô bồ hiếm khi được thực sự hưởng những giây phút im lặng. Có lẽ vì người ta đâm ra sợ hãi sự thinh lặng, tránh né nỗi cô đơn, không dám đối diện chính mình, nên luôn thích sống trong không gian ô nhiễm tiếng ồn. Tuy nhiên tĩnh lặng lại rất cần thiết cho tâm hồn thư giãn, tái lập quân bình. Cũng như một bản nhạc luôn cần có những dấu lặng thiết yếu, để thay đổi, chuyển sang giai điệu, tiết tấu, hòa âm, lời ca, ý nhạc mới.
Trong Thánh Lễ, có những khoảng lặng quan trọng trước kinh Cáo Mình, sau khi nghe Lời Chúa và Hiệp lễ. Đó là những giây phút nhìn lại mình, suy niệm Tin Mừng và tâm tình cùng Thánh Thể. Tất cả sự thinh lặng đó tựa như không gian thông thoáng, tĩnh mịch của hoang địa, bỏ qua, quên đi những vướng mắc, bận tâm đến thân xác, thế gian, cám dỗ phù phiếm, để có thể gần gũi, cầu nguyện, tâm sự với Chúa.
Ngoài ra, ai cũng có thể tận dụng những giây phút trước khi ngủ, hay khi vừa thức dậy để vào hoang mạc tâm hồn. Xét mình, ăn năn, sám hối và tâm tình với Chúa hằng ngày.
Chay tịnh
Theo nghĩa phổ thông, chay tịnh là giữ mình sạch sẽ, thanh khiết qua việc kiêng ăn thịt động vật, chỉ dùng rau quả cùng các sản phẩm thực vật, và nhất là qua việc giữ tâm hồn yên tĩnh, vô ưu, không vương vấn tham, sân si, lục dục, thất tình. Theo Kitô giáo, chay tịnh tuy cũng có sắc thái tương tự, nhưng kèm thêm ý nghĩa tích cực hơn nữa, là hy sinh, hãm mình, ăn năn, sám hối, xả kỷ vị tha, yêu thương và phục vụ tha nhân, hòa giải, bác ái từ thiện.
Chay tịnh là thoát ra khỏi sự chế ngự, kiềm hãm của thân xác, của bản năng, của cái tôi nhỏ mọn, vị kỷ, để hướng thượng, nâng hồn lên với Thiên Chúa, để hướng ngoại với tha nhân. Đó là hành vi bày tỏ lòng khiêm cung, niềm hy vọng và tình yêu trước Thiên Chúa và tha nhân.
Chay tịnh để hướng về Chúa với một thái độ lệ thuộc, phó thác hoàn toàn, trước khi khởi đầu một nhiệm vụ khó khăn, hay nài xin tha thứ tội lỗi đã vấp phạm, để mở lòng đón nhận ánh sáng Thiên Chúa, xin ơn cần thiết hầu hoàn thành sứ vụ.”Đaniel đừng sợ, bởi ngay từ hôm đầu, khi ngươi đem hết lòng tìm hiểu và ăn chay hãm mình trước nhan Thiên Chúa của ngươi, thì Thiên Chúa đã nghe những lời ngươi nói, và chính vì những lời ấy mà ta đến.” (Đn 10, 12)
Cầu nguyện
Khi giữ chay tịnh thật sự thì mới có thể thành tâm cầu nguyện, như Thánh Phêrô khuyên nhủ. “Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện được.” (1Pr 4, 7) Mặc dù đã tràn đầy Chúa Thánh Thần khi vào hoang mạc, Đức Giêsu vẫn siêng năng cầu nguyện sớm tối, hầu nhận được hồng ân, Thánh Ý từ Thiên Chúa Cha.
Người dạy các môn đệ cách thức cầu nguyện khiêm tốn, kín đáo và chân thành. “Khi cầu nguyện hãy vào trong phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.” (Mt 6, 6) Hơn nữa, Người còn ban cho các môn đệ Kinh Lạy Cha, một mẫu mực hoàn chỉnh để cầu nguyện.
“Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con nối liền, kết hợp với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát điện.” (Đường Hy Vọng, số 120)
Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn chúng con vào hoang mạc hằng ngày, qua những phút thinh lặng, cô đơn, để hãm mình, hy sinh và cầu nguyện với Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria, suốt cuộc đời Mẹ là chuyến lữ hành âm thầm, chay tịnh và cầu nguyện, luôn kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu, Con Mẹ, để lắng nghe và thực hành Thánh Ý Chúa. Kính xin Mẹ chỉ dạy, hướng dẫn, giúp đỡ chúng con noi gương Mẹ hy sinh hãm mình và cầu nguyện với Chúa luôn. Amen. [Mục Lục]
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm (1 P3, 19)
Sự thương hại mang dáng dấp giống như lòng thương xót, nhưng thật sự hoàn toàn khác nhau. Nhiều phật tử còn coi sự thương hại như là kẻ thù của lòng xót thương chân thật. Sự thương hại nhìn từ bên ngoài, dễ khiến chúng ta ngộ nhận, dễ bị đồng hòa với những rung cảm sâu tận từ con tim. Sự thương hại xảy ra khi nhìn thấy một người bị đau khổ, nhưng chúng ta chỉ đứng ngoài cuộc để bàng quan nhìn vào những khổ đau đó như một người hoàn toàn xa lạ. Nhiều khi chúng ta còn thốt lên “ Cám ơn Chúa, rất may là tôi không gặp những bất hạnh giống như thế’’.
Nhưng sự thương xót chân thật thì trái ngược lại. Nó đặt nền tảng trên tình yêu chân thành. Nó lôi kéo chúng ta đến với những người đau khổ, đồng hành với họ, cảm thương họ, và chia sẻ với họ về những thống khổ họ đang gánh chịu. Tín hữu phật giáo diễn tả sự thương xót đó bằng thuật ngữ Karuna, có nghĩa là “ Mang chở nơi mình một con tim biết rung động”. Trong Tân ước, chúng ta cũng gặp hạn từ Splanknizomai, nghĩa là “ Cảm thấu đến tận ruột gan” trước nỗi khổ đau của kẻ khác. Sự thương xót mời gọi chúng ta đi vào chiều sâu, biết cảm thông và biết sẻ chia một cách sâu xa trong chính trạng huống thực sự của cuộc sống con người.
Sự đồng cảm đó là một sợi dây vô hình gắn kết con người lại với nhau. Ví dụ khi chúng ta đang gặp đau khổ, tâm hồn bị bầm dập và tan nát, có một ai đó đã quảng đại, sẻ chia và thông sự vào chính đời sống chúng ta một cách cụ thể. Hoặc ngược lại, có bao giờ chúng ta đã trải nghiệm việc đồng cảm và chia sẻ thực sự với những đớn đau của người khác? Làm sao chúng ta có thể xem nỗi khổ của người khác như là nỗi đau của chính mình để thực sự biết thương cảm một cách sâu xa.
Tin mừng hôm nay kể lại biến cố Đức Giêsu lui vào hoang địa và ở đó 40 ngày, trước khi khởi sự sứ vụ rao giảng công khai. Marcô diễn tả sự kiện này chỉ với 2 câu giản đơn “ Thần khí đẩy Ngài vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Ngài.” Nhìn nơi Đức Giêsu, Đấng được Thần khí đưa vào sa mạc, chịu sự tấn công của Satan, và sống giữa loài dã thú, giữa những con vật khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất, chúng ta cảm nhận ra đó là một thân phận rất bi thương trong kiếp người. Cuộc sống của Ngài 40 ngày trong sa mạc đã không còn là cuộc sống của chính Ngài nữa.
Bài đọc hai hôm nay trích trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô tông đồ gửi đến các Kitô hữu mới được lãnh nhận phép rửa. Trong đoạn văn này, thánh nhân diễn tả cái chết của Đức Kitô như là phương cách chuộc tội cho con người, và cơn đại hồng thủy năm xưa là một hình ảnh tiên báo ( bài đọc 1). Trận lụt phác vẽ trước hình ảnh của bí tích rửa tội, và chính qua giếng rửa tội chúng ta được cứu chuộc. Thánh Phêrô còn nói thẳng thừng một điều xem ra rất khó hiểu: Ngài đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm (1P 3,14), tức là những con người trước đây đã phạm tội vì bất tuân phục. Tôi không có ý cắt nghĩa bản văn theo nghĩa đen của từng câu từng chữ, giống như chúng ta vẫn thường tuyên tín trong kinh Tin Kính, “sau khi chết, Người xuống ngục tổ tông đem các thánh lên thiên đàng”, hoặc cũng phản ánh một điều mà Đức Giêsu đã nói trong bài giảng trên núi. Tôi muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Con người Chịu- Đóng-Đinh, Đấng đã đem sự hiện diện cứu độ của Ngài đến những vùng tối tăm nhất của phận kiếp con người. Sheol hay cõi “lâm bô” như được nói đến trong cựu ước, được trình bày như là một thế giới mênh mông ngập trong nước, nơi không còn hy vọng, nơi không có sự sống và không có cả Thiên Chúa. Đức Giêsu đã sẻ chia kinh nghiệm của chính Ngài. Với tình yêu giải thoát, Ngài đã đi vào thế giới con người, xuống tận vực thẳm ngập sâu trong tối tăm của kiếp sống làm người.
Vào Chúa nhật thứ nhất mùa chay, chúng ta được mời gọi để cử hành suốt thời gian này để đi vào sự thương cảm với anh chị em đồng loại. Tức là chúng ta phải tiến sâu vào thân phận con người để nhìn ra những khổ đau, những bầm dập và cay đắng, hầu biết diễn bày lòng thương xót sâu xa, và để con tim chúng ta luôn biết rung động. Ba hình thái theo truyền thống của mùa chay là cầu nguyện, chay tịnh và bố thí sẽ giúp chúng ta bắt đầu mùa chay thật ý nghĩa. Chúng ta cầu nguyện để thông hiệp sâu xa hơn với Đấng đã đem chúng ta vào hiện hữu, và lôi kéo chúng ta đến với tình yêu vô tận của Ngài. Chúng ta thực hành việc chay tịnh để cảm thông với 2 triệu người trên thế giới đang đói, đang khát vì chẳng có cái gì để ăn. Chúng ta giang rộng đôi tay bố thí để giải thoát chúng ta khỏi sự keo kiệt ích kỷ, hầu chúng ta được liên đới chặt chẽ hơn với những người đang cần đến chúng ta.
Mùa chay là thời gian đặc biệt để giúp chúng ta ý thức, đồng thời khơi dậy nơi chúng ta lòng thương cảm sâu xa. Đây là thời kỳ mà Giáo hội gọi mời chúng ta phải tiến sâu hơn, đi vào sự chia sẻ đồng phận trong kiếp người, với những ai đang gặp khổ đau, để với một tình yêu chân thành, chúng ta biết sống chan hòa, và con tim chúng ta biết rung động trước những khổ đau của anh chị em mình. [Mục Lục]
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Hôm nay Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vào hoang địa, nơi tứ bề yên tĩnh, vắng vẻ, hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt, ngày nóng đêm lạnh, môi trường chẳng thân thiện, chỉ có dư giả nắng và gió, cùng thú dữ tình rập đe dọa.
Chúa vẫn thường hay đi ngược dòng đời thực dụng, thay vì mời gọi chúng ta nghỉ dưỡng tại bãi biển nắng ấm, hay lên cao nguyên mát mẻ, lại muốn chúng ta đồng hành với Người đến chỗ khô chồi, cằn cỗi, cùng hứa hẹn bao nguy hiểm bất ngờ. Nhưng đấy lại là yêu cầu chính đáng để chúng ta có thể trở nên môn đệ chân truyền của Người.
Chính trong hoang mạc cô đơn, thoát ra khỏi môi trường quen thuộc, khỏi đám đông xô bồ, con người mới có dịp đối diện với chính bản thân, mới có cơ hội nhìn lại, tự kiểm, xét mình. Đây là giờ phút phản tỉnh, một bước dừng trong cuộc sống hối hả, tất bật mưu sinh, quay cuồng với dục vọng, ham muốn, hay say sưa chức tước bổng lộc, tựa như một dấu lặng trong bản nhạc, để thăng hoa cuộc sống thêm ý nghĩa.
Đồng thời, nơi đây mỗi người còn phải đối mặt với các cuộc chiến trường kỳ và ác liệt, phải chiến đấu với môi trường nghiệt ngã, chiến đấu với bản năng sinh tồn, chiến đấu với cám dỗ xác thịt, chiến đấu với đam mê, dục vọng, do ma quỷ ra sức khêu gợi, dụ giỗ. Dẫu vậy, đây cũng là cơ hội may mắn, nếu thành tâm tìm đến nương tựa bên Người Cha Nhân Lành, để được nâng đỡ, an ủi và chúc phúc.
Tiếc thay, mang tiếng xét mình, nhưng ta lại kiêu căng, tự phụ, cứ nhiệt thành xét tội người khác, đổ vấy bao lỗi lầm, tội lỗi lên đầu thiên hạ, còn mình chẳng thấy có chút tỳ vết gì. Mang tiếng ăn năn sám hối, nhưng lòng ta vẫn tôn thờ cái tôi vĩ đại, cứ mãi manh nha, toan tính dối gian, đắn đo bao lẽ hơn thiệt. Tưởng chừng mau mắn tìm đến Thánh Ý, hóa ra toàn là đi tìm tà ý!..
Từ xa xưa, ngôn sứ Giô en đã tha thiết kêu gọi dân Israel trở về với Chúa, cũng không ngần ngại lật tẩy cái thói đạo đức giả hình: “ Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng! Hãy trở về cùng Đức Chúa, là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Ngài từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương… (Ge 2, 12-13)
Có lẽ chẳng cần đi đâu xa xôi, mà vẫn có thể vào hoang địa. Hằng ngày cứ sốt sắng dành chút thời gian với Chúa Giêsu, ngay trong căn phòng vắng lặng, trước giấc ngủ khuya, hay sáng sớm tinh mơ vừa tỉnh giấc, để kiểm điểm, sám hối và tin vào Tin Mừng. Tiếng Chúa chắc chắn sẽ vang vọng trong tâm hồn, mỗi khi thành tâm chạy đến cùng Ngài.
“Thinh lặng bên ngoài, nhất là thinh lặng bên trong là bầu khí của cuộc sống nội tâm.” (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV, số 86)
“Mỗi ngày dành riêng ít phút thinh lặng để giúp đời nội tâm tiến lên. Lâu nay con để dành mấy phút?” ( ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV, số 98)
Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin dẫn dắt con vào hoang địa, để con biết ăn năm, sám hối, thanh tẩy, hầu nhận biết được Thánh Ý nhiệm mầu trong cuộc sống của con.
Lạy Mẹ chí thánh, xưa kia Mẹ đã đồng hành cùng Chúa trong suốt 33 năm, xin nhắc con hằng ngày vào hoang địa, để con chừa bỏ tội lỗi yếu đuối, mà nhận lấy bao hồng ân Chúa luôn sẵn lòng thương ban. Amen. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Cuộc đời rao giảng nơi trần thế của Đức Kitô cho thấy sự khác biệt rõ ràng giữa thần lành và thần dữ. Thần lành hướng dẫn Đức Kitô vào hoang địa chuẩn bị cho cuộc đời rao giảng công khai. Trái lại thần dữ rình rập tìm cơ hội cám dỗ Đức Kitô nơi hoang địa. Còn một thần nữa Kinh Thánh không nhắc đến đó chính là thần khí của Đức Giêsu. Kinh Thánh dường như không phân biệt sự khác biệt giữa Thần Khí Thiên Chúa và Thần Khí của Đức Kitô nhưng thường dùng chung, hoán đổi cho nhau.
Trong bài giảng đầu tiên nơi hội đường, người ta đưa cho Đức Kitô sách thánh, Ngài mở ra đúng đoạn tiên tri Isaiah nói về Ngài.
Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi (Lc 4,18)
Sách tiên tri Isaiah chương 62,1-2 tiên đoán về cuộc đời rao giảng của Đức Kitô trong đó nhấn mạnh đến việc
Ngài đến để mang Tin Mừng đến cho người nghèo khó, giải thoát kẻ bị giam cầm, cho người mù sáng mắt, giải thoát kẻ bị đoạ đầy và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Sứ mạng của Đức Kitô được hiểu một là ích lợi về phần xác và hai là ích lợi phần tâm linh. Đức Kitô mang thân phận con người như chúng ta nên con tim Ngài cũng có cảm giác như chúng ta cảm nghiệm. Con tim Ngài cũng biết đau khổ, sợ sệt khi đối đầu với thập giá. Con tim Ngài cũng quằn quại, dằn vặt trước bất công của xã hội, đè nén, chèn ép con người dành cho nhau. Con tim Ngài cũng thấm cảnh con người hành hạ con người, mệt mỏi khó khăn của kẻ tìm công việc. Con tim Ngài cũng biết chán nản, biết mệt mỏi khi phải mong chờ. Những lúc như thế Ngài thường tìm nơi thanh vắng tâm sự cùng Chúa Cha. Con tim Ngài cũng rung động khi ban phát tình yêu và vui mừng đón nhận yêu thương và những lúc như thế Ngài trở về hoang địa tâm hồn, tìm nơi thanh tịnh cảm tạ Chúa Cha. Vì thế để hiểu tâm tình của Đức Kitô chúng ta cũng cần có con tim biết cảm thông của Ngài. Để biết được tâm tình của Thiên Chúa Cha chúng ta cần biết tâm tình của Đức Kitô. Để trở thành môn đệ trung tín của Đức Kitô chúng ta cần tìm nơi thanh vắng tâm sự cùng Đức Kitô.
Về phương diện tâm linh Đức Kitô công bố năm hồng ân của Thiên Chúa và kêu gọi con người thống hối và tin vào Tin Mừng Mc 1,15.
Hành trình thống hối gặp khó khăn, chống đối mãnh liệt từ thần dữ vì thống hối chính là từ bỏ đường lối sống của thần dữ để trở thành con cái sự sáng. Thần dữ coi việc từ bỏ này là hành động phản bội lại chúng và chúng sẽ tìm mọi cách để cám dỗ và nếu cần phải tiêu diệt kẻ phản bội chúng sẽ không ngần ngại. Vì thế hành trình thống hối luôn gặp khó khăn, nội chiến trong tâm hồn xảy ra. Bao nhiêu tư tưởng ma quỷ đưa ra khiến ta ngập ngừng, tìm cơ hội kéo dài thời gian quyết định mong ta dùng giằng trước ngã ba hầu mệt mỏi, buông xuôi theo con đường ma quỷ muốn ta đi theo. Quyết tâm đầu tiên trong hành trình thống hối là tiến vào sa mạc, nơi thanh vắng, chỗ không người đề tâm hồn được an nghỉ. Chính nơi đó ta nghe tiếng mời gọi của Thiên Chúa rõ ràng hơn, mạch lạc hơn, trong sáng hơn bởi thế sa mạc tâm hồn là nơi ta tìm được tiếng Thiên Chúa và tình yêu Chúa.
Đức Kitô không cần thống hối, không cần vào sa mạc nhưng Ngài tự nguyện vào sa mạc để chỉ cho con người con đường thống hối, con đường sa mạc. Chính nơi đó Ngài gặp Chúa Cha nhưng vừa bước chân ra khỏi samạc ma quỷ đã chờ sẵn để cám dỗ. Đức Kitô dùng Lời Chúa đáp trả chúng và chúng đã thua. Chúng ta cũng cần học hỏi Lời Chúa để đáp trả ma quỉ khi chúng đến cám dỗ. Thống hối thật cần đi chung với Lời Chúa, không có lời Chúa đi kèm không có thống hối thật sự vì tự chúng ta không đủ sức chống lại cám dỗ của ma quỉ.
Có sự khác biệt giữa thần khi của Đức Giêsu trần thế và thần khi của Đức Kitô Phục Sinh. Thần khi nơi trần thế của Đức Giêsu nhấn mạnh đến con tim yêu thương của Thiên Chúa; Thần Khí của Đức Kitô Phục Sinh nhấn mạnh đến việc làm cho vinh quang Thiên Chúa rạng rỡ hơn. Vì thế khi nhắc đến Đức Kitô Phục Sinh là nhắc đến vinh quang, khải hoàn, chiến thắng và triều thiên vinh hiển nơi thiên quốc. Nhắc đến thần khí Đức Giêsu trần thế là nhắc đến tâm tình yêu thương, tha thứ và bác ái, từ bi, nhẫn nại. [Mục Lục]
Có người ăn chay nhưng không hãm mình.
Có người hãm mình nhưng không ăn chay.
Có người vừa ăn chay vừa hãm mình.
Có người không chay cũng chẳng hãm.
Ăn chay và hãm mình thuộc về tâm hồn, nội tâm. Thực tâm đến mức nào chỉ mình mình biết, mình mình hay. Ăn chay hãm mình thật phải là việc làm tự nguyện, thành tâm và làm với lòng mến. Ăn chay thực cần đi đôi với hãm mình. Thiếu hãm mình không thể nào là ăn chay vì bản chất của chay tịnh là tự chế, tự chủ. Tuy nhiên không phải tất cả các tự chế, tự chủ đều là ăn chay. Do vậy người ta có thể hãm mình nhưng không cần ăn chay. Ăn chay thiếu hãm mình là ngoài mặt ăn chay nhưng tâm nghĩ mặn.
Nói đến ăn chay chúng ta nghĩ đến việc kiêng ăn, kiêng uống. Sự việc không đơn giản thế. Ăn chay là việc làm tự nguyện, tự chủ và làm với lòng yêu mến Thiên Chúa. Điều răn quan trọng nhất Chúa Giêsu dậy là: Mến Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình. Toàn thể con người từ trong ra ngoài đều thể hiện lòng mến và việc làm đi đôi với yêu tha nhân. Ngoài việc kiêng ăn, bớt uống và hạn chế hút sách chúng ta cần kềm hãm các giác quan khác trong con người.
Hãm mắt nhìn sự việc xấu.
Hãm tai nghe điều tệ hại.
Hãm miệng nói điều chua ngoa, gian xảo.
Hãm chân đi đến những nơi tồi bại.
Hãm tay làm những việc bất công.
Hãm óc nghĩ đến những tư tưởng gian tà.
Hãm cảm nhận những cảm xúc bất chính.
Hãm chiều theo đòi hỏi của thân xác.
Hãm không cho cái tôi làm chủ.
Ăn chay chính là làm chủ con người anh em. Mọi tư tưởng lời nói, việc làm và ngay cả cảm xúc đều bị kềm hãm. Trước đây anh em nghe theo chúng giờ đây bắt chúng phải lắng nghe lời anh em. Chúng phải làm theo mệnh lệnh của anh em. Chúng phải là công cụ phục vụ anh em để điều răn Chúa dậy được thể hiện trong cuộc sống của anh em đó là mến Chúa và yêu tha nhân.
Như thế ăn chay có giới hạn nhưng hãm mình thì vô hạn vì lúc nào con người cũng cần làm chủ đời mình. [Mục Lục]
Sống là một cuộc chiến đấu trường kỳ và cam go. Và cuộc chiến đấu cam go nhất của con người là cuộc chiến đấu đối với bản thân mình. Kẻ thù không ở đâu xa, kẻ thù đó đang ấn núp ngay trong bản thân mình. Bởi vậy, khi làm người, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi nguyên lý này. Ngài đã chiến đấu quyết liệt và chiến thắng vẻ vang.
Khởi đầu Chúa nhật thứ nhất mùa Chay, hôm nay, thánh sử Macco trình bày việc Chúa Giêsu đã chiến đấu với sự dữ. Cuộc chiến đấu này không mấy dễ dàng. Tuy nhiên, Ngài đã can đảm chiến đấu và đã chiến thắng. Bởi lẽ, mang thân phận con người, Chúa Giêsu không tránh khỏi cám dỗ của ma quỷ, của sự dữ. Macco trình bày một bức tranh thời Tân Ước có đôi nét giống thời Cựu Ước. Trong bức tranh đó, nhân vật nổi bật là chính Chúa Giêsu, Ngài được ví như Ađam mới, khác xa Ađam cũ. Ađam xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo xúi giục của ma quỷ đội lốt con rắn, đã bất tuân không vâng lệnh Thiên Chúa, vì không muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa, chối bỏ tình thương Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo theo hậu quả thảm hại muôn đời cho con cháu loài người. Bên cạnh đó, dân Do Thái đi trong Samạc bốn mươi năm cũng đã sa ngã. Đó là thời gian thử thách lâu dài đối với họ. Họ cũng đã sa ngã trước thử thách, bao lần phản loạn, chống đối Môisen, kêu trách Thiên Chúa; bao lần họ bị cám dỗ muốn trở lại Ai Cập làm kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa. Tất cả đã sa ngã trước thử thách.
Ngược lại, còn Chúa Giêsu khi khởi đầu bước vào đời sống công khai, Ngài được Chúa Thánh Thần đưa vào Samạc để chịu thử thách. Sống trong sa mạc bốn mươi đêm ngày, Chúa Giêsu đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép và danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu đã dùng Lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối cùng ma quỷ phải rút lui. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng chính là Lời Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Phần chúng ta, là những người Công Giáo, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Chúa Giêsu nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và để Lời Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến thắng của Chúa Giêsu đã cho chúng ta bài học kinh nghiệm là con người chúng ta có thể chiến thắng các thế lực sự dữ và các cám dỗ của ma quỷ nếu chúng ta một lòng biết cậy dựa vào sức mạnh chủa Thiên Chúa. Bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận thách thức Thiên Chúa, nhưng ngược lại chúng ta hoàn toàn vâng phục sống theo thánh ý Chúa quan phòng an bày cho cuộc đời của mình. Chúng ta cũng không nên sống đạo Công Giáo, theo đạo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh tầm thường hằng ngày, hay chỉ vì lợi lộc vật chất, theo kiểu theo đạo được vợ, theo đạo được đất, được ruộng… Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa và Giáo Hội lo phục vụ chúng ta, phục vụ theo ý muốn ích kỷ của chúng ta. Chúng ta cũng không coi Thiên Chúa như những tên phù thuỷ chuyên làm phép lạ làm những việc phi thường, hay những nhà ảo thuật đại tài biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng không coi trọng danh dự, uy quyền, thế giá; không luồn cúi ma quỷ, sự dữ, tiền của để được làm Chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ Tể vũ trụ, là Chúa của muôn loài, là Chúa của lòng ta.
Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay giúp chúng ta hãy đi vào cõi lòng mình, nơi đó chúng ta sẽ nhận ra nhiều thứ xấu xa của kiếp người, đủ thứ cám dỗ của ma quỷ, đủ thứ mời mọc hấp dẫn của sự dữ. Chúng ta hãy để Lời Chúa soi dẫn chúng ta. Lời Chúa sẽ giúp chúng ta phân định việc tốt xấu, việc từ bỏ và những việc nên làm. Lời Chúa là sức mạnh giúp chúng ta can đảm đứng về phía Thiên Chúa, khước từ sự cám dỗ của ma quỷ và sự dữ. Lời Chúa giúp chúng ta nhận ra chân lý, Sự Thật và Tình yêu để chúng ta bước di. Lời Chúa giúp cho chúng ta dám sống cho những đòi hỏi của Tin mừng, dám sống cho anh chị em tha nhân. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn Chúa là lý tưởng và lẽ sống cho cuộc đời mình. Chúng ta chọn Chúa là sức mạnh để can đảm chiến đấu chống trả lội lỗi, các thế lực sự dữ và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Ngoài ra, thử thách còn là để thanh luyện tâm hồn mình. Chúng ta hãy tiếp tục dùng Mùa chay mà Giáo Hội mời gọi để trở về với lòng mình, sám hối và quyết tâm can đảm đứng về phía Thiên Chúa. Ước mong Mùa Chay này sẽ giúp cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, trở về với Thiên Chúa, sống lại mối tình mà Thiên Chúa yêu thương dành cho chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng biết mạnh dạn đến với anh em để sống yêu thương và phục vụ họ.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài là chủ của chúng con. Xin cho chúng con biết khiêm tốn chấp nhận giới hạn của mình để chúng con biết cậy dựa vào sức mạnh của Chúa trong cuộc chiến đấu với ba thù là thế gian, ma quỷ và xác thịt yếu đuối của chúng con. Xin Chúa trở thành sức mạnh duy nhất của niềm tin đang hướng về Chúa của chúng con để chúng con luôn chiến đấu và chiến thắng như Chúa Giêsu yêu mến của chúng con. Amen. [Mục Lục]
Thách đấu là một hình thức khiêu chiến. Một bên muốn đánh, bên kia muốn hoà. Để diễn tả một cách ôn hoà, văn vẻ hơn chính là câu nói,
Cây muốn lặng nhưng gió chẳng ngừng.
Kẻ thách đấu thường là kẻ hiếu chiến. Vì hiếu chiến nên mới thách thức, thích bạo động. Hiếu chiến đến từ tính kiêu ngạo. Tự cho mình hơn người. Tự nhận tài giỏi và tự tin là sẽ chiến thắng vinh quang.
Trong tu đức thách đấu luôn khởi nguồn từ ma quỉ vì bản chất hiếu chiến, hung hăng, thích bạo động của chúng. Đó là những hình thức khác nhau của các cơn cám dỗ, chước cám dỗ phát sinh bởi bản tính tính kiêu ngạo của ma quỉ. Bản chất của chúng là tự kiêu, cao ngạo, kiêu căng nên không từ cơ hội nào, không chừa ai, lớn bé, già trẻ chúng đều trêu ghẹo tìm cách cám dỗ.
Ma quỉ cám dỗ con người dưới nhiều hình thức, đa dạng. Chúng không thách thức con người một cách vô í thức mà có chủ trương, thủ đoạn của từng lần cám dỗ. Thủ đoạn của chúng là nghiên cứu con người đó mạnh yếu phần nào. Đâu là yếu điểm, đâu là nhược điểm của con người đó. Chúng lợi dụng cả người thân, bạn đường, người ta tin tưởng, tình bạn để lung lạc mong đạt cơn cám dỗ. Rất nhiều trường hợp lạc đường, sai lối do bạn bè quyến rũ, rủ rê, dẫn vào cuộc đời ăn chơi trác táng, sa đọa. Không phải người đó cố tình gây tai ương cho mình mà chính là động lực ngầm của ma quỉ thúc đẩy, bày mưu, gài bẫy.
Yếu điểm chính là các điểm trọng yếu của người đó. Bởi là điểm trọng yếu nên ma quỉ thường tránh không muốn đụng chạm đến. Chúng không ngu dại gì húc đầu vào tường đá, bể sọ chết. Như thế ma quỉ thường tấn công, triệt để, khai thác nhược điểm của người đó bởi vì nhược điểm là điểm dễ tấn công và kết quả thành công cao hơn nhiều. Như thế ma quỉ vừa kiêu ngạo, vừa ranh mãnh. Chúng lại có nhiều thời gian và cơ hội để tấn công một người. Vì thế ta không lấy làm lạ một người trước đây đạo đức, sau này gặp lại, lại trở thành sa đọa. Từ tình trạng đạo đức, tốt lành, thánh thiện biến sang tình trạng khô khan, nguội lạnh, biếng nhác.
Trái lại cũng nhiều trường hợp trước đây coi thường đạo nghĩa, sống buông thả. Một thời gian sau thay đổi biến thành đạo đức sốt sắng, tốt lành. Tình trạng này có được vì người đó may mắn sau những lần thua các cơn cám dỗ nhận biết nhược điểm của mình. Khiêm nhường nhận biết mình tài hèn, sức mọn không đồng nghĩa với nhu nhược mà là hiểu rõ con người mình hơn. Biết mình, biết người là bước đầu của thành công. Bởi biết mình yếu đuối nên không tự cậy sức riêng mà phó thác trong tay Chúa, phó dâng cuộc đời cho Chúa và cậy trông vào sức mạnh của lời cầu nguyện và ân sủng của các bí tích thánh, giúp họ sống trên con đường lành thánh. Một cách để nhận biết ta thuộc về Chúa hay thuộc về ma quỉ chính là nhìn vào các cơn cám dỗ. Từ chối cám dỗ là dấu hiệu cho biết ta còn thuộc về Chúa. Sa chước cám dỗ là dấu chỉ cho thấy ta đang bị ma quỉ cầm giữ, trói buộc.
Phúc âm thánh Marcô hôm nay cho biết không ai tránh khỏi chước cám dỗ. Kẻ chiến thắng chước cám dỗ là kẻ biết tự lượng sức mình. Lượng sức bằng cách vừa chống lại chước cám dỗ vừa dựa vào sức mạnh Lời Chúa tăng sức. Như thế sau mỗi chiến thắng chước cám dỗ người đó luôn sống trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì nhờ sức mạnh Lời Chúa mà có được chiến thắng, tránh khỏi sa chước cám dỗ. Đây là một kinh nghiệm quí báu cho các Kitô hữu tin cậy vào Chúa. Bài học quí trọng này cho biết sức mạnh của ta đến từ Chúa. Ta tự tin lần cám dỗ kế tiếp ta cũng sẽ chiến thắng vì có sức mạnh Lời Chúa hỗ trợ. Kinh nghiệm sống đạo này một ngày một giầu mạnh và gắn bó ta mật thiết hơn với Chúa. Điều này rất cần vì ma quỉ không dễ đầu hàng, từ bỏ cám dỗ. Thua keo này chúng rình rập, tìm cơ hội bày keo kế tiếp. Thua nữa, chúng lại bày kế khác vì bản tính hung hăng kiêu ngạo trong chúng luôn thúc đẩy chúng tấn công ta. Càng thua, chúng càng bực dọc, càng trở nên hung bạo đến điên cuồng. Cơn cám dỗ, lời thách đấu của kẻ điên nằm ngoài giải thích hợp lí, lí lẽ bình thường. Kinh nghiệm bị cám dỗ thường xuyên cho biết ma quỉ đang thua đặm, càng thua chúng càng hung hăng. Chúng càng hung hăng ta càng cần trông cậy vào Chúa nhiều hơn.
Các thánh khi còn sống tại thế cầu nguyện hàng ngày, cầu nguyện liên tục là vì các ngài luôn phải tranh đấu, triền miên chống lại các cơn cám dỗ.
Sống thánh thiện chính là gắn bó đời ta với Lời Chúa. Chúng ta xin ơn biết lắng nghe Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi, mọi lúc. [Mục Lục]
Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Tất cả lời Chúa hôm nay gồm tóm trong câu Chúa tuyên bố trong bài Phúc âm: “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
Trước hết, thời giờ đã mãn, Nước Trời sắp đến. Mùa Chay là mùa hy vọng, mùa tình thương. Thánh Phaolô, trong Thư gửi Giáo đoàn Roma, đã nói lên một câu khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng: “Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa đã dồn mọi người hết thảy vào đàng bất tuân (tội lỗi), ngõ hầu Người dủ lòng thương hết mọi người” (Rom 11, 32).
Thánh Phêrô, trong bài đọc hôm nay có tính cách như một bài giáo huấn cho tân tòng sắp chịu phép rửa tội, cũng nói lên ơn cứu chuộc tràn đầy rằng: “Chúa Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta… thay cho chúng ta là kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa.” Ám chỉ phép rửa tội, Thánh Tông đồ nhắc lại sự tích ông Noe xưa, vâng lời Chúa đóng một chiếc tàu giữa tiếng bàn tán, dị nghị, chế riễu, nhưng nhờ đó mà gia đình ông được cứu sống. Thì ngày nay, nhờ phép rửa tội chúng ta cũng được cứu thoát, nhờ công nghiệp Chúa Kitô phục sinh. Ngài đã thắng sự chết và tội lỗi để ban cho chúng ta sự sống của chính Thiên Chúa. Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa cũng tràn đầy.
Trong ba tường thuật của Phúc Âm nhất lãm về việc Chúa bị ma quỉ cám dỗ, Phúc Âm của Marcô ngắn gọn và chỉ có ý đưa dẫn đến sứ vụ Tông đồ của Chúa. Ngài chỉ viết: “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu sata cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài”.
Hoang địa hay sa mạc là chốn thinh không, là nơi không có tiếng nói ngoài tiếng gió vi vu hay tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng nói và có nhiều thứ tiếng nói sẽ vọng lên. Tiếng nói của chính lương tâm mình, tiếng nói của dĩ vãng, của một đoạn đời đã qua, một khoảng đời sắp tới. Nhất là tiếng nói của Chúa, vì “Người thích nói trong im lặng”. Vì thế, ngày xưa bao nhiêu vị Thánh đã vào trong hoang địa Thebes bên Ai cập để sống đời khổ tu, hoặc như Thánh Hiêrônimô xa lánh sự ồn ào thành phố Lamã để vào trong sa mạc gần Nagiarét suy niệm Thánh Kinh.
Nhưng hoang địa cũng là nơi thần bí, như lời Chúa phán: “Khi tà thần ra khỏi người nào, thì nó đi dong dài những nơi khô cháy tìm chỗ nghỉ ngơi…”. Trong chốn thinh không im lặng, ma quỉ thường hay hoạt động, quấy phá. Ma quỉ đã hiện ra nhiều lần dưới nhiều hình quái ghê sợ để buộc Thánh Antôn bỏ cuộc nhưng ngài đã xua đuổi và trở nên tổ phụ đời sống tu trì. Về đêm, trong im lặng, ma quỉ quấy phá Thánh Vianney trong 35 năm.
Sở dĩ như vậy vì trước đây, Marcô nói, “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó bốn mươi đêm ngày, chịu satan cám dỗ”. Vị Thánh Sử không nói đến diễn tiến của cuộc cám dỗ nhưng chúng ta cũng hiểu được qua các cuộc đương đầu với ma quỉ trong khi Ngài ra giảng đạo. Marcô còn thêm một chi tiết: Ngài sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài. Phải chăng Marcô muốn ám chỉ quang cảnh an bình mà Chúa Giêsu, vị Adam mới, đã sống. Ngài đã toàn thắng con rắn hoả ngục dữ tợn muốn cám dỗ Ngài bỏ cuộc, và mở cửa trời cho chúng ta vào hưởng hạnh phúc với các Thiên Thần.
Sau cùng, lời rao giảng của Chúa Giêsu gồm tóm trong hai điểm: Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Ta phải ăn năn sám hối tội lỗi. Đó là phần tiêu cực của mọi cuộc trở lại. Nhưng không phải chỉ có thế, có biết bao nhiêu đạo giáo còn đòi hỏi sự hảm mình phạt xác hơn chúng ta. Nhưng điều tích cực là TIN vào Chúa Kitô, chỉ có Chúa mới có thể cứu vãn chúng ta. Đức tin và sám hối là hai yếu tố của mọi cuộc trở lại.
Charles de Foucaul đến gặp một vị linh mục quen là cha Huvelin và tâm sự: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi như mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người về từ sa mạc đó và nói: Anh hãy quì xuống xưng tội đi đã. Foucauld đã vâng lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, đời của vị sĩ quan ấy đã hoàn toàn đổi mới. “Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì Người”.
“Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng.” [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,12-15) gồm hai phần: Đức Giêsu ở trong hoang địa (cc.12-13) và Đức Giêsu khai mạc công việc rao giảng (cc.14-15). Vì chúng ta mới suy niệm cc.14-15 trong Chúa Nhật III Thường Niên, nên hôm nay, bài suy niệm này sẽ chỉ tập trung vào phần nói về sự kiện Đức Giêsu ở trong hoang địa. Và những gì sắp được trình bày trong bài suy niệm này sẽ chỉ là một trong những cách hiểu có thể có về sự kiện ấy theo cách diễn tả của tác giả Mc.
Câu chuyện xảy ra ngay sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (cc.12-13).
Thần Khí, sức mạnh của Thiên Chúa, “đẩy” Đức Giêsu vào hoang địa. “Đẩy” ở đây là một ẩn dụ chỉ sự thúc đẩy thần linh mà Đức Giêsu trải nghiệm; đó là sự thúc đẩy bên trong, mạnh mẽ, không thể cưỡng lại được. Sức mạnh của Thần Khí tràn ngập nơi Đức Giêsu và đặt Người, một cách chắc chắn, vào trong “hoang địa”. Và vì là tác động thần linh của chính Thiên Chúa, sự thúc đẩy và đặt để đó hẳn nhiên sẽ phù hợp với chương trình của Thiên Chúa về Đức Giêsu. Chương trình đó đã từng được tác giả Mc trình bày ngay từ những dòng đầu tiên của cuốn sách như một con đường (1,2). “Hoang địa” mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào, vì thế, là nơi chốn mà ở đó Người phải thực hiện cuộc hành trình của Người.
Về bản chất, hoang địa này khác hẳn hoang địa của ông Gioan Tẩy Giả. Trong trường hợp của ông Gioan, đó là một nơi chốn địa dư, gần sông Giorđan, không dân cư và tách biệt hẳn xã hội con người; nhưng khi ông Gioan ở đó thì xảy đến hàng loạt những hoạt động do sự xuất hiện của các thành phần xã hội từ bên ngoài kéo đến: ông giảng dạy, ông làm phép rửa và người ta lãnh ơn tha thứ… Còn hoang địa mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào thì không được xác định rõ ràng. Đức Giêsu đi vào trong hoang địa này bởi tác động của Thần Khí, ở lại đó trong một giai đoạn dài và thuần nhất (40 ngày), chịu cám dỗ, sống giữa các loài dã thú và được các thiên sứ phục vụ. Tác giả không kể bất cứ hoạt động nào của Người, kể cả việc cầu nguyện và ăn chay. Trong hoang địa này, bên cạnh Đức Giêsu, có sự hiện diện của ba loại “cư dân”: Satan, các loài dã thú và các thiên sứ. Tính chất và sự hiện diện đồng thời của ba loại “cư dân” này quanh Đức Giêsu khiến cho hoang địa này không còn mang tính chất địa dư – lịch sử nữa, mà là một hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng – thần học.
Đức Giêsu, theo chương trình của Thiên Chúa, đang thực hiện cuộc hành trình của Người, đang đi trên con đường của Người (x.1,2). Đỉnh điểm của cuộc xuất hành của Người sẽ là biến cố tử nạn – phục sinh. Xưa, hoang địa là nơi chốn của cuộc xuất hành của dân Israel đi về đất hứa. Nay, “hoang địa” cũng là nơi chốn diễn ra cuộc hành trình hướng đến biến cố tử nạn – phục sinh của Đức Giêsu. Sự kiện Người sẽ ở trong hoang địa bốn mươi ngày (c.13) củng cố cho cách hiểu này. Mà nếu thế thì “hoang địa” nói đây chính là cái xã hội – tôn giáo Do Thái, trong đó Đức Giêsu sống và hoạt động cho đến khi Người bước vào cuộc tử nạn – phục sinh của Người. Chính Thần Khí đẩy Người đi vào trong cái xã hội – tôn giáo đó.
Nhưng hoang địa, tự bản chất, là hình ảnh của một nơi chốn tách biệt khỏi xã hội. Trong trường hợp của Đức Giêsu, sự tách biệt này, vì thế, phải được hiểu theo nghĩa của sự tách biệt về các nguyên tắc và giá trị. Đức Giêsu ở trong “hoang địa”, tức là Người tuyệt đối không chia sẻ các giá trị giả dối và sai lầm của cái xã hội – tôn giáo Do Thái và không chấp nhận những nguyên tắc và giá trị đó. Có một sự cắt đứt, một sự đoạn tục, một sự tách lìa giữa Đức Giêsu với các nguyên tắc và giá trị đó. Tính chất của ẩn dụ “hoang địa” cho phép chúng ta hiểu như thế.
Bắt đầu Mùa Chay thánh, chúng ta cũng đang được Thần Khí đẩy vào “hoang địa” để thực hiện cuộc xuất hành của chính mình và của cộng đoàn mình. Đối với tuyệt đại đa số chúng ta, đây sẽ không phải là một hoang địa theo nghĩa nơi chốn địa dư, mà là theo nghĩa biểu tượng – thần học. Đó là nơi chúng ta thực hiện cuộc hành trình đời mình như dân Israel xưa thực hiện cuộc hành trình đi từ cõi nô lệ Ai Cập về miền đất hứa “chảy tràn sữa và mật”. Đó là nơi xảy đến cuộc xuất hành của chúng ta, cuộc xuất hành đưa chúng ta vào trong đất hứa là Nước Thiên Chúa. Hoang địa, theo nghĩa đó, là chính môi trường sống và làm việc cụ thể của chúng ta trong hiện tại.
Nhưng “hoang địa” mà Thần Khí đang đẩy chúng ta vào cũng có nghĩa là một chốn tách biệt, như xưa đã xảy ra với Đức Giêsu. Trong ý nghĩa sự “đi vào hoang địa” là biểu tượng cho một sự tách biệt, một sự giữ khoảng cách đối với những nguyên lý và giá trị sai lầm đang chi phối xã hội, thì việc Đức Giêsu vào hoang địa, như chúng ta đã nói, là việc Người không chấp nhận hành xử theo các nguyên lý và giá trị sai lầm của xã hội và tôn giáo Do Thái đương thời. Đối với chúng ta cũng vậy. Thần Khí đang đẩy chúng ta vào hoang địa, cách riêng là trong Mùa Chay thánh này, tức là Thần Khí thúc đẩy chúng ta không thỏa hiệp và không sống theo những nguyên lý và giá trị tầm thường thế gian, ngay trong những môi trường xã hội và môi trường làm việc hiện tại của chúng ta: những ý thức hệ sai lạc, những giá trị ảo của chủ nghĩa hưởng thụ, hay những não trạng duy vật và duy khoái lạc…
Đức Giêsu đã làm theo sự thúc đẩy của Thần Khí. “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (c.13).
Trong Cựu Ước, con số “bốn mươi” thường được dùng để chỉ một giai đoạn trong đó diễn ra một tình trạng thuần nhất nào đó như thời hòa bình hay thời của một triều đại… Thí dụ trong Tl 3,11; 5,31; 8,28; 13,1; 2V 8,17; 12,2 chẳng hạn. Một điều chắc chắn là con số bốn mươi luôn ám chỉ đến bốn mươi năm con cái Israel đi trong hoang địa, tức là giai đoạn họ đi từ chốn nô lệ Ai Cập về đất hứa (x. Ds 14,33.34; 33,38; Đnl 1,3; 2,7; 29,4; Gs 14,17; Tv 95,10; Am 2,10; 5,25…). Vì thế, chi tiết “Đức Giêsu ở trong hoang địa bốn mươi ngày” rõ ràng mang giá trị biểu tượng, chỉ về cuộc xuất hành của Người, tức là cuộc hành trình đưa Người đi đến đỉnh điểm là cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
Trong “hoang địa”, Đức Giêsu chịu Satan cám dỗ suốt bốn mươi ngày. “Satan” là một hạn từ Hípri. Thoạt kỳ thủy, hạn từ này về căn bản có nghĩa là một kẻ chống đối hay một đối thủ chuyên cáo tội trong các vụ án (x. Tv 109,6; 1Mcb 1,36). Từ đó nó có nghĩa chỉ về một thành viên của triều đình thiên thai, chuyên cáo tội con người trước mặt Thiên Chúa (x. G 1,6-12; 2,1-7). Vào thời Đức Giêsu, người ta không còn nghĩ Satan là một thành viên của triều đình thiên thai nữa, nhưng có thể hiểu như là một tinh thần thù nghịch của con người, luôn tìm cách đẩy con người đến chỗ sai lạc và luôn muốn tàn phá công trình của Thiên Chúa. Trong cái xã hội Do Thái được ẩn dụ trong bài Tin Mừng bằng hình ảnh “hoang địa”, thì Satan, trong vai kẻ cám dỗ Đức Giêsu, chính là những thế lực/nhân vật liên tục tìm cách làm cho Đức Giêsu phản bội lại chương trình của Thiên Chúa về Người. Trong Mc 8,33 Đức Giêsu sẽ gọi Phêrô là Satan vì ông ta ngăn cản Đức Giêsu thực hiện chương trình của Thiên Chúa và muốn Người đi theo “tư tưởng của loài người”. Trong cuộc đời hoạt động công khai của Người trước khi đi vào cuộc tử nạn – phục sinh, giữa “hoang địa” là xã hội và tôn giáo Do Thái, Đức Giêsu sẽ phải liên tục đối diện với những thế lực/nhân vật như thế. Bài Tin Mừng hôm nay gọi là “Người chịu Satan cám dỗ”.
Loại “cư dân” thứ hai trong “hoang địa” mà bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến, là các loài dã thú: Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú”. Thông thường, các loài dã thú được hình dung trong đặc điểm hung dữ của chúng: chúng tấn công và thậm chí ăn thịt con người. Vì thế, trong các sách ngôn sứ, ẩn dụ dã thú thường được dùng để nói về tai ương, ví dụ trong Is 18,6; 56,9; Gr 7,33; 12,9; 16,4; Ed 32,4; 34,5. Nhưng rõ ràng đó không phải là trường hợp của Mc 1,13. Có một bản văn ngôn sứ nói về tình trạng tốt lành của việc sống chung với dã thú, là bản văn Is 11,6-9. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận cách hiểu ẩn dụ “hoang địa” ở đây ám chỉ xã hội Do Thái đương thời và “các loài dã thú” là một thành phần trong đó, thì cũng rõ ràng là không thể hiểu Mc 1,13 dựa theo Is 11,6-9 được.
Trong số các bản văn Cựu Ước sử dụng ẩn dụ dã thú, đáng chú ý là Đn 7. Trong đó, các dã thú là ẩn dụ chỉ những quyền lực chính trị kinh khủng của các đế quốc ngoại giáo. Hiểu như là một thành phần trong khung cảnh xã hội Do Thái (“hoang địa”), theo nghĩa tương tự như trong Đn 7, các loài dã thú ở đây là ẩn dụ của những thế lực và ảnh hưởng chính trị khác nhau của các phong trào và các ý thức hệ khác nhau. Đó là những thứ quyền lực chính trị – xã hội – tôn giáo áp bức, hay ít là gây sức ép, trên những con người đang sống trong xã hội đó. Chúng tác động trên con người, từ bên ngoài; và chúng sẽ thi thố sức mạnh của mình, ít là về mặt thể lý, để đẩy Đức Giêsu đến cái chết thảm thương trên thập giá sau này. Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” tức là chấp nhận làm đối tượng mà các thứ quyền lực ấy nhắm đến và không ngừng tìm cách tác động, gây ảnh hưởng.
Loại “cư dân” thứ ba trong “hoang địa” mà Mc 1,13 nói đến là các “thiên sứ” (aggelos). Trong Tin Mừng Mc, lần đầu tiên “thiên sứ” được nói đến, chính là ở 1,2. Và hình ảnh của aggelos đó được thể hiện một cách cụ thể – lịch sử nơi Gioan Tẩy Giả (1,4). Như thế, trong Mc, “aggelos” vẫn có thể là con người chứ không nhất thiết phải là hữu thể thiêng liêng. Nếu chúng ta chấp nhận cách giải thích phía trên về ba hình ảnh “hoang địa”, “Satan” và “dã thú”, thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận cách giải thích, theo đó, ẩn dụ “các thiên sứ” ở đây ám chỉ một nhóm người nào đó trong cuộc đời hoạt động công khai của Đức Giêsu. Nhóm này có chức năng cộng tác với Đức Giêsu, kể cả việc phục vụ Người. Vậy, có thể hiểu “các thiên sứ” ở c.13 là hình ảnh ẩn dụ của những con người gắn bó với Đức Giêsu, giúp đỡ Người khi Người thi hành sứ vụ và cộng tác với Người trong công cuộc của Người. Đức Giêsu chấp nhận sự phục vụ của các thiên sứ trong hoang địa có nghĩa là người chấp nhận sự phục vụ, giúp đỡ và cộng tác của những con người đó trong khi Người thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Tóm lại, trong phần đầu bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Mc đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ rất phong phú và sâu sắc. Tất nhiên, cách giải thích vừa được trình bày vẫn chỉ là một trong những cách hiểu về những hình ảnh được tác giả Mc sử dụng. Nhưng dù sao, trong khung cảnh của phụng vụ Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay, cách hiểu này gợi ý cho chúng ta nhiều suy tư thiết nghĩ là rất đáng chú ý, liên quan đến cuộc sống và việc thi hành sứ mạng của các Kitô hữu chúng ta. Chúng ta được mời gọi hãy để cho chính Chúa Giêsu (như được khắc họa trong bài Tin Mừng hôm nay) nói với chúng ta về những gì chúng ta phải sống cách đặc biệt trong Mùa Chay thánh này.
“Thần Khí đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13). [Mục Lục]
Bước vào Mùa Chay, Giáo Hội kêu gọi chúng ta phải an năn sám hối, sống lại kinh nghiệm 40 năm sa mạc của người Do Thái, sống 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa, 40 ngày ăn chay và chịu ma quỷ cám dỗ, để nêu cao lòng trung tín của Người với Thiên Chúa Cha.
Ma quỷ không nhằm xúi giục Chúa Giêsu vào tội tham ăn, ham mê của cải, danh lợi ở trần gian nhưng nó muốn cám dỗ Chúa Giêsu quên đi sứ mạng cứu thế của mình: từ chối con đường thập giá mà Cha đã trao phó. Đó là cơn cám dỗ Messia. Tại sao Chúa Giêsu phải chịu cám dỗ? Vì Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta cách chống trả cám dỗ. Và hôm nay ma quỷ cũng cám dỗ ta cách khéo léo, tinh vi với mọi hình thức khác nhau, không trừ một cơ hội nào. trong xã hội hưởng thụ ngày nay, con người luôn bị cám dỗ giữa việc xem tivi với việc đọc kinh hôm, kinh mai; giữa vui chơi giải trí và đi lễ; giữa ăn xài phung phí với giúp đỡ người nghèo; giữa gian dối và thành thật, giữa việc học hành và trốn học, quay cóp. Chúng ta bị cám dỗ làm ngơ trước những đau khổ của người khác, im lặng trước những bất công vì sợ liên lụy, làm ngơ trước sự thật, thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân, sống buông thả và đeo đuổi những ước vọng, lợi lộc bằng đủ mọi âm mưu mạo hiểm, khiến chúng ta không còn nhận ra Chúa nơi người ăn xin trước cửa nhà, trong khu xóm. Và còn biết bao cám dỗ mời mọc khác, chúng ta chỉ nghĩ đến mình và lo cho mình.
Ma quỷ không làm cho chúng ta bỏ Chúa, nhưng làm lệch hướng đi của chúng ta, khiến chúng ta có những suy nghĩ sai lạc về Thiên Chúa, bắt Thiên Chúa phục vụ cho những lợi ích riêng của mình; nó làm cho chúng ta cảm thấy chán nản, lười biếng, thờ ơ các việc bổn phận, việc đạo đức, làm cho lòng mến Chúa trong chúng ta phai mờ đi.
Cám dỗ là một thực tế chúng ta không thể nào lẫn tránh được. Vì thế, chúng ta phải luôn sám hối và nhìn lại cách sống của mình để chiến đấu với cám dỗ. Nhưng bằng cách nào? Hãy nhìn Chúa Giêsu, một mẫu gương tuyệt vời, Ngài đã chiến thắng ma quỷ bằng việc ăn chay, cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa để làm theo thánh ý Cha. Phần chúng ta, cũng phải siêng năng cầu nguyện, lắng nghe tiếng Chúa qua việc tham dự thánh lễ cách sốt sắng, đọc kinh trong gia đình, biết hy sinh hãm mình làm việc bác ái. Chính những lúc thuận tiện này chúng ta gặp gỡ Chúa để Ngài ban sức mạnh cho ta. Xin Chúa Thánh Thần giúp sức cho ta vượt thắng các cám dỗ, xin cho mỗi người chúng ta luôn biết trông cậy vào Chúa, nhờ đó chúng ta mới có thể đứng vững trước những cám dỗ của ma quỷ, của thế gian, của xác thịt.
CÂU HỎI GỢI Ý:
Khoa học càng tiến bộ, con người càng cần có bản lãnh để làm chủ. Bạn thấy khi nào con người bị coi là làm nô lệ cho của cải vật chất?
Không những phải chống lại cơn cám dỗ, mà còn phải xa tránh những nơi, những người có thể đưa đến cám dỗ. Theo bạn, người trẻ hay bị cám dỗ ở đâu? Với ai? [Mục Lục]
- Cám dỗ
- Dân gian ta có câu: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Dùng lửa để thử vàng, là một phương cách có từ xưa để xem vàng thật hay giả, có gian nan mới biết ai có khả năng, bản lĩnh để vượt qua. Thiết nghĩ con đường theo Chúa mà hoàn toàn thuận lợi, dễ dàng thì đạt hạnh phúc Nước Trời không có giá trị gì, bởi ai cũng như ai! Nhưng thực tế trong đời sống đạo, những thử thách, những cám dỗ luôn tồn tại. Chúng ta đừng bi quan, mà hãy xem nhũng lúc như thế là lúc toi luyện lòng thành của chúng ta đối với Thiên Chúa.
- Kẻ thù của Thiên Chúa cám dỗ không trừ một ai, trong bài Tin Mừng theo Thánh Mác-cô chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu trong thân phận Thiên Chúa làm người, vào hoang mạc để cầu nguyện 40 đêm ngày, cũng chính thời gian ấy, Ngài bị cám dỗ. Máccô trình bày sơ qua thôi, còn Luca và Mátthêu trình bày rõ 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải chịu: Đá biến thành bánh ; nhảy xuống từ trên cao để Thiên Chúa ra tay nâng đỡ ; và thờ lạy ma quỷ để nó “ban cho” tất cả! Nói chung, là ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu để Ngài bỏ đường lối của Thiên Chúa, con đường khiêm hạ và đau khổ để chọn con đường dễ dãi trong công việc cứu chuộc loài người. Làm sao Ngài đã thắng được cám dỗ? Thưa nhờ cầu nguyện gắn bó cùng Cha, dưới sự nâng đỡ của Thánh Thần. Đó cũng là bài học quý báu cho mỗi người chúng ta.
- Cám dỗ là một điều gắn liền với con người, có thể nói từ khi con người xuất hiện là có cám dỗ, để lôi kéo con người ra khỏi tình thương của Thiên Chúa, và nó sẽ còn tồn tại với con người ở trần gian này. Hẳn ai trong chúng ta cũng rõ Adong, Evà bị cám dỗ và thánh Gióp trong Cựu Ước đã bị ma quỷ xin phép Thiên Chúa cám dỗ để xem lòng trung thành của ông đối với Thiên Chúa. Nhưng Adong, Evà đã bị thất bại vì nghe lời ma quỷ, còn thánh Gióp thì kiên trì trong thử thách, quyết trung thành với Thiên Chúa vì thế ma quỷ đã chào thua!
Ngày nay chúng ta thấy nhiều người quỵ ngã trước cám dỗ, kể cả các Kitô hữu. Thực ra, không phải con người yếu đuối hơn thời xưa. Nhưng sống trong một xã hội càng văn minh, tiến bộ người ta dễ bị lôi cuốn vào nhu cầu hưởng thụ, dễ dãi:
– Chọn loại băng dĩa nào đây? Loại lành mạnh hay là những loại “tươi mát” nhằm thoả mãn dục vọng?
– Chọn loại giải trí nào đây? Cờ bạc, đá gà, hay tìm đến những loại giải trí, môn thể thao hữu ích?
– Chọn ưu tiên đi đâu đây vào ngày Chúa Nhật? Đi lễ nhà thờ hay đi chơi, đi du lịch? v.v..
Ngày nay người ta đề cao tự do, nhưng rồi lèo lái để làm cả những việc sai trái, xem thường cả luân thường đạo lý: Tự do luyến ái trước hôn nhân, tự do sống với người khác như vợ như chồng của mình, tự do châm biếm đả kích người khác v.v…
- Đối với người Kitô hữu, về phương diện nào đó, cám dỗ là một điều cần thiết trong cuộc sống. Từ xưa, người ta biết dùng lửa để thử vàng thật giả, người ta biết đáng giá lòng người, sức người qua thử thách. Vì thế bước đường theo Chúa cám dỗ không hẳn luôn là có hại, mà là phương thế để toi luyện lòng người. Ta vẫn nghe câu nói:”bạn trong lúc khó khăn mới là bạn tốt”. Trong đời sống thiêng liêng, giữa muôn vàn thử thách, nếu chúng ta vẫn trung thành với lời Thiên Chúa dạy, vẫn chọn Người là trên hết, thì chúng ta mới là người con thảo của Người, là người bạn thân của Đức Giêsu. Các thánh, nhất là các thánh tử đạo đã minh chứng cho chúng ta rất rõ điều này, chúng ta vẫn có thể thực hiện điều này trong cuộc sống chứng nhân giữa đời thường.
- Đức Giêsu, Ngài không những nêu gương mà còn chỉ rất rõ con đường để chúng ta khỏi rơi vào cạm bẫy của ma quỷ, như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Ngài đã dạy: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. Như thế nhìn nhận lỗi lầm của chúng ta (ăn năn, vì chúng ta để mình rơi vào cám dỗ của ma qủy) chưa đủ, mà còn phải thay đổi nếp sống cũ bằng cách tin vào Đức Giêsu và tích cực thực hiện những điều Người dạy.
Cụ thể trong Mùa Chay này, nhờ ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta ra sức thực hiện: ăn chay (đền tội) ; cầu nguyện (gia tăng sự gắng bó với Thiên Chúa) ; và thực thi bác ái (gia tăng tình liên đới với tha nhân). Đây là những phương thế hữu hiệu để khỏi rơi vào chước cám dỗ và dẫn đưa chúng ta đến con đường trọn lành. Amen. [Mục Lục]
TA YÊU CÁC NGƯƠI TỪ LÂU RỒI
HÃY TRỞ THÀNH DÂN CỦA TA
Mùa Chay, một thời gian yêu mến.
Lễ tro vừa rồi, chúng ta đã mang một bộ mặt mùa chay hơi buồn bã, nghiêm khắc và nghiêm túc, như phải có. Thứ tư lễ tro không phải là một ngày hội hóa trang. Nó nhắc nhở chúng ta nhớ đến tội lỗi và sự mỏng dòn của chúng ta. Chúng ta là tro bụi, những gì chúng ta làm được đều bấp bênh; chúng ta có một con tim nặng trĩu vì những ích kỷ và thiếu tế nhị, thậm chí phản bội nữa. Hàng năm người ta cử hành lễ thánh Valentin, lễ tình yêu trước hoặc sau ngày thứ tư lễ tro. Tình yêu càng khó kéo dài thì người ta lại càng ham thích ca ngợi chúc mừng nó! Tuy nhiên, nghĩ cho kỹ, bắt đầu mùa chay bằng lễ thánh Valentin không phải là điều vô ích. Điều quan trọng là hiểu được đề tài và sự năng động của khẩu hiệu được nêu ra cho mùa chay này: “Ta yêu các ngươi từ lâu rồi”.
Đúng vậy! Mùa chay là thời gian để nghe nói về tình yêu. Một mùa chay tình yêu xem ra mới mẻ, nhưng lại mang một ý nghĩa sâu sắc. Chúng ta hãy nhớ lại ngôn sứ Ôsê đã đặt lời than thở này nơi miệng Đức Giavê để khơi lại tình yêu của dân Ngài: “Ôi! Ta sẽ dẫn ngươi vào nơi thanh vắng và sẽ quyến rũ ngươi”. Chẳng phải đây là lời yêu thương tốt đẹp cho mùa chay sao: “Ta sẽ quyến rũ ngươi?”. Phải Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta từ lâu rồi. Ngài muốn nhắc lại điều đó để ta nhớ và để cho nó trở thành nơi chúng ta như một bài ru con được nhiều người biết đến: “Ta đã yêu con từ lâu và Ta sẽ không bao giờ quên con”.
Trong mùa chay này, Thiên Chúa sẽ nhắc lại với chúng ta điều đó bằng rất nhiều cách. Một trong những cách đó là nói với chúng ta hôm nay Tin Mừng này: chúng ta là dân của Ngài.
Hãy trở thành dân của Ta. Gần đây một người bạn của tôi được nhận quốc tịch Canada với niềm tự hào lớn đến độ làm tôi phải ngạc nhiên. Sự kiện đó đã khiến tôi suy nghĩ lại xem: Một xứ sở, một dân tộc là những gì; Có những quyền được nhìn nhận và được bảo vệ và có thể thực thi những quyền này quan trọng đến mức nào; Nhu cầu cảm thấy được liên kết với những người khác mạnh làm sao; Được chia sẻ cùng một cuộc sống xã hội gây phấn khởi dường nào.
Từ kỷ niệm này, chúng ta hãy cố gắng suy nghĩ lại về quốc tịch “Thiên quốc”của chúng ta: Chúng ta là một dân tộc thánh, là công dân nước trời, dân của Thiên Chúa.
Dân tộc của giao ước. Nền tảng của một quốc gia trước hết là người ta chấp nhận sống chung với nhau, tuân theo những qui luật chung. Một quốc gia được xây dựng trên những thỏa thuận của các thành phần xã hội.
Trong câu chuyện đại hồng thủy và cầu vồng vào thời gọi là của Nôê. Thiên Chúa bày tỏ sự đồng ý liên kết lịch sử của chúng ta với lịch sử của Ngài, dùng sức mạnh của Ngài để hỗ trợ và cứu độ chúng ta. Lịch sử Thánh Kinh tương đương với một hiệp ước hoặc với hiến pháp trong một quốc gia. Nó đặt nền tảng cho dân Chúa: “Này đây Ta ký kết một giao ước với các ngươi, với hết thảy con cháu các ngươi, và hết thảy các vật sống động…” Trong những lời này, có một hiệp đồng, một giao ước.
Nghĩa vụ công dân. Thiên Chúa lập một hiệp ước với chúng ta. Nhưng một hiệp ước đòi hỏi sự tương hỗ. Hai bên cùng ký vào đó. Một công dân mới tuyên thệ. Một Kitô hữu ký vào bản hiệp ước đó nhờ phép rửa. Thánh Phaolô nhắc lại rõ ràng: Phép rửa là một sự cam kết chứ không phải là một việc tẩy rửa những vết nhơ bên ngoài. Ta hãy nghe ngài nói: “Chịu phép rửa, không phải là được tẩy sạch những vết nhơ bên ngoài, nhưng là cam kết với Thiên Chúa bằng một lương tâm ngay thẳng”. Ta hãy hiểu rõ ý nghĩa của những từ quan trọng này: Cam kết với Thiên Chúa bằng một lương tâm ngay thẳng.
Sau khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu vào hoang địa.
Tin Mừng thánh Marcô nhấn mạnh rằng, sau khi chịu phép rửa Chúa Giêsu đã vào hoang địa. Và ở đó, các thiên thần phục vụ Ngài. Ta có thể thấy rằng, sau khi đã cam kết với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vào sa mạc để bày tỏ tình yêu của mình đối với Cha, đã được quyến rũ bởi dự án của Chúa Cha chứ không phải bởi dự án của ma quỷ. Vậy nên, không lạ gì khi kết thúc mùa chay của mình, Ngài đã nói: “Triều đại Thiên Chúa đã đến, hãy tin vào Tin Mừng”.
Vào đầu mùa chay này, chúng ta hãy xác tín rằng chúng ta là dân Thiên Chúa. Triều đại của Ngài đang ở giữa chúng ta. [Mục Lục]
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Điều mà trong ngôn ngữ thông thường chúng ta gọi là “cám dỗ” thực ra trên bình diện tôn giáo lại là một thực tại rất phức tạp. Vì tính cách phức tạp đó chúng ta không thể nhận ra cách dễ dàng Chúa Giêsu đã muốn bị cám dỗ về sự gì và cách nào. Có nhiều yếu tố trong cách thức thông thường để hiểu sự cám dỗ
– cái gợi lên lòng ước muốn;
– động lực thúc đẩy có căn nguyên nội tâm hay từ bên ngoài, lôi cuốn vào một hành động;
– phát hiện bằng một cuộc thử thách, những đức tính hay là những nết xấu của một người nào;
– xúi giục phạm tội, hoặc bằng sự kích thích các thú vui xác thịt, hoặc bằng cách lường gạt, thúc đẩy làm điều xấu nguỵ trang với những bề ngoài của sự tốt lành (một sự tốt lành giới hạn nào đó).
Con người đầy dục vọng, chúng ta luôn luôn sẵn sàng thức dậy. Tội nguyên tổ đã làm rối loạn sự diễn tiến của các dục vọng đó, thành thử các dục vọng ấy ngày nay lan tràn đến cả những việc xấu cũng như những việc tốt. Khi một việc xấu đề nghị với chúng ta một ước muốn, thì đó là một sự cám dỗ. Nhưng đến chừng nào việc xấu ấy còn ở ngoài chúng ta và đến khi nào nó vào hẳn bên trong chúng ta? Nhiều sự dơ bẩn có thể làm hoen ố một con người song vẫn không làm thiệt hại gì. Để so sánh, tục ngữ có câu: “Nước đổ đầu vịt” là thế. Trái lại, sự rấy lên của lòng ước muốn một điều xấu xa, có thể khuấy rối hay gây ra một tâm trạng mù mờ nửa phạm tội nửa không. Tình trạng đó người ta cho là chưa hẳn có tội, nhưng làm lo ngại. Chúng ta không nói đến sự ưng thuận tất nhiên dẫn đến tội rồi.
Trong giới hạn nào, chúng ta có thể suy tư về sự cám dỗ của Chúa Giêsu?
Mà đây là một sự kiện. Chúa Giêsu muốn biết sự cám dỗ. Người ở trong sa mạc 40 ngày, chịu satan cám dỗ. Người để cho ma quỷ đề nghị với nhân tính của Người, những gì mà nơi chúng ta, gợi lên lòng kiêu ngạo, tính xác thịt và máu tham lam. Chúa Giêsu có bị thử thách bởi sự quyến rũ nào vào sự tội không? Sự thánh thiện tuyệt đối của Chúa Giêsu bắt buộc ta trả lời ngay là không. Nhưng Người muốn thử chịu sự nung đốt của những cái thường làm cho các dục vọng của chúng ta cuống quýt. Người muốn dìm thứ vàng ròng của sự thánh thiện Người vào trong lò lửa, ở đó sự yếu đuối của chúng ta tan chảy như chì và nhất là Người muốn cho chúng ta thấy phải phản ứng thế nào?
Chúa Giêsu đã phản ứng như người ta phản ứng khi bị bỏng, nghĩa là bằng phản ứng tự vệ và đề phòng. Người không có bàn cãi với sự cám dỗ. Người đã nhận ra nó tức khắc, và tức khắc người đuổi nó đi, không tranh luận. Đó là bài học thực hành chính yếu mà chúng ta có thể rút tỉa từ câu chuyện Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc. Đâu là phương cách tốt nhất để nhận ra và đẩy lùi cơn cám dỗ? Phương cách tốt nhất, đó là hãy duy trì nơi mình một ý chí tích cực trung thành với Thiên Chúa. Chúa Giêsu phản ứng bằng bản năng và phản ứng, tại sao vậy? Vì Người là một con người hoàn toàn bị thu hút bởi Con Thiên Chúa. Cũng là người thật như chúng ta, nhưng Người còn là Con Thiên Chúa. Người chống cự lại sự dữ với sự mãnh liệt, và sức mạnh của Thiên Chúa. Người phản ứng lại như thế, vì Người là con ngừơi và là Thiên Chúa. Nếu chúng ta đem gương Chúa Giêsu vào trình độ chúng ta, Chúa dạy chúng ta rằng, chúng ta phải chống cự lại cơn cám dỗ tuỳ theo sức loài người chúng ta nếu chúng ta mang Chúa trong mình cách sâu đậm, chúng ta sẽ phản ứng chống lại cơn cám dỗ với sự sáng suốt và nghị lực mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Điều này không có nghĩa là chúng ta được ơn không thể bị sa ngã, trái lại là khác, song qua sự việc trên Chúa dạy chúng ta bằng những danh từ nào, chúng ta phải dùng để đặt vấn đề sự cám dỗ. Cuối cùng, chỉ còn lại cho chúng ta việc chính yếu phải lo, đó là lòng trung thành với Chúa, chuyện không chiều theo chước cám dỗ tất nhiên sẽ đến
Chúng ta chỉ còn phải lo cầu xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ. Chúng ta hãy cầu xin để Người hằng gìn giữ chúng ta khỏi những cuộc tấn công của sa tan, khỏi những phản bội của sự yếu đuối của chính chúng ta và khi mặc dầu vậy, Chúa vẫn cho phép cơn cám dỗ kéo đến, chúng ta hãy kêu xin Người ban cho chúng ta đủ sáng suốt và sức mạnh để chống lại sự dữ.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một buổi chiều, cha bề trên một tu viện kia hỏi một tu sĩ: – Hôm nay con đã làm gì?
– Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lời, con rất bận bịu mà nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Thưa cha, ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, dạy hai con diều hâu, thắng một con cá sấu, trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân.
– Con nói gì thế? Cha bề trên cười hỏi lại, những việc như thế làm gì có trong tu viện này?
– Thưa cha bề trên, thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai con mắt của con, con phải gìn giữ cho nó luôn trong sáng, không để nó thu giữ những hình ảnh xấu xa. Hai con nai là hai chân của con, con phải luôn trông coi từng bước đi, để chúng bước đi trên nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là hai bàn tay của con, con phải luôn bắt nó làm những việc tốt. Con cá sấu là cái lưỡi của con, con phải kìm hãm hằng ngày để nó khỏi thốt ra những lời nói thâm độc và thô bỉ. Con gấu là trái tim của con, con phải trừng trị để khỏi ích kỷ và phô trương. Còn bệnh nhân là chính thân xác con, con phải canh phòng ráo riết để nhục dục không xâm nhập và luôn lành mạnh.
Tu sĩ này có lý, thưa anh chị em, vì sống là chiến đấu. Đời là một cuộc trường kỳ chiến đấu, và cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến với bản thân. Địch thù ẩn núp ngay trong bản thân mình chứ không ở đâu xa. Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế cũng không thoát khỏi cuộc chiến đấu này. Ngài đã quyết liệt chiến đấu và chiến thắng vẻ vang. Tin Mừng hôm nay đã kể lại, lúc khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách –tương tự như Ađam khi xưa ở vườn Eden- Địa đàng, hay dân Do Thái 40 năm trong sa mạc để chịu thử thách. Nhưng Ađam khi xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo lời xúi giục của Satan đội lốt con rắn, đã bất tuân lệnh Thiên Chúa, đã ăn trái cấm, vì không muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo theo hậu quả khốc hại muôn đời cho con cháu loài người. Bốn mươi năm trong sa mạc cũng là thời gian thử thách lâu dài đối với dân Do Thái. họ cũng đã sa ngã trước thử thách: bao lần phản loạn, chống đối ông Môsê, kêu trách Thiên Chúa, muốn quay trở lại Ai Cập với kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa.
Còn Chúa Giêsu trong sa mạc 40 đêm ngày đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Thánh Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép, danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã dùng lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối cùng Satan phải chịu rút lui, nhường chỗ cho các thiên thần đến phục vụ Ngài. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng chính là Lời Chúa trong Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Anh chị em thân mến,
Là tín hữu, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và để Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu đã chứng tỏ: con người có thể thắng được những chước mê hoặc dụ dỗ của Satan, nếu biết dựa vào sức mạnh của Chúa. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận thách thức Thiên Chúa, chúng ta không theo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh. Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa phục vụ đời sống thể xác hay vật chất của chúng ta. Chúng ta không coi Thiên Chúa như một sức mạnh phù phép để làm những việc phi thường, để biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng không lòn cúi, quy lụy Satan để được làm chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ tể vũ trụ, là Chúa của chúng ta.
Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi vào sa mạc của chúng ta. Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là sa mạc của tâm hồn chúng ta. Theo Kinh Thánh, sa mạc là nơi thoát tục để con người gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa tình yêu. Ngôn sứ Hôsê đã diễn tả ý nghĩa của sa mạc rất đúng khi ông viết: “Thiên Chúa phán: Ta sẽ dẫn người yêu của Ta vào sa mạc, để ở đó Ta thủ thỉ với nàng” (Hs 2,16). Sa mạc là nơi sống gần gũi với Thiên Chúa, sống trong tình thân mật của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy bịt tai trước những tiếng ồn ào bên ngoài, những lời xúi giục, dụ dỗ của Satan. Ngày nay và hằng ngày vẫn luôn có những tiếng xúi giục như vậy. Đừng tưởng chỉ có tiếng nói bên ngoài, tiếng của Satan có thể nói lên ngay trong tâm hồn chúng ta. Nó xúi giục chúng ta đừng sống theo Lời Chúa. Sống theo Tin Mừng sẽ thiệt thòi lắm! Sống như người ta, làm như người đời, dễ biết bao, lợi biết mấy! Nhưng nghe theo những tiếng xúi giục ấy là phản bội Chúa, là từ bỏ Chúa, là lựa chọn không đi theo Chúa nữa. Như thế là lại rơi vào số phận khốn khổ của Ađam khi xưa, của dân Do Thái ngày trước. Tất cả đã sa ngã trước thử thách. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn tình Chúa làm hạnh phúc, lấy Lời Chúa làm lẽ sống, làm sức mạnh, để chiến thắng tội lỗi và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Thử thách và sa mạc là để thanh luyện tâm hồn, để chuẩn bị cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, trong tương quan với Chúa và với anh chị em. Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu sống lại lộ trình 40 năm dân Israel đã trải qua trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, với một nỗ lực thanh luyện bản thân, ý thức tình trạng nghèo khó và bấp bênh của cuộc sống và khám phá ra sự can thiệp quan phòng của Chúa. Ngài mời gọi người tín hữu hãy mở đôi mắt để nhìn thấy nhu cầu cấp bách nhất của anh em chúng ta. Bằng cách ấy, Mùa Chay cũng trở thành mùa liên đới với những con người và với những dân tộc ở nhiều nơi trên thế giới đang sống trong hoàn cảnh bấp bênh, tạm bợ, không cửa không nhà”. Đức Thánh Cha còn nói: “Hãy đón nhận lời mời gọi hoán cải của Đức Kitô để gắn bó bền chặt hơn với Thiên Chúa, Đấng Thánh và giàu lòng thương xót, cách riêng trong Mùa Chay, mùa ân sủng này. Ước gì Mùa Chay sẽ giúp cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa mà mở tâm hồn ra tiếp rước tất cả những người đang sống túng thiếu”… “Chính lúc tỏ ra cởi mở và quảng đại mà Kitô hữu, với tính cách riêng rẽ hoặc tập thể, có thể phục vụ Đức Kitô hiện diện trong người nghèo và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Đức Kitô đã đi trước chúng ta trên con đường này. Sự hiện diện của Ngài là một sức mạnh và là một khích lệ: Ngài cho ta được tự do và trở thành những chứng nhân của tình yêu thương”. [Mục Lục]
Anh chị em thân mến.
Nếu chúng ta có đi ngang qua bến phà Mỹ Thuận cách đây khoảng mười năm, chúng ta sẽ thấy công trình Cầu mỗi ngày một hoàn chỉnh thêm. Mọi người đều vui mừng chờ ngày được đặt chân vượt qua chiếc cầu để sang sông mà không phải chờ đợi từng chuyến phà để vượt giòng nước chảy như cắt nữa. Nhưng tôi suy nghĩ một điều: rồi đây sẽ có một số người không biết phải làm gì khi chiếc cầu đã được thông thương. Trong số đó có những người bán hàng rong hằng ngày, những người có những hàng quán cố định để phục vụ cho người đi lại qua bến phà. Chắc chắn giờ đây họ phải ngồi lại, suy tính để tìm một giải pháp thích hợp cho cuộc sống mới. Ngày giờ sẽ đến và họ không thể làm gì khác hơn là phải thay đỗi cuộc sống. Tôi thiết nghĩ: không ai ngoan cố đến nỗi, vẫn cứ bám lấy cuộc sống cũ, vẫn cứ thi hành nghề nghiệp cũ của mình, cho dù thời thế có thay đỗi thế nào đi nữa. Nếu như thế thì họ đã chọn con đường tự đào hố để chôn chính mình. Không ai muốn như thế bao giờ. Trái lại ngay từ bây giờ, và có lẽ đã từ lâu, họ đã chuẩn bị để từ bỏ nếp sống cũ, bước vào đời sống mới tốt đẹ hơn. Đó là sự khôn ngoan thông thường của cuộc sống.
“Thời kỳ đã mãn, nước Thiên Chúa đã gần đến, anh em hãy ăn năn sấm hối và tin vào tin mừng.” Lời Chúa đã kêu gọi đân Do Thái cách đây 2000 năm. Kêu gọi họ ăn năn sấm hối, quây trở về với Chúa, bỏ nếp sống cũ mà thi hành đời sống mới tốt đẹp hơn. Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi suông, nhưng Ngài đã làm gương, đã vào sa mạc yên tĩnh, để nhìn lại đời sống đã qua và tìm hướng đi tốt cho những ngày sắp tới. Ngài đã làm hết mọi cách, những gì có thể làm được, không bao giờ Ngài từ chối, cho dù phải hy sinh đến cả mạng sống. Nhưng Ngài cũng hoàn toàn tôn trọng sự tự do của con người. Mọi sự Ngài đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ cần con người biết nghe theo và hành động nữa thì tất cả mọi sự sẽ tốt đẹp. Nhưng đã trải qua 2000 năm lịch sử, mặc dù có rất nhiều người đã thay đỗi cuộc sống. Đồng thời cũng có rất nhiều người vẫn cứ liều mình bám vào đời sống chẵng mấy tốt đẹp, mặc dù họ vẫn biết đó là con đường tự tiêu diệt chính mình. Họ vẫn cứ bám lấy và không chịu thay đỗi.
Hôm nay chúng ta đã bước vào mùa chay. Thiên Chúa kêu gọi mỗi người ăn năn sám hối, vì nước trời đã gần đến. Không phải nước trời đến cho chúng ta nhìn thấy. Nhưng nước trời đến bất chợt đối với từng người trong chúng ta. Ai trong chúng ta cũng biết điều đó và biết rất rỏ. Vậy mà lời kêu mời nầy đã vang động bên tai chúng ta không biết bao lâu và cũng không biết bao nhiêu lần. Thế mà dường như chúng ta chẵng cần biết đến làm gì, vì nó làm cho chúng ta cảm thấy khó chịu khi phải nghe những lời như thế. Đôi khi nó còn làm cho mình quen quá hóa ra nhàm chán và không cần để ý đến. Vậy chúng ta cũng giống như những người ở bến phà Mỹ thuận, biết làm ăn không được mà vẫn cứ cố lì không chịu tìm cách để thay đỗi cuộc sống cho thích hợp. Chúng ta cứ suy nghĩ xem: Đã bao nhiêu mùa chay đã qua trong đời sống của mình rồi, chúng ta đã nghe bao nhiêu lần lời kêu gọi ăn năn sám hối. Chúng ta cũng nghe không biết bao nhiêu lần lời thông báo nước trời đã gần đến. Có lẽ chúng ta nghĩ rằng: đó chỉ là lời nói cho người khác, chứ không phải nói cho chính mình. Thử nhìn lại cuộc sống của mình xem, chúng ta đã thực hiện như thế nào đối với lời mời gọi đó. Nếu đới sống chúng ta vẫn cứ bình thường như từ trước đến nay, không có gì đỗi mới cũng không có gì tiến bộ, đó là mình chưa ăn năn sám hối, chưa biết thay đỗi cuộc sống cho tốt đẹp. Nhưng mà, tôi có gì đâu để sám hối, tôi có làm gì xấu đâu để mà thay đỗi, ông nọ bà kia mới cần thay đỗi , mới cần sám hối. Đó là những lời chúng ta thường tự nói với chính mình như thế. Nhưng đó cũng là một cách làm cho con người của mình trở nên chai lì khô cứng không thể thay đỗi được. Như vậy làm sao chúng ta có thể chuẩn bị sẵn sàng, để đón nước Thiên Chúa đã gần đến. Nếu giờ nầy bất ngờ Chúa kêu gọi, mỗi người sẽ trả lời ra sao về sự chuẩn bị của mình.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe lời Chúa và biết nhìn thấy chính mình thật sự, để biết đỗi mới đời sống cho xứng đáng bước vào nước trời. [Mục Lục]
Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những trận đấu đỉnh cao giữa các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1. Ta say mê vì các cầu thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các đội bóng di chuyển chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện viên bậc thầy, các pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ. Không phải tự nhiên mà các cầu thủ chơi bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế. Họ phải mất nhiều thời gian tập luyện. Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện. Tập luyện để có thể lực dẻo dai. Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình huống. Tập luyện để hiểu nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý. Những buổi tập rất nghiêm ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh thần kỷ luật nghiêm túc. Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc. Ai vượt qua được những buổi tập nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.
Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách. Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.
Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.
Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên. Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu. Hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày. Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.
Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ. Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người. Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma quỷ.
Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha. Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.
Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách. Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người. Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người. Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn. Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa Cha.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.
Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có quen chấp nhận những điều khó chịu không?
2- Bạn đã bị cám dỗ bao giờ chưa? Bạn đã chống trả thế nào?
3- Mùa Chay này, bạn sẽ sống thế nào để thêm lòng mến Chúa yêu người?
4- Bạn có thường từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa không? [Mục Lục]
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Mỗi khi bắt đầu mùa Chay, Hội Thánh lại mời chúng ta vào hoang địa với Đức Giêsu. Chính Thánh Thần đã dẫn đưa Ngài đến nơi đó, ngay sau khi Ngài chịu phép rửa của Gioan và nhận được Thánh Thần để lên đường đi sứ vụ.
Bốn mươi ngày sống trong cô tịch và cầu nguyện. Một cuộc tĩnh tâm để định hướng tương lai, qua đó Đức Giêsu thấy rõ con đường Ngài phải đi, và qua đó Ngài cũng thấy mình bị Xatan cám dỗ.
Mùa Chay là thời gian trở lại với Chúa và nhận ra những cám dỗ đang bủa vây tôi, những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới lớp áo mới. Nếu đời tôi là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Tôi có tự do để chọn giữa cái tốt và cái xấu. Giữa những cái tốt, tôi có tự do để chọn cái tốt hơn. Biết mình đã lạc hướng hay lệch hướng là điều cần thiết.
Con người hôm nay không yếu đuối hơn ngày xưa. Nhưng có lẽ nó bị cám dỗ nhiều hơn xưa, vì cuộc sống tiến bộ cho người ta nhiều chọn lựa. Tôi phải chọn kênh truyền hình, chọn băng video, chọn một loại vải, một kiểu áo, chọn chỗ giải trí tối nay.
Có những áp lực đè nặng trên chọn lựa của tôi: áp lực của quảng cáo, khuyến mãi, áp lực của mode, của bạn bè, của dư luận… Có những mời mọc nhắm vào các giác quan của tôi. Các giác quan như những cánh của mở của căn nhà trống trải. Bao kích thích khêu gợi như luồng gió lùa vào nhà. Thắng được những đòi hỏi vô độ của thân xác đòi hỏi một sự tự chủ lớn lao. Thắng được những đam mê mù quáng của con tim cần có một thái độ anh hùng từ bỏ. Thắng được sự cứng cỏi, cố chấp của trí tuệ cần có một lòng khiêm tốn mở ra trước chân lý.
Cuộc đời là một cuộc chiến đấu không ngừng, vì con người vẫn nghiêng như tháp Pizza. Cần phải tập nghiêng về điều ngược lại để tạo lập được sự quân bình trong cuộc sống.
Nói cho cùng, cám dỗ nào cũng khiến con người khép kín, chỉ nghĩ đến mình và sống cho mình. Cám dỗ im lặng vì sợ liên lụy. Cám dỗ giả mù trước sự thật rành rành. Cám dỗ thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân. Cám dỗ sống một đời sống tầm thường và buông thả. Cái cao cả của con người là chiến đấu và chiến thắng. Chỉ khi nhận Thiên Chúa và tha nhân làm trung tâm, con người mới thành người trọn vẹn.
Ước gì mỗi Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của mình. Nhưng trước hết, chúng ta cần ăn chay và cầu nguyện.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng cần có bản lãnh để làm chủ. Bạn thấy khi nào con người bị coi là làm nô lệ cho của cải vật chất?
Không những phải chống lại cơn cám dỗ, mà còn phải xa tránh những nơi, những con người có thể đưa đến cám dỗ. Theo ý bạn, người trẻ hay bị cám dỗ ở đâu? Với ai?
Cầu Nguyện
Như đoá sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc, xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục, xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt, để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực vào những chuyện tình cảm chóng qua, nhưng giúp con tự rèn luyện mình để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy, xin giữ thân xác con thanh khiết. [Mục Lục]
Theo chu kỳ của phụng vụ, Mùa Chay bao giờ cũng bắt đầu bằng thứ tư Lễ Tro. Và hôm nay, chúng ta chính thức bước vào Chúa nhật thứ nhất của Mùa Chay. Ai trong chúng ta chẳng biết rằng Mùa Chay là mùa của sám hối và hoán cải. Nói cách khác, mùa chay là một hành trình của hoán cải. Hành trình đó được khởi đi từ trong sa mạc. Sa mạc là mảnh đất mênh mông đầy những thế lực thù nghịch. Sa mạc là nơi hoang vu, không nhà cửa, không người thân, không bạn bè, không lương thực, và còn nhiều cái không khác nữa. Vì thế một người khi bước vào trong sa mạc là bước vào 1 cuộc chiến đấu và đối diện với những cái không đó. Khó khăn! Thử thách! Cô đơn! Nhưng bên cạnh đó, sa mạc cũng còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa nữa.
Hôm nay thánh Marcô nói rằng Chúa Giêsu vào trong sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Người ở trong hoang địa 40 đêm ngày sống giữa loài dã thú. Thời gian 40 đêm ngày không phài là dài lắm. Nhưng với một người đang chịu thử thách, phải đối diện với những khó khăn, phải sống trong cô cơn thì đó là khỏang thời gian không phải là ngắn. Theo ngôn ngữ của Kinh Thánh: số 40 là con số hàm chứa nhiều ý nghĩa: là con số tượng trưng sửa soạn cho một cuộc khởi đầu mới. Nó gọi về những giai đoạn và cột mốc quan trọng trong lịch sử cứu độ: nước Đại hồng thuỷ đã tràn ngập mặt đất 40 ngày và 40 đêm, trước khi Thên Chúa lập giao ước với ông Noe và dòng dõi. Trong suốt 40 ngày và 40 đêm là khoảng thời gian ông Môsê chuẩn bị trên núi Sinai lãnh nhận lề luật của Giao ước trước khi truyền lại cho dân. Trong suốt 40 năm, đám con cháu và dòng dõi của tổ phụ Abraham và Giacóp được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập đã dong duỗi hành trình trong sa mạc trước khi tiến vào đất Hứa. Cũng trong khoảng thời gian 40 đêm ngày, ngôn sứ Elia đã đi bộ về núi Hôrép, núi của Thiên Chúa để lãnh nhận sứ mạng tái lập Giao ước.
Chúa Giêsu đã trải qua một gai đoạn đầy cam go và thử thách trong sa mạc . Và chính vì phải sống trong giai đoạn như thế, nên trong nội tâm của Chúa Giêsu lập tức xuất hiện một cám dỗ muốn tìm một thoải mái, dễ chịu. Một cám dỗ rất người và rất đời thường! Thế nhưng Chúa Giêsu của chúng ta đã vượt qua. Người đã thắng được cái nóng cái, cái lạnh, cái đói, cái khát và đã hoàn tòan làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác. Có lẽ anh chị em và các bạn nói rằng: Tại vì Đức Giêsu là Chúa mà nên Người dễ dàng vượt qua những cám dỗ đó, đồng thời chế ngự được những đòi hỏi của xác thân. Nhưng xin anh chị em đừng quên. Xin đừng quên rằng ngoài bản tính là Thiên Chúa, thì ở bên cạnh và bên trong một Thiên Chúa đó vẫn còn có đó một Giêsu rất người. Người vẫn có những nhu cầu và những đòi hỏi của thân xác giống như chúng ta. Bằng chứng là sau cơn cám dỗ đó, Người cảm thấy đói. Hơn nữa, ỏ trong vuờn Giêtsêmani, khi đứng trước khổ hình thập giá, Người đã khiếp sợ. Sợ đến chảy mồ hôi, nặng như những giọt máu rơi xuống đất. Và cũng chính trong giây phút hoảng sợ đó, chính người đã phải thốt lên một lời rất thê thảm nhưng rất đẹp: ” Abba! Cha ơi! Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều cha muốn” Ở đời ai dại gì lại tìm cho mình đau khổ, mất mát thiệt thòi mà không thích tìm sự tiện nghi thoải mái và dễ chịu. Vì đó là nhu cầu của thân xác.
Và để có được sự tiên nghi, thoải mái và dễ chịu thì phải có tiền, phải có quyền. Bởi lẽ, người ta thường nghĩ rằng khi tôi có tiền thì tôi sẽ có tất cả. Khi tôi có quyền thì tôi tha hồ mà tự tung tự tác, tha hồ tác quai tác quái. Thế cho nên những cám dỗ mà Chúa Giêsu trải qua hôm nay , mặc dù thánh Marco không nói chi tiết cho bằng thánh Matthêu và thánh Luca, nhưng tôi tưởng rằng đấy là những cơn cám dỗ của tiền bạc, của quyền lợi, của kỷ thuật(khuyng hướng của thời đại hôm nay, người ta muốn thay thế và chối bỏ quyền của Thiên Chúa bằng Kỷ Thuật trị (Technocracy), mà người ta quen gọi là những cám dỗ của danh, lợi, thú, thì lúc nào cũng vẫn là những cám dỗ rất lớn và rất mạnh của mọi thời và cho mọi người.
Và chính vì nhu cầu căn bản mà lại rất lớn đó mà người ta tìm đủ cách để đáp ứng cho bằng được bằng nhiều cách, bằng nhiều con đường khác nhau. kể cả bằng những con đường phi nhân nhất, tàn bạo nhất, mất đạo đức nhất.
Kính thưa ông bà, anh chị em và các bạn, hôm nay, trong sa mạc, Chúa Giêsu đã vượt qua được những cám dỗ là những đòi hỏi của thân xác. Hình ảnh sa mạc ngày xưa của Chúa Giêsu gọi về những sa mạc hôm nay trong đó luôn luôn có những cám dỗ bủa vây chúng ta.
Những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới lớp áo mới .
Cám dỗ của chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu .
Cám dỗ muốn tách mình ra khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa.
Cám dỗ của sự khước từ Thiên Chúa và thay thế bằng thần Mamon và con người muốn làm trung tâm của thế giới.
Cám dỗ của khép kín, chỉ nghĩ đến mình và chỉ sống cho mình.
Cám dỗ của im lặng vì sợ liên luỵ
Cám dỗ giả mù trước thật hiển nhiên.
Cám dỗ của thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân.
Cám dỗ muốn sống một đời tầm thường và buông thả
Cám dỗ của hưởng thụ và tiện nghi.
Cám dỗ của tiền
Cám dỗ của quyền
Cám dỗ của thế gian. …………………
Và cám dỗ nào cũng rất tinh vi.
Vậy làm sao để ta nhận diện đâu là những cám dỗ đó. Và bằng cách nào để ta vượt qua?
Kính thưa ông bà anh, chị em và các bạn!
Hôm nay khi thuật lại việc Chúa Giêsu đi vào trong sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ, có một chi tiết không thể bỏ qua. Chi tiết này đáng lý tôi phải nói đầu tiên trong bài chia sẻ này, nhưng tôi cố ý nói sau cùng. Chi tiết đó là: Thánh Marco bắt đầu câu chuyện Tin Mừng bằng cách nói rằng: Thánh Thần liền đẩy Người vào trong sa mạc. Hay lắm! Cho nên tất cả 40 ngày trong sa mạc, trong chay tịnh và những cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu đã trải qua và Người đã chiến thắng là nằm trong tác động của Thánh Thần. Tác động của Thánh Thần chính là điều mà người công giáo vẫn quen gọi bằng một cụm từ khác thay thế: đời sống thiêng liêng, đời sống thuộc linh- thuộc về Chúa Thánh Thần.
Thế cho nên, thưa ông bà, anh chị em và các bạn! Trong Chúa nhật thứ nhất của Mùa Chay này, tôi nghĩ lời chúa nói với chúng ta không gì khác hơn là một lời mời gọi chúng ta: Hãy lấy lại kinh nghiệm của Chúa Giêsu. Đó là kinh nghiệm lắng nghe tác động của Thánh Thần. Đó là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta khi đối diện với những cám dỗ của đời thường, chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua. Và Thánh thần nói với chúng ta khi nào và ở đâu, nếu không phải là trong sa mạc và trong thinh lặng.
Cuối cùng! Ước gì chúng ta hãy buông mình để cho Thánh Thần tác động. Và một khi chúng mình được Thánh Thần tác động, tâm hồn ta sẽ được đổi mới, được bình an, thanh thoát và nhẹ nhàng. Nếu được như thế, chúng ta sẽ cảm nhận bên cạnh mùa sám hối và hoán cải, mùa chay còn là “Mùa Xuân Thánh Thiện”. Amen. [Mục Lục]
Một đôi vợ chồng đã sống với nhau 25 năm và xem ra họ là một cặp xứng đôi vừa lứa hoan hỷ long phụng. Hai vợ chồng có việc làm tốt. Họ cùng nhau đi nhà thờ mỗi Chúa Nhật và cầu nguyện mỗi tối trước ngày họ về hưu. Song giữa họ có một vấn đề xem ra khó mà vượt qua, đó là cứ mỗi lần nói chuyện là một lần họ cãi nhau. Cuối cùng, bà vợ như đã ứ tới cổ, đương nhiên vì đạo giáo họ không thể ly dị, nên bà mới nghĩ ra một cách. Vào buổi tối kia khi hai người bắt đầu buổi cầu nguyện chung thì bà nói với ông chồng, “Tôi và ông không thể tiếp tục sống mà cứ cãi cọ với nhau như thế này mãi được, chúng mình phải chấm dứt tình trạng này ngay. Nhân đây là ngày đầu tiên của mùa Chay, tại sao tôi và ông không cầu xin Chúa làm ơn thay đổi cách sống này. Vợ chồng mình hãy cầu xin Chúa gọi một người trong chúng ta về với Ngài”.
Với lối ý kiến như thế ai cũng thấy điều bà vợ nói là sai với tinh thần của mùa Chay, bởi vì điều thiết yếu của mùa Chay là hồi tâm để canh tân thay đổi chiều hướng ý tưởng cũ của cuộc sống để đời sống tương lai tốt lành hơn. Chúng ta nghe Chúa gọi ta đi một hướng, còn ma quỉ thì quyến rũ ta về lối khác; câu hỏi là “ta theo ai”, sự quyết định lệ thuộc vào ta hoàn toàn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nghe Chúa Cha gọi Ngài theo một hướng sau khi chịu phép rửa và rồi ma quỉ quyến rũ Ngài theo hướng khác. Chúa Giêsu ở một mình nơi hoang địa, sau bốn mươi ngày dài ăn chay thì sức Ngài yếu đi và là dịp may cho Satan cám dỗ bởi khi ấy Ngài rất đói. Ngay lập tức những hình ảnh cám dỗ thoả mãn tính xác thịt theo đuổi Ngài. “Tại sao không biến những hòn đá kia thành bánh? Ta có thể làm điều đó và hơn nữa khỏi phải đói!” Sau những ngày một mình trong hoang địa làm Ngài cảm thấy cô đơn. “Tại sao Ta không làm cái gì đó kỳ lạ để mọi người chú ý? Chẳng hạn nhảy từ ghềnh đá cao này xuống dưới vực sâu mà không bị thương tổn? Chà chà, người ta sẽ nhìn thấy và kéo đến đông biết chừng nào, khi ấy Ta hết cô đơn!” Bốn mươi ngày Ngài tự xét đã nhìn thấy những ý tưởng về công cuộc truyền bá của Ngài. “Tại sao Ta không là một anh hùng dũng sĩ như người ta mong chờ nơi Đấng Thiên Sai? Ta sẽ đầy quyền hành và giàu có. Ta có thể làm điều ấy và sẽ không còn nỗi sợ bất an nữa!” Những quyền lực hung mãnh trên sa mạc thế giới cho chúng ta biết rằng đơn hành trên sa mạc mà thiếu các dự bị thiết yếu thì chỉ có hai cách chọn: một là cố tự bảo vệ cho đến khi trợ giúp tới, hai là để cho sự sợ hãi chiếm lĩnh. Một chuyên gia thám hiểm sa mạc đã viết: “Chỉ có người đã tự chuẩn bị cho mình đầy đủ mới có thể sống sót qua sa mạc”. Chúa Giêsu đã không hoảng sợ khi mình Ngài đi qua hoang mạc và Ngài cũng chẳng lo âu khi đối mặt với sức mạnh cám dỗ ghê gớm của ma quỉ. Ngài đã tự chuẩn bị cho mình cách hoàn hảo nhất, như Thánh Kinh đã cho ta biết “Ngài đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày”. Theo truyền thống của Cựu Ước, ăn chay là một cử chỉ tôn giáo cao cả với ý muốn tăng thêm sức mạnh ý chí qua cầu nguyện và chiêm ngắm. Như thế, bằng cách tự thanh luyện tâm hồn mình qua ăn chay cầu nguyện, Chúa Giêsu đã chọn lựa cách hành động luân lý rõ ràng với chủ ý theo tiếng gọi và chiều hướng trong công cuộc truyền bá Tin Mừng của Ngài. Ngài đã nói, “Hãy xéo đi Satan! Vì có lời Thánh Kinh đã viết: Ngươi chỉ tùng phục một Thiên Chúa mà thôi, và chỉ tôn thờ một mình Ngài” (Mt 4,10).
Đời sống là những chuỗi dài của núi cao và thung lũng. Chẳng ai trong chúng ta có thể trốn tránh hết những kinh nghiệm hoang mạc, đó là những giờ phút ta cảm thấy tâm hồn bơ vơ trống vắng, lạnh lẽo cô đơn. Chắc chắn rằng, vào những giờ phút đó, cầu nguyện là điều cần thiết nhất cho chúng ta.
Mặc dầu chúng ta có sợ hãi trong cô đơn lẻ loi và thất bại trong cuộc tìm kiếm để thoát cảnh lạnh giá của cuộc sống, nhưng chúng ta đừng thất đảm. Chúng ta cần cầu nguyện, cần phải thôi nói với chính mình để có thể nghe được tiếng của Chúa là Cha nói trong tâm hồn chúng ta. Trong hoang mạc của đời sống vô nghĩa xem ra mọi cái đều trở nên tiêu tan, vô mục đích, vô ý nghĩa, nó tựa như một trò đùa ghê tởm bao bọc chúng ta bởi quyền lực bên ngoài mà chúng ta không hiểu nổi. Chỉ có một lối thoát, một lối tìm ra ý nghĩa xác thực và cùng đích của cuộc sống của chúng ta; chỉ có một con đường để tìm ra ta là ai và ta phải làm gì, đó là lắng nghe và lắng nghe tiếng Chúa Kitô trong tâm hồn ta. Có thể sẽ phải trải qua bốn mươi ngày đêm hoặc sẽ lâu hơn thế nữa để Tin Mừng của Chúa thấu nhập tâm hồn, nhưng điều quan trọng cần thiết là ta phải tiếp tục lắng nghe không nản lòng. Khi ta ngừng nghe tiếng Chúa thì là lúc ta thiếu chuẩn bị để xua đuổi sự nguy hiểm của thất đảm, nỗi trống rỗng sẽ bao bọc và là dịp thuận tiện để ma quỉ tiến vào đánh giết chúng ta.
Cơn cám dỗ có thể là ước muốn một mình ra đi, ta có thể đi qua ánh sáng không cần Chúa. Nó là sự cám dỗ khi nói rằng chúng ta có thể tự tìm ra câu trả lời “tại sao” cho cuộc sống; và nó là sự cám dỗ làm chúng ta tự hình thành những “thần tượng” nhỏ bé trong tâm hồn chúng ta. Ta phải tự nói với chính mình rằng, “Tôi cần Thiên Chúa nói cho tôi biết tôi là ai, tại sao tôi như vầy và tôi sẽ đi về đâu? Tôi cần Thiên Chúa dẫn đưa tôi ra khỏi sự trống rỗng đến ánh sáng tạo dựng của Ngài và Ngài nói cho tôi biết sự toàn hảo của tôi nằm ở đâu? Hãy tránh xa ta đồ quỉ dữ Satan, vì ngay từ đầu Thiên Chúa là Đấng tạo dựng trời đất, tất cả… Ta chỉ tôn thờ một mình Ngài”.
Gặp gỡ và theo Chúa Kitô trong việc tìm kiếm Nước Chúa trước tiên là một sự thay đổi tính chất cuộc sống của chúng ta, nó không đơn giản chỉ là tăng thêm cái gì đó vào đời sống; song đúng hơn là một tính chất mới mẻ nảy sinh trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết là chúng ta đón nhận nguyên cuộc sống mới, một quà tặng từ Quyền Năng của tương lai đó chính là Thiên Chúa Cha của chúng ta. Mỗi giây phút ta sống không chỉ là cái gì nối tiếp từ quá khứ song là một sự tạo dựng mới. Mỗi hơi ta thở không chỉ là hoạt động sinh lý tự nhiên nhưng là hành động đón nhận từng món quà từ chính sự sống. Món quà của sự sống mới này, chúng ta có được từ cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Kitô, vĩnh viễn bất tận ngay cả sự chết cũng không làm gì được.
Đó chính là sự thành quả hy vọng, công chính được thoả mãn, tình yêu được tràn đầy, chân lý sẽ toàn thắng.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan)
Không còn gì nghi ngờ nữa. Hôm nay Mùa Chay đã ‘nói trúng tim đen của chúng ta’ rồi đấy, và làm rung động tận chốn thâm cung tâm hồn chúng ta. Mùa Chay kêu gọi chúng ta từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa. Chay tịnh, cầu nguyện, bố thí xưa nay là những việc làm chính yếu của Mùa Chay. Đó là những khí cụ chúng ta được khuyên dùng để dễ dàng tiến lại gần bên Thiên Chúa hơn, trong khi vẫn phải hành trình tiếp tục suốt đời. Đối với một số người, thì Mùa Chay đồng nghĩa với bỏ rượu, bỏ thuốc lá, trong khi những người khác lại thấy Mùa Chay là thời gian đi nhà thờ hằng ngày… Cho dù chúng ta thực hiện kiểu chay tịnh cách nào, thì động cơ thúc đẩy chúng ta mới là quan trọng. Nếu chúng ta ăn chay hay ăn kiêng chỉ vì muốn có thân hình thon thả, hay chúng ta làm phúc bố thí chỉ vì muốn được nể vì trong cộng đồng, thì những nỗ lực của chúng ta cũng hơi uổng công vì chúng ta đã nhận được phần thưởng rồi và vẫn chưa đến gần Chúa hơn là bao.
Khi khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Chúa Giêsu đã đi vào hoang địa suốt 40 ngày đêm – cũng vì thế mà ngày nay chúng ta tổ chức hẳn một Mùa Chay Thánh. Giáo Hội muốn mọi người hãy sống lại kinh nghiệm của Chúa Giêsu là thiết lập mối tương quan sâu đậm và tình nghĩa thân thiết hơn giữa Thiên Chúa với chúng ta. Hành trình của chúng ta là một hành trình vào sa mạc nội tâm nơi đó mình ta đối diện với Thiên Chúa trong tinh thần chân thực. Hoang mạc tâm hồn sẽ giúp chúng ta nhìn lại bản thân xem chúng ta thực sự là ai, chúng ta làm gì với những nén bạc Chúa trao, đồng thời sẽ giúp chúng ta ý thức hơn về tình trạng tội lỗi của chính mình. Nhờ đó dần dần chúng ta sẽ đau lòng mà nhận ra mình cần thay đổi và canh tân cách tranh đấu với sự dữ bằng cách cầu nguyện chay tỉnh và đền tội. Việc chúng ta đền bù tội lỗi sẽ giúp chúng ta nhận thức được rằng những mặt thiêng liêng của cuộc sống còn quan trọng hơn những khía cạnh vật chất của nó. Một khi chúng ta ý thức được những lỗi lầm của bản thân, chúng ta mới nhận ra nhu cầu cần thay đổi điều này điều khác.
Nếu chẳng may chúng ta nằm trong số những người chuyên chụp mũ cái xấu lên đầu mọi người. Thì nay đi vào hoang mạc chính là cơ hội để chúng ta nhìn kỹ lại cố tật ngồi lê đôi mách, nói hành nói tỏi, đổ vạ cáo gian của chúng ta. Chỉ cần hứa từ nay sẽ giữ mồm kín miệng là đã có một phương thuốc hữu ích rồi.
Chúng ta có thể dốc lòng làm vui lòng những người mà chúng ta thường hay xung khắc hay ít ra là chúng ta không có cảm tình. Bỏ rượu chè cờ bạc có làm cho chúng ta mất mát gì đâu nếu như những thứ đó chỉ tổ là những nguyên nhân gây xào xáo làm cho gia đình mất hạnh phúc…? Cầu nguyện hằng ngày rất quan trọng cho tất cả chúng ta vì đó là mối giây liên lạc sinh tử giữa chúng ta với Thiên Chúa. Ngay như mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Kitô cũng không thể thành tựu nếu không thực hành cầu nguyện. Chúng ta phải dành ưu tiên số một cho việc cầu nguyện, một phương thế cũng cố đức tin đức cậy và đức mến, nghĩa là cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tăng cường niềm tin tưởng cậy trông và đem chúng ta đến gần gũi Thiên Chúa hơn.
Mùa Chay là thời gian dành cho chúng ta tìm đến tâm linh, kêu mời chúng ta nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa trong mọi phương diện của cuộc sống và từng bước thực hành đương đầu với những xấu xa của tội lỗi và ích kỷ bên trong chúng ta.
Mùa Chay là mùa kêu gọi chúng ta thay đổi hành vi thái cử vì những thói hư tật xấu cố hữu trong chúng ta lâu nay làm thui chột sức tăng trưởng của chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là thời gian chúng ta cần trân trọng đón nhận ân sủng, nếu chúng ta có ý muốn Mùa Chay trở nên một kinh nghiệm thanh luyện đời sống thiêng liêng. Cần nói “không ” với bản thân và nói “có ” với Thiên Chúa là tất cả những gì phải làm trong cuộc phấn đấu nơi hoang mạc Mùa Chay này.
“Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng”
Vào đầu thế kỷ 20, một văn sĩ người Anh đã kể lại trong cuốn tiểu thuyết “Bầu trời và Thập giá” của ông, truyện một người thù ghét thập giá. Thấy thập giá ở đâu là anh ta tìm cách phá huỷ. Gặp một bức vẽ có hình thập giá là anh xé bỏ. Vợ anh mang một thập giá nhỏ bằng vàng, anh cũng lừa giật được và ném đi. Anh bảo: “Thập giá là biểu tượng sự độc ác dã man đối nghịch với niềm vui và cuộc sống”.
Lòng căm ghét thập giá ăn sâu và tâm tư anh, đến mức thấy bóng thập giá là anh như điên dại. Không chịu nổi, có lần anh leo lên tận tháp chuông nhà thờ để phá huỷ cây thập giá trên đó. Lần khác, anh đập tan cái ban công nhà vì ở đó anh thấy nhiều chỗ có hình thập giá… Anh nhìn đâu cũng thấy thập giá. cuối cùng anh nổi giận đốt luôn căn nhà của mình và bị chết cháy.
Câu chuyện cốt đi tới một kết luận: Kể từ cái chết của Chúa Giêsu, thập giá đã nên biểu tượng của chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu. Dẹp bỏ thập giá là chối bỏ tình yêu, nâng cao hận thù và đưa thế giới tới chết chóc, diệt vong.
Thập giá là biểu tượng niềm tin Kitô hữu và cũng là một thử thách lớn lao cho niềm tin mỗi người. ngắm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá, con người không nhìn ra tình yêu cao cả của Thiên Chúa mà chỉ thấy vô lý khó chịu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá đi” (Mt 27, 40). Thử thách này còn theo dõi mỗi người chúng ta, còn tác động trên cả Giáo hội. Người ta vẫn tiềm tàng ý định đưa Chúa xuống khỏi thập giá, muốn Thiên Chúa biểu lộ quyền năng thống trị, chứ không dấu ẩn, vì “Nhập thể” là hình thức “Yếu đuối” (1 Cr, 1, 25). Một Thiên Chúa quyền uy là thông thường, là hợp lý, thích hợp với mọi tôn giáo…. Nhưng không phải Thiên Chúa chịu đóng đinh. Thật khác xa với chủ trương của Thánh Phaolô Tông đồ: “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, còn chúng ta rao giảng Chúa Cứu Thế chịu đóng đinh, đó là gương xấu cho người Do Thái và là điên rồ trước mặt dân ngoại “ (1 Cr. 1, 22-23)
Chúa cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, nói thế cũng có nghĩa là Chúa cứu chuộc bằng tình yêu. Và Chúa đòi hỏi chúng ta đi vào con đường Thập giá như Chúa, nghĩa là sẵn sàng hy sinh, chịu đau khổ để biểu lộ tình yêu đối với Chúa và đối với anh em (Mt 16, 24-25).
Đó là con đường tốt nhất và duy nhất. đôi lúc ta ngại đón nhận thập giá, thì đó là thử thách lớn cho niềm tin Kitô hũư của ta “Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
Richar Miller là một học sinh cấp ba vào thập niên đầu của thế kỷ 20. Chàng là một thanh niên hay chống đối, coi thường quyền bính. Chàng yêu say đắm một cô gái lối xóm tên là Muriel Mc. Comber. Cha nàng sợ lối sống lập dị của Richar nên cố gắng dập tắt mối tình lãng mạn ấy.
Thất vọng, Richar lui tới một quán rượu, chàng gặp một phụ nữ tên Belle. Theo ngôn ngữ thời ấy người ta gọi là “Flirt” (gái giang hồ). Một người đàn bà đùa dỡn với tình yêu không đứng đắn. Richar uống rượu và đánh lộn với một thương gia và bị tống cổ ra khỏi quán rượu. Cha của Richar hiểu và thông cảm với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại quân bình. Nhờ một tin mật, Richar được biết Muriel thực sự yêu chàng. Chàng quyết định hối cải và đợi nàng.
Đó là cốt truyện một vở hài kịch Eugne – O’neil viết vào năm 1933 tựa đề “Ah Wilderness “ (Nơi hoang tàn) vở kịch được trình diễn rộng rãi vì nó phát hoạ một hoàn cảnh chung, rất nhân bản trong đời sống hàng ngày, nó vẽ nên phần nào cảnh hoang dại mà chúng ta đang sống.
Bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng Đức Giêsu đã ở trong sa mạc, nơi hoang dã 40 ngày đêm. Đó là lý do cho 40 ngày mùa chay. Sa mạc là nơi trú ẩn của thần dữ. Thú dữ, tượng trưng cho sự dữ mà Đức Kitô đã đến chế ngự. Tại sao chúng ta đọc bài Tin Mừng này vào Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay. Có gì liên hệ giữa nơi hoang dã Chúa Giêsu đã sống trong Mùa chay đầu, với bạn và tôi trong Mùa chay này. Đơn giản thôi, chúng ta đang sống trong một nơi “hoang dã” một thế giới ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức con người. Có gì hung dữ hoặc xấu xa hơn sự tàn bạo của con người thời đại – sát nhân không gớm tay cướp giật, đốt nhà, ngược đãi trẻ em. Có con thú dữ nào giết hại hàng triệu người mỗi năm? việc phá thai làm đúng như thế đó. Thú dữ hình người trong hoang địa của chúng ta đang phá huỷ không những sự sống thể xác, mà còn đặc biệt sự sống tinh thần của những người gần chúng ta và thân yêu của chúng ta nữa; Xin kể một vài con thú xấu xa đó: người quảng cáo ma tuý, người xuất bản sách báo đồi truỵ, những tác giả chuyện phim và chương trình truyền hình.
Không có cách nào để kiềm chế những kẻ tàn phá thể xác và tâm hồn này sao? Dạ có, phương cách của Đức Giêsu có nhiều sự dữ Chúa Kitô đến cứu chữa. Lý do chính Chúa vào nơi hoang địa là để chiến thắng những sự dữ này bằng đền tội và cầu nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng sự dữ trong thế giới ngày nay. Chỉ bằng lời cầu nguyện xin Chúa giúp, bằng sự hy sinh để tỏ lòng mến Chúa. Chúng ta có thế kiềm chế, thuần hoá những thú dữ ở giữa chúng ta. Chúng ta cũng có thể kiềm chế những thú tính trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Thời gian bắt đầu việc này là mùa chay. Trong tinh thần chúng ta hãy cùng sống với Đức Giêsu trong “hoang địa” ngày nay. Với Người, chúng ta thống hối và cầu nguyện. Như thế, cũng như người đã chiến thắng sự dữ trong thời của Người, chúng ta cũng sẽ chiến thắng sự dữ trong hoang địa hiện đại của chúng ta. Xin Chúa chúc lành bạn.
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CMC)
Mùa Chay bắt đầu vào thứ 4 Lễ Tro, là ngày bắt đầu của một chu kỳ Phục Sinh, một chu kỳ đầy sức sống hạnh phúc. Mùa Chay còn được gọi là mùa “Chữa bệnh” hơn là mùa “đền tội”. Mùa Chay theo thể lý, người ta sẽ hãm mình, hãm các đam mê thể xác, bớt ăn uống theo sở thích… Đó là một hình thức tìm lại sự quân bình cho thân thể (Chữa bệnh phần xác).
Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng tìm cách hãm dẹp những tính mê nết xấu (như thích vui chơi đàng điếm, ham mê rượu chè, thú cờ bạc…), hãm dẹp những tư tưởng bất chính (trả thù, ghen ghét, hằn học, gian lận, biếng nhác…), để tìm lại một tâm hồn thảnh thơi an bình (Chữa bệnh phần hồn).
Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng không quên gia tăng lòng đạo hạnh qua việc chu toàn bổn phận tinh thần: Đọc thêm kinh sách, cầu nguyện, tham dự các giờ Thánh Lễ, Phụng vụ chung, hành hương kính viếng nơi thánh, dành thêm thì giờ làm việc thiện, giúp đỡ mọi người, bố thí cho người nghèo….
Trong Mùa Chay ta bắt chước Chúa, lắng đọng tâm hồn như đi vào rừng vắng để dễ cầu nguyện, xây dựng đời nội tâm thêm mạnh mẽ, để có đủ sức chiến đấu với mọi cám dỗ trong đời. Chúa Kitô trước khi thi hành sứ mệnh tông đồ, Ngài vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi và cầu nguyện, đồng thời qủi đến cám dỗ Ngài.
Việc ma qủi cám dỗ Chúa thực là một việc thánh, vì Ngài đã kể những cách cám dỗ nơi chính mình cho chúng ta có kinh nghiệm. Các cám dỗ đem đến cho Ngài cũng không phải là loại cám dỗ thường tình của người đời: Hóa phép cho đá thành bánh – Nhẩy từ trên nóc đền thờ xuống mà không chết. Chỉ có một cái cám dỗ giống loài người là ham danh vọng: Quì xuống tôn thờ ma qủi để đoạt được quyền uy thế phiệt. Ma quỷ đoán Ngài phải là một nhân vật rất thánh, thánh khác thường, vì nó thấy Ngài cầu nguyện và suy nghĩ bằng những năng lực phi thường (khác lối suy nghĩ và cầu nguyện của loài người), để tìm cách chinh phục các linh hồn, nên nó dùng phương pháp cám dỗ cũng khác thường như vậy.
Những cám dỗ này chắc cũng không phải xẩy ra một lúc, mà suốt 40 đêm ngày suy nghĩ và ma quỷ đã đến đưa phương thế giúp Ngài giải quyết.
- Đưa đá cho Chúa, ma quỷ giải quyết rằng Ngài có thể dùng quyền năng phi thường của mình mà biến hóa vật chất nên của quí giá làm lòa mắt người trần, đánh mạnh vào lòng ham thích vủa cải sang trọng, để lôi kéo họ theo mình. Vì nhân loại thường dùng quyền thế, chức vị danh vọng để sai khiến nhau.
- Cho Ngài xem thấy tất cả thế gian, ma qủy giải quyết rằng việc cai trị cả nhân loại không khó gì, chỉ cần qùy xuống xin hắn, thì hắn cho đủ quyền cai quản đó. Vì nhân loại dễ dàng chấp nhận quy phục gian tà để có quyền gây thanh thế trên người khác. Chúa dạy phải công chính hóa đời mình và chỉ phục quyền Đấng có quyền thật.
- Trong cám dỗ thứ ba chúng giải quyết: Cứ nhảy xuống mà không việc gì, sẽ làm cho dân chúng thấy rùng rợn mà theo, vì phép tắc của Ngài không ai có thể vượt được. Vì nhân loại vẫn hay dùng lối bùa phép này để dọa nạt người khác, nhưng Chúa dạy không lừa dối, gạt gẫm người ta.
Trên đường theo Chúa, giữ đạo, đôi khi chúng con thấy mình khó thắng các cám dỗ quá. Xin Chúa thêm sức mạnh để chúng con có thể thực hiện điều Chúa dạy cách bền chí.
Nhạc Trịnh Công Sơn rất triết lý. Mùa Chay lại về, tôi thích nghe bài ca “Cát Bụi”:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy.
Ôi cát bụi tuyệt vời, mặt trời soi một kiếp rong chơi.
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi.
Ôi cát bụi mệt nhoài, tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.
Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày.
Cát bụi, con người chỉ là cát bụi, hạt bụi tuyệt vời khi hoá kiếp thân tôi, hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Khi dùng hình ảnh hạt bụi để nói về thân phận con người, Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã lấy nguồn cảm hứng trong Thánh Kinh Sáng Thế: Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng Adam, sau khi Adam phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi (x St 1,26-3,24)
Nghĩ cho cùng, tất cả mọi người cũng chỉ là những hạt bụi hoá thân thành kiếp nhân sinh,sớm muộn cũng sẽ tàn lụi với thời gian. Do đó nỗi khắc khoải ngàn đời của con người là tìm kiếm ý nghĩa của sự hiện hữu, ý nghĩa của đau khổ, ý nghĩa của giải thoát, ý nghĩa của cuộc sống.Vấn nạn mà con người chưa tìm được câu trả lời:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi?
Hạt bụi nào hoá kiếp thân bạn?
Và Hạt bụi nào hoá kiếp thân xác chúng ta?
Một vòng quay,một trăm năm, một kiếp người có là mấy! “Chợt một chiều tóc trắng như vôi”, không phải là trắng như bông, như mây hay như tuyết mà là như vôi đổ xuống huyệt mồ. Cha Nguyễn Hồng Giáo đã nhận định: Trịnh Công Sơn không bi quan, ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người; cuộc đời đẹp biết bao, sự sống cao quý biết dường nào, nhưng nó cũng như “đoá hoa vô thường”. Đó là một thực tế, nhìn nhận và đối diện với nó cách can đảm để có thể đưa tới một cuộc sống tốt đẹp hữu ích và có ý nghĩa.
Mùa Chay muốn nhắc nhở chúng ta quay về với sự thật của thân phận con người “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro,một mai rồi sẽ trở về bụi tro…”. Phụng vụ Giáo Hội muốn diễn tả rằng: cuộc đời này mong manh vắn vỏi, bởi thế nó rất hệ trọng. Số phận đời đời của mỗi người được quyết định trong thời gian tạm bợ này. Người theo Đạo Phật thì tin ở sự đầu thai kiếp sau, luân hồi nghiệp báo.Nhưng người Kitô Hữu thì không,vĩnh cữu được gieo mầm trong hiện tại,đừng để thời gian trôi qua cách phung phí, đời người chỉ có một lần, được – mất chỉ có một cơ hội.
Thân phận mỏng dòn mà Phụng vụ Mùa Chay nhắc cho chúng ta đừng quên,không phải chỉ có liên quan đến phần xác hay chết của phận người mà còn cả về mặt tinh thần cũng mong manh yếu đuối. Thánh Phaolô đã diễn tả kinh nghiệm đó trong thư Roma “Điều tôi muốn làm thì tôi lại không làm, nhưng điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm… Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn tôi lại cứ làm…Tôi khám phá ra luật này là khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.Theo con người nội tâm tôi vui thích vì luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tôi…tôi thật là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết này?” (Rm 7,15.19.21-24).
Ý thức về sự yếu đuối và tội lỗi của mình,về khuynh hướng xấu, sự bất lực nơi bản thân để mỗi người nổ lực giải thoát khỏi sự thống trị khắc nghiệt của tội lỗi và đó là khởi đầu cho ơn hoán cải và ơn cứu độ.
Mùa Chay mời chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu. Sa mạc là nơi hoang vu trơ trọi,mênh mông, đó người ta mất hết mọi điểm tựa, không còn chi để “chia trí,lo ra”, chẳng hạn như ngoại cảnh ồn ào, các hoạt động, các thú vui, các quan hệ xã hội; chỉ còn Ta với Ta và buộc Ta phải quay về với mình trong sự đơn độc của chính mình.Trong sự quay về đó Ta có cơ may nhìn thấy những điều cốt yếu nhất khi đối diện với chính lòng mình.
Con người chúng ta thường sống hời hợt bên ngoài, tan loãng ra trong trăm thứ linh tinh hay phụ thuộc khác. Mùa Chay mời gọi chúng ta đi vào sa mạc, nghĩa là tạo một sự trống vắng nào đó, một sự thinh lặng của các giác quan, của trí khôn và của cỏi lòng, một sự rút lui vào trong tâm khảm mình để có thể phân định đâu là cái chính – cái phụ, đâu là cái cùng đích và cái phương tiện. Đây chính là lúc hồi tâm.
Biềt mình mỏng dòn, nhưng con người theo Phụng vụ Mùa Chay lại không phải là con người mềm yếu, uỷ mị, ngã nghiêng theo mọi lời mời mọc cám dỗ, mà đó là con người dũng cảm chiến đấu. Như Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời hoạt động công khai, Chúa vào sa mạc và tuyên chiến với Satan tức là với mọi mãnh lực của sự ác một cách không khoan nhượng và Ngài đã chiến thắng. Người Kitô Hữu là người biết nói không, là người dám bơi ngược dòng. “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ,anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Người Kitô hữu không cố ý sống lập dị, khác người, song đứng trước điều xấu, dù là khi cả xã hội đều làm điều xấu đó, họ vẫn không được ngã theo. Họ phải can đảm từ chối một cơ hội làm giàu bất chính, một liên minh bất công, một mối quan hệ tội lỗi…. Dĩ nhiên điều đó không dễ chút nào, nhưng đã là môn đệ Đức Giêsu, họ không có chọn lựa nào khác.
Con người theo Phụng vụ Mùa Chay biết mình tự thân chỉ là cát bụi,nhưng là “cát bụi tuyệt vời “. Nó vẫn tuyệt vời ngay khi trở về với cát bụi trong một chiều ” lá úa trên cao rụng đầy “, chứ không phải chỉ tuyệt vời khi “vươn hình hài lớn dậy ” mà thôi.
Đức tin dạy cho chúng ta biết rằng “Hạt bụi” là chúng ta, được tình yêu Thiên Chúa gọi vào hiện hữu và chia sẽ sự sống bất diệt của Người. Kiếp người cho dù có đau thương, có bi đát, đôi lúc tưởng chừng bóng tối lấn lướt ánh sáng,nhưng cuối cùng sự sống, chân lý, tình thương vẫn mạnh hơn tất cả.
Ước gì mỗi người Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của bản thân; luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa, sống Mùa Chay thánh thiện để đón nhận nhiều Ơn Phúc Chúa ban.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Người Eskimo nghĩ ra một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy da chúng làm y phục.
Người ta dùng một con dao cực bén và nhúng lưỡi dao ấy vào máu súc vật, rồi đem dang ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại chung quanh. Họ lặp lại động tác đó nhiều lần cho đến khi con dao được bọc quanh bằng khối máu lớn như quả xoài.
Đợi đến khi trời tối, thợ săn đem con dao bọc máu đó ra cắm giữa đồng hoang. Với tài đánh hơi bén nhạy, loài sói sẽ phát hiện rất nhanh mùi máu tươi và sẽ chạy đến liếm tới tấp vào cục máu đông đó cho đến khi lưỡi dao lộ ra cứa đứt lưỡi chúng. Một khi lưỡi bị cứa đứt nhiều đường, máu từ lưỡi ứa ra và chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng máu của mình mà không hay biết. Càng liếm hăng, lưỡi càng bị cứa sâu hơn và nhiều hơn khiến máu chảy thành dòng kết thúc cuộc đời lũ sói tham ăn.
Cám dỗ trong đời người
Có thể nói: con người là con vật phải đương đầu với nhiều cơn cám dỗ nhất. Cám dỗ của miếng ăn, cám dỗ của thức uống (rượu, bia), của thuốc lá, ma tuý, cần sa, cám dỗ của thú vui nhục dục, của tiền bạc, của địa vị, công danh và vô vàn hình thức cám dỗ khác.
Người ta bị thu hút, bị lôi cuốn vào các cơn cám dỗ như con sói tham lam lao vào liếm cục máu bọc lưỡi dao, như những con thiêu thân lao vào lửa và hậu quả là con người trở nên mềm yếu, bạc nhược, bị lôi cuốn vào dòng thác dục vọng như cánh bèo nhỏ bé bị cuốn phăng phăng giữa dòng nước lũ hung tàn.
Không rõ con sói một khi biết có lưỡi dao bén ẩn dấu trong cục máu đông có còn dám tiếp tục liếm cục máu đó nữa không, nhưng đối với nhiều người thì dù biết chắc chắn rằng đằng sau những lạc thú có ẩn dấu lưỡi dao thần chết thì họ vẫn cứ tiếp tục hưởng thụ những thứ đó đến cùng rồi mượn lời thơ Xuân Diệu để tự biện minh rằng: “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” (Xuân Diệu)
Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như chúng ta.
“Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. (Philip 2, 6-7)
Vì trở nên người phàm như chúng ta, “Chúa Giêsu đã từng chịu thử thách về mọi phương diện như chúng ta’ (Do-thái 4,15).
Qua đoạn Tin Mừng được trích đọc trong thánh lễ hôm nay, thánh sử Mác-cô cho biết Chúa Giêsu đã vào hoang địa bốn mươi ngày và Người đã thực sự bị Xa-tan cám dỗ. (Mác-cô 1, 12-13)
Điều đặc biệt là dù phải bị cám dỗ trăm bề về mọi phương diện như chúng ta, Chúa Giêsu không bao giờ thua cuộc, không bao giờ sa chước cám dỗ. Người đã chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ và luôn trung thành đi theo đường lối của Thiên Chúa Cha cho đến cùng.
Cùng chiến đấu chống lại cám dỗ với Chúa Giêsu.
Trâu bò tuy to khoẻ nhưng dễ dàng bị chế ngự bởi một đứa bé cỏn con khi người ta xỏ mũi được chúng. Con người dù có hùng mạnh đến đâu, nhưng một khi bị “xỏ mũi” bởi các đam mê tội lỗi, thì cũng phải ngoan ngoãn lội xuống bùn, sa xuống vực vì sức kéo của những đam mê và dục vọng xấu xa đen tối.
Mỗi người có một tử huyệt, một chỗ hiểm riêng. Nơi người nầy là lỗ miệng tham ăn tham uống, nơi người khác là bệnh háo sắc hay thói tham danh hám lợi, nơi người khác nữa có thể là lòng ích kỷ, hận thù, ghen ghét, kiêu căng…
Người đi câu luôn biết lựa mồi hợp sở thích của cá; cũng vậy ma quỷ có thừa khôn ngoan để chọn những mồi bả phù hợp “khẩu vị” của từng người và nhắm tấn công vào đúng tử huyệt của chúng ta.
Trong mùa chay, Chúa Giêsu và Giáo Hội kêu mời chúng ta đi vào cõi thinh lặng của tâm hồn để nhìn lại lòng mình, rà soát tâm tư mình, xét xem những đam mê nào, những xu hướng tội lỗi nào đang chi phối đời ta mạnh nhất (đó là những tử huyệt cần canh phòng che chắn). Chính những đam mê và xu hướng đó là động cơ xô đẩy con sói tham ăn lao vào chỗ chết; và cũng chính những động cơ đó đã huỷ hoại cuộc đời ta, làm mất thanh danh phẩm giá cũng như giá trị cao đẹp của đời ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu cùng chiến đấu với chúng con trong mặt trận nguy khó nầy và ban ơn giúp sức để chúng con không bao giờ lùi bước trước bất kỳ cơn cám dỗ nào, nhưng kiên cường chiến đấu để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và những đam mê xấu xa đồng thời lập được nhiều chiến công vẻ vang như Chúa.
Để bắt đầu phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại trường hợp vượt ngục rất đặc biệt của một tù nhân. Đúng thế, ông ta bị nhốt trong một ngọn tháp thật cao và trong phòng thì lại không có một phương tiện nào để có thể leo xuống. Vậy ông ta đã làm gì?
Để vượt ngục, mỗi ngày ông ta chỉ nhổ có hai sợi tóc và xe lại với nhau. Sau một thời gian, ông ta đã làm được một sợi dây bằng tóc khá dài. Ông ta thả sợi dây tóc ấy xuống qua cửa sổ nhà tù. Ở dưới, một người bạn thân đã chờ sẵn. Người bạn này đã buộc một sợi chỉ dài vào đầu sợi dây tóc. Rồi cuối sợi chỉ, người ấy lại buộc thêm một sợi dây vải dài. Cuối sợi dây vải, người ấy buộc một dây thừng nhỏ và cuối sợi dây thừng nhỏ, người bạn ấy buộc một dây thừng to. Sau đó, tù nhân ở trên ngọn tháp cao bắt đầu kéo lên. Hết sợi dây tóc, thì nắm lấy sợi dây chỉ. Hết sợi dây chỉ thì nắm lấy sợi dây vải. Hết sợi dây vải, thì nắm lấy dây thừng nhỏ. Hết dây thừng nhỏ thì nắm lấy dây thừng lớn và ông ta đã dùng dây thừng lớn này để mà vượt ngục cách an toàn trong một đêm trời tối.
Kể lại câu chuyện này, tôi thấy đó cũng chính là đường lối ma quỉ vốn thường dùng để cám dỗ chúng ta. Thực vậy, rất ít khi ma quỉ cám đỗ chúng ta phạm tội trọng ngay từ lúc đầu. Nếu làm thế, ma quỉ sẽ khiến cho chúng ta sợ hãi. Nó cứ từ từ mà tiến. Lúc đầu nó chỉ cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ, rồi sau đó một lỗi lớn hơn và cuối cùng nó mới dẫn chúng ta đến tội trọng.
Chẳng hạn một anh chàng ghiền sì ke. Đâu có phải chỉ trong một sớm một chều mà đã ghiền như dân chuyên nghiệp. Lúc đầu nó cám dỗ anh ta lân la với những người bạn xấu, rủ rê anh làm thử một điếu cho biết mùi đời. Sau một điếu, rồi hai điếu, rồi ba điếu, để cuối cùng trở thành dân ghiền lúc nào cũng không hay biết. Chợt tỉnh và hối tiếc thì cũng đã quá muộn: Trót vì tay đã nhúng chàm, dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
Ma quỉ cũng cứ từ từ mà tiến. Nó không bao giờ cám dỗ chúng ta làm hai điều xấu cùng một lúc. Trai lại, sau khi cám dỗ chúng ta làm điều này, nó vẫn còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta lài điều kia. Từ cám dỗ này, nó đưa chúng ta đến cám dỗ khác và những cám dỗ khác nữa. Cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta phạm tội trọng.
Chẳng hạn nó cám dỗ một người rơi vào vòng cờ bạc. Sau khi đã mê cờ bạc, thì về nhà sẽ đánh vợ chửi con, làm cho gia đình bị tan nát. Và nếu gia đình nghèo, không có tiền để tiếp tục cuộc chơi, thì sẽ sinh ra gian tham và trộm cắp.
Suy nghĩ về trường hợp của Chúa Giêsu, chúng ta thấy ma quỉ cũng áp dụng một chiến thuật như thế. Nó không cám dỗ Ngài quì xuống thờ lạy Satan ngay lúc đầu. Trái lại, cám dỗ thứ nhất nó bảo Ngài làm phép lạ khiến những hòn đá trở nên bánh, để khơi dậy những ước muốn về của cải vật chất. Cám đỗ thứ hai nó bảo Ngài gieo mình xuống khỏi nóc đền thờ, để khơi dậy những ước muốn về quyền hành. Và sau cùng nó mới bảo Ngài quì xuống thờ lạy nó, để khơi dậy sự chối bỏ Thiên Chúa.
Đối với chúng ta cũng vậy, nó không cám dỗ chúng ta ăn cắp một món tiền lờn, khi chưa đưa chúng ta vào thói quen ăn cắp lặt vặt, như tục ngữ đã bảo: Bé không vin, cả gẫy ngành. Bé ăn cắp một trái trứng, thì lớn lên sẽ ăn cắp một con bò.
Bởi đó, đừng khinh thường những sai lỗi nhỏ mọn. Rất có thể vì những sai lỗi nhỏ mọn hôm nay mà ngay mai chúng ta sẽ quay phản bội cùng Chúa.
Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa, Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày và chịu Satan cám dỗ. Hoang địa hay sa mạc là một chủ đề quen thuộc trong Kinh Thánh. Vậy thì nó có ý nghĩa gì?
Trước hết, hoang địa hay sa mạc là nơi thử thách. Thực vậy, đọc lại Cựu ước, chúng ta thấy dân Do Thái, trên đường trở về miền đất hứa, đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm. Trong thời gian này, trước những gian nan thử thách, họ đã bị cám dỗ rời bỏ Chúa để chạy theo những thần tượng ngoại lai. Và rất nhiều lần họ đã bị khuất phục, đã chịu thua để rồi quỳ gối thờ lạy con bò vàng, như chúng ta đã thấy.
Còn Chúa Giêsu thì khác, chính tại hoang địa, ngài đã bị Satan cám dỗ, nhưng cả ba lần Ngài đều chiến thắng. Sự chiến thắng của Ngài là một bài học, là một mẫu gương cho chúng ta suy nghĩ và bắt chước. Hãy khiêm nhường, hãy tin tưởng vào quyền năng Chúa và hãy sám hối ăn năn để chúng ta cũng sẽ vượt qua được những cám dỗ mà chúng ta gặp phải.
Charles de Foucauld đã tâm sự với cha Huvelin như sau: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi đã mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người từ sa mạc trở về và nói: Anh hãy quỳ gối xuống và xưng thú tội lỗi đã. Charles de Foucauld đã vâng lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, cuộc đời của vị sĩ quan bê tha tội lỗi này đã hoàn toàn đổi mới. Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa, thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì Ngài. Không phải chỉ là nơi thử thách, hoang địa hay sa mạc còn là nơi để chúng ta sống thân tình với Chúa.
Thực vậy, suốt bốn mươi năm trong sa mạc, dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương, thực hiện biết bao nhiêu việc kỳ diệu, chẳng hạn hướng dẫn họ bằng áng mây cột lửa, đưa họ qua biển đỏ, trao ban cho họ mười điều răn làm giao ước, nuôi sống họ bằng manna bởi trời, chữa họ khỏi hiểm họa rắn độc… Thế nhưng, dân Do Thái rất nhiều lần đã không hiểu được tình thương tuyệt vời ấy, để rồi đã quay lưng chống lại Chúa.
Còn Chúa Giêsu hôm nay, Ngài vào hoang địa để sống gắn bó mật thiết với Chúa Cha trong tâm tình cầu nguyện và chay tịnh. Còn chúng ta thì sao, Thiên Chúa thường nói với chúng ta trong thinh lặng và chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài. Đồng thời chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới tâm sự kết hiệp với Ngài. Bởi đó, giữa dòng đời huyên náo, chúng ta hãy biết dành lấy những khoảnh khắc thinh lặng để vào sa mạc, để vào hoang địa, bằng cách sống tâm tình cầu nguyện để kín múc được nguồn sinh lực, nhờ đó chúng ta sẽ vượt qua được những cám dỗ và thử thách của cuộc đời.
Sau khi Chúa Giêsu được Chúa Cha công bố là “Con yêu quý” thì “Thần Khí dẫn Người vào trong hoang địa. Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người”.
Thật là một đoạn văn lạ lùng! Tại sao đoạn này được đọc cho chúng ta nghe trong Chúa Nhật đầu Mùa Chay? Phải chăng vì nó nói đến thời gian bốn mươi ngày của Chúa Giêsu? Có lẽ đó là một lý do nhưng còn có những ý nghĩa khác nữa.
Trong chương hai của sách Sáng Thế, trình thuật sáng tạo bắt đầu trong nơi hoang vắng và Ađam kiểm soát các loài thú vật. Hoang địa là nơi dân Israel đã bị thử thách và bị cám dỗ sau khi thoát khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập và được tự do. Hoang địa cũng là nơi các loài thú dữ đe dọa những người lữ khách. Nó cũng được xem là nơi các quyền lực của thần dữ thống trị được biểu tượng qua các loài thú dữ. Hoang địa là nơi Satan, kẻ thù của Thiên Chúa, ngự trị.
Với cái nhìn như thế đoạn Tin Mừng lạ lùng hôm nay trở nên đầy ý nghĩa. Thần khí đưa Chúa Giêsu vào hoang địa: Chúa Giêsu đến không phải để sống một cuộc đời dễ dãi nhưng là một cuộc sống chiến đấu với tất cả những gì là sự dữ. Chính nơi mà dân Israel đã chịu thất bại thảm thương trong cuộc thử thách thì Chúa Giêsu sẽ chiến thắng. Cũng giống như Ađam trong vườn địa đàng xưa, Chúa Giêsu là Ađam mới cũng kiểm soát các thú dữ, tức là kiểm soát được sự dữ. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa chiến đấu với sự dữ, chiến thắng sự dữ và sáng tạo một cái mới.
Chúng ta cần rút ra bài học áp dụng khi đọc bài Tin Mừng này trong Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Cũng giống như Chúa Giêsu, sau khi chịu bí tích Rửa tội chúng ta vào trong “hoang địa’ của thế gian này, nơi chúng ta phải đương đầu với cám dỗ và sự dữ. Vấn đề là chúng ta đương đầu với hoang địa của chúng ta như thế nào? Chúng ta có vượt qua thử thách như Chúa Giêsu hay chịu thất bại như dân Israel ngày xưa? Chúng ta có đủ sức mạnh để loại bỏ mọi cám dỗ của Satan, kẻ muốn chúng ta chống lại Thiên Chúa, và trung thành với bổn phận mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta hay không? Chúng ta chế ngự và kiểm soát các thú dữ, tức là các đam mê, các dục vọng và thói quen xấu của chúng ta như thế nào?
Trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi này tôi có thể xác định được căn tính của tôi chưa? Tôi có hành động giống như ma quỷ, kẻ chống lại kế hoạch của Thiên Chúa, bởi vì tôi nghĩ là tôi biết rõ hơn không? Hay tôi giống như một con thú dữ, không nhận biết Thiên Chúa và cứ đi theo con đường bạo lực của mình? Hoặc tôi giống như các thiên thần, những vị trợ giúp Chúa Giêsu, để trung thành phụng sự Thiên Chúa và nhận ra vai trò của Chúa Giêsu trong kế hoạch của Thiên Chúa? Mặt khác, đoạn Tin Mừng này còn nhắc nhở cho chúng ta nhiều điều khác nữa đó là Satan luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta, nó chống lại Thiên Chúa và lôi kéo chúng ta theo nó. Các thú dữ, tức là những đam mê của chúng ta cũng làm cho chúng ta không lưu tâm gì đến Thiên Chúa nữa. Mặt khác, chúng ta cũng có các thiên thần luôn trợ giúp chúng ta trong việc phụng sự Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ đến nhiều vấn đề, đặc biệt là trong Mùa Chay này. Chúng ta hãy sống như Chúa Giêsu, can đảm, mạnh mẽ để sẵn sàng dâng hiến bản thân cho việc phụng sự Thiên Chúa và tha nhân.
Một ngày nọ, lạc đà con nói chuyện với lạc đà mẹ như sau, “Mom! Tại sao bàn chân của mẹ con mình lại có 3 ngón chân to tổ chảng vậy?” Lạc đà mẹ trả lời, “Để chúng mình băng qua sa mạc cát mềm mà không bị lún chứ làm sao!” “Và tại sao chúng mình có bộ lông mi dài lượt thượt và nặng nề quá vậy?” “Để cát khỏi rơi vào mắt trên những hành trình dài trong sa mạc đó con!” “Và Mom, tại saochúng mình lại phải mang những cái bướu quá bự trên lưng vậy?” Bây giờ thì lạc đà mẹ không còn kiên nhẫn nổi để trả lời những câu hỏi vớ vẩn của thằng con nữa, nhưng cũng cố trả lời, “Chúng nó giúp chúng mình dự trữ những chất béo cho những cuộc du hành dài, nhờ đó mà mẹ con mình không cần nước trong một thời gian rất lâu ở sa mạc!” “Đúng vậy, con biết rồi!” lạc đà con nói, “Chúng mình có ngón chân bự để không bị lún dưới cát, lông mi dài để tránh cát bụi khỏi rơi vào mắt, và những cái bướu trên lưng để chứa nước. Vậy thì, Mom! Tại sao chúng ta lại ở đây, trong cái sở thú của Toronto này?
Đời sống văn minh hiện đại làm cho chúng ta có cảm giác giống như con lạc đà trong sở thú. Chúa ban cho ta khối óc để suy nghĩ, nhưng bây giờ đã có máy computer nghĩ hộ chúng ta rồi! Chúa ban cho ta con tim để yêu thương tha nhân, nhưng đã có những cơ quan từ thiện làm việc bác ái rồi! Đôi khi chúng ta cần đi vào trong “sa mạc” để khám phá lại chúng ta thực sự là ai? Mùa chay mời gọi chúng ta đi vào trong cái cảm nghiệm của loại “sa mạc” này.
Sa mạc hay hoang địa là nơi sinh trưởng của dân Thiên Chúa. Dân Do Thái, là những bộ lạc tản mác tha phương đã trốn thoát khỏi đất Ai cập trở về miền Đất Hứa như một quốc gia dưới quyền lực của Thiên Chúa. Chính ở trong sa mạc mà họ đã trở thành dân Thiên Chúa với lời giao ước. Trong dòng lịch sử, khi nào tình yêu và lòng trung thành của họ đối với Thiên Chúa trở nên lạnh nhạt, thì các tiên tri đề nghị họ trở về sa mạc để khám phá lại cái căn tính của mình là ai, giúp họ ý thức về ơn gọi và sứ mệnh của mình, làm thức tỉnh đức tin và củng cố sự liên hệ đã giao ước giữa họ với Thiên Chúa. Những đại tiên tri như Elijah và Gioan Tẩy giả là những vị tiên tri của sa mạc: họ sống trong sa mạc, ăn thức ăn sa mạc, và chấp nhận một lối sống đơn sơ và khắc nghiệt trong sa mạc. Sa mạc là trường đại học nơi Thiên Chúa dạy dỗ dân Ngài.
Lời Chúa hôm nay trích từ Phúc âm của thánh Máccô. Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa, và Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú; và các thiên thần hầu hạ Ngài”. Phúc âm của Matthêu và Luca diễn tả quỷ dữ cám dỗ và thách thức Chúa Giêsu dùng quyền lực phục vụ cho nhu cầu riêng tư của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã khước từ và nói, “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi”. Còn Phúc âm của Máccô, thay vì diễn tả những chi tiết của sự cám dỗ, chỉ nói vắn tắt trong câu: “Sống chung với dã thú”. Dã thú là những con thú nào?
Theo các nhà tu đức thì những con dã thú đó không phải là những con dã thú ở bên ngoài chúng ta, nhưng ở trong lòng ta. Chúng là những con dã thú của bẩy mối tội đầu như kiêu ngạo, hà tiện, ghen tuông, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh.
Những quyền lực này đè nặng trên chúng ta khi chúng ta quyết định làm bất cứ việc gì. Đời người giống như cuộc sống giữa sa mạc với đầy những “dã thú”. Chúng ta bị vây hãm xung quanh bởi một bên là những hoàn cảnh khó khăn, còn một bên là những cám dỗ mời gọi. Chúng ta cần sức mạnh để chống lại những thù nghịch, những gì đang tạo ra cho chúng ta một cảm giác an bình giả tạo. Hôm nay chúng ta thử đối diện với “những con dã thú” mà chúng ta thường xuyên phải chiến đấu trong đời sống tâm linh.
- Sự ngã lòng.
Nếu ví cuộc đời giống như sa mạc, nơi hoang địa với nhiều dã thú, khó khăn và chông gai, thì chúng ta cảm thấy phải chiến đấu thường xuyên và liên tục. Cuộc đời chất đầy những gánh nặng và đòi hỏi. Không bao giờ giải quyết hết các chuyện rắc rối. Lúc nào cũng có vấn đề. Nhưng chúng ta phải lưu ý rằng trong khi Chúa Giêsu sống với các dã thú thì Thánh Kinh nói rằng “các thiên thần hầu hạ Ngài”. Nói cách khác, Chúa Giêsu không cô đơn, một mình. Ngài đã chiến đấu với dã thú bằng sự hiện diện và sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài có sức mạnh, tràn đầy sức mạnh. Sức mạnh của Thiên Chúa hướng dẫn: “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa”. Chính Chúa Thánh Thần và các lực lượng thiên thần cũng sẽ hướng dẫn và gia tăng sức mạnh cho chúng ta chiến đấu kiên trì với những khó khăn và cám dỗ trong cuộc đời.
Selma Lagerloeff trong huyền thoại “The Flanme”, đã kể câu chuyện về chàng hiệp sĩ, sau cuộc chiến thành công vào Thánh Địa, anh đã làm một lời thề hứa. Anh thắp lên một cây nến lấy từ ngọn lửa thánh tại ngôi mộ của Chúa Giêsu, và mang nó trở về quê quán của anh ở tỉnh Florence, nước Ý Đại Lợi mà vẫn còn cháy sáng. Quyết định này đã biến đổi anh trở thành một con người mới. Nó biến đổi anh từ một người lính hiếu chiến thích đánh nhau trở thành một con người yêu chuộng hòa bình.
Trên đường trở về nhà chàng hiệp sĩ đã bị bọn cướp bóc lột, anh đã không rút gươm ra chống cự. Anh đã hứa cho chúng bất cứ những gì anh có miễn là chúng không dập tắt ngọn nến cháy của anh. Bọn cướp đã tước đoạt áo giáp, thanh gươm, con ngựa yêu quý và tiền bạc của anh. Chúng chỉ để lại cho anh một con ngựa già. Sau khi đã trải qua tất cả các kinh nghiệm của sự nguy khốn, anh đã cưỡi con ngựa già về đến Florence. Để bảo vệ ngọn lửa không bị tắt bởi những cơn gió trong sa mạc, anh đã phải ngồi quay lưng lại với con ngựa, và dùng thân mình để che chở cho ngọn lửa.
Khi những tên đểu cáng trong thị xã trông thấy anh cưỡi ngựa ngược như vậy, chúng nghĩ anh là một tên điên khùng, và ra sức đùa nghịch để dập tắt ngọn lửa. Nhưng anh đã làm tất cả sức mình để có thể giữ ngọn lửa cháy sáng. Và sau cùng, anh đã mang nó về đến nhà thờ chính tòa, và dùng nó để thắp lên tất cả những cây nến trên bàn thờ của nhà thờ chính tòa Florence. Khi người đốt đèn ở nhà thờ hỏi anh đã phải làm gì để giữ ngọn lửa khỏi tắt, anh trả lời, “Ngọn lửa nhỏ bé này sẽ đòi hỏi tất cả sự chú tâm của anh; nó sẽ không cho phép anh nghĩ về bất cứ điều gì khác. Và anh sẽ không có thể cảm thấy an toàn một giây phút nào cả. Anh phải luôn luôn chiến đấu. Bất kể là ngọn lửa có thể đã bảo vệ anh tránh khỏi biết bao nhiêu nguy hiểm, anh phải luôn tỉnh thức để ngăn ngừa ngọn lửa không bị đánh cắp mất khỏi anh”.
- Sợ hãi
Nỗi sợ hãi lớn nhất cho người bộ hành trong sa mạc là mất phương hướng, không biết đường đi. Cái nhìn của họ trở nên mờ ảo. Họ nhìn ánh nắng chói chan trước mắt như là những ao hồ mông mênh ngập nước. Ao giác làm cho con người trở nên nghi ngờ, mất niềm tin, và sau cùng dẫn đến hoang mang sợ hãi. Chỉ có đức tin và lòng trông cậy phó thác mới chiến thắng được sợ hãi. Tin rằng Thiên Chúa luôn yêu thương ta và muốn điều tốt đẹp nhất cho ta. Tin vào một Thiên Chúa luôn ở bên ta, đi với ta cho dù gian nguy. Tin rằng quỷ dữ không có quyền lực gì trên ta, nó chỉ có quyền vì ta ban cho nó mà thôi. Nó không thể bắt chúng ta làm điều gì được, ngoài sự cám dỗ cho chính chúng ta phạm tội. Chúng ta có tự do để từ chối, có sức mạnh để chống trả.
“Đừng sợ!” là sứ điệp nhắc đến trên 300 lần trong Phúc âm. Khi Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước đến với các môn đệ, các ông hoảng sợ, Ngài nói: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” Thiên thần Gabriel đã nói với Đức Maria: “Hỡi Maria, xin đừng sợ!” Thiên thần cũng đã nói với Giuse: “Đừng sợ đón Maria vợ ông về”. Vào ngày sống lại, Chúa Giêsu cũng đã hiện ra với các tông đồ và nói: “Sao anh em lại hoảng sợ… Chính Thầy đây mà!”
- Sự tiêu cực
Đây chính là thái độ khiến chúng ta không thể thành công khi làm bất cứ việc gì, hay bất cứ việc gì chúng ta đang làm cũng sẽ đi sai lệch. Gần đây tôi lắng nghe một cuốn băng cát-sét do một nhà giảng thuyết nổi tiếng tên là Zig Ziglar. Ziglar nói rằng điều ngăn ngừa chúng ta khỏi niềm hy vọng và sự tích cực về cuộc đời chính là thái độ của chúng ta. Thái độ tiêu cực có tính cách truyền nhiễm giống như cơn bệnh nhiễm trùng. Chúng ta càng tiêu cực bao nhiêu thì tình huống càng trở nên thống khổ và hỗn loạn bấy nhiêu. Thái độ tích cực lúc khởi sự của một ngày, hay của bất cứ công việc gì sẽ định hình cho tất cả phần còn lại của trọn cả một ngày hay sự thành công của công việc sẽ kéo dài về sau.
Frederick Ebright đã chia sẻ kinh nghiệm đối với thái độ tâm lý của mình như sau: “Khi tôi cảm thấy thật buồn, tôi viết một lá thư cho người bạn nói với người ấy tất cả những chuyện rắc rối của tôi. Tôi không gửi lá thư đó đi. Nhưng tôi bắt đầu viết lá thư thứ hai gửi cho cùng một người, trong đó tôi cẩn thận bỏ đi bất cứ điều nào đã đề cập đến những điều không may, và thay vào mỗi rủi ro đó một chút tin vui. Vào lúc lá thư này được viết ra, một phép lạ đã xảy ra: tôi thực sự cảm thấy tốt hơn. Và vì một lá thư vui tươi luôn luôn phát sinh ra một sự đáp trả phấn khởi, tôi đã hoàn tất một mục đích lưỡng tiện”.
Mùa chay là thời gian để cảm nghiệm về sa mạc hay hoang địa. Chúng ta không cần phải có lạc đà đi vào sa mạc, nhưng chúng ta có thể tạo ra một khoảng không gian hoang địa cho chúng ta ngay giữa những xô bồ ồn ào của cuộc sống. Hằng ngày chúng ta có thể tìm ra một chỗ, dành ra một chút thời gian một mình với Thiên Chúa. Nơi yên tĩnh chúng ta sẽ biết mình là ai, biết những điểm mạnh và điểm yếu, biết “thiên thần” xung quanh cùng “những con dã thú”, lắng nghe tiếng Chúa gọi và lời cám dỗ của Satan, khám phá lại chúng ta là ai trước mặt Thiên Chúa.
Buổi chiều ngày cuối tháng 10 thường được người Mỹ và các nước có ảnh hưởng của Mỹ gọi là Halloween, có nghĩa là ngày mừng lễ các thánh. Có lẽ đã là điều còn rơi rớt lại của những ngày lễ ngoại giáo bắt nguồn từ thời của những người Santies trước Công Nguyên mà ngày lễ vọng các thánh mang một màu sắc ảm đạm ma quái. Trong các cửa tiệm, trưng bày những mặt nạ quái dị, những hình nộm được tô vẽ với một bộ mặt của thần chết, những màng nhện trắng xóa giăng ra khắp nơi, các đồ chơi của trẻ em cũng được khoác lên những nét ma quái, kinh dị, trên màn ảnh truyền hình cũng như tại các rạp chiếu bóng, đa số các phim trình chiếu đều mang nội dung quái đản, kinh dị.
Buổi tối ngày Halloween, thanh niên thiếu nữ thường cải trang thành ma quái để đi từng nhà ca hát và kể cho nhau nghe những chuyện ma quái. Phải chăng mỗi năm, người ta muốn dành một ngày để nhắc nhớ đến sự hiện hữu và tác quái của thần dữ? Nhưng ngày nay người ta còn ý thức được tội lỗi và sự tác động của thần dữ, tức là ma quỷ hay không? Thi sĩ Bô-đơ-le của Pháp đã có lần nói: “Sự thành công của ma quỷ là thuyết phục được con người rằng chúng không hề hiện hữu”. Với những khám phá mới trong ngành tâm lý học cũng như bệnh lý học, người ta cho rằng tất cả những vụ quỷ ám mà Thánh Kinh nói đến đều chỉ là những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn mà ngày nay con người có thể tìm ra nguyên nhân.
Với luận điệu ấy, con người ngày nay tự hào là đã loại trừ được ma quỷ ra khỏi cuộc sống. Rất tiếc con người ngày nay ít được chứng kiến những vụ quỷ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Tuy nhiên, dù muốn dù không, tất cả đều không thể từ chối có một sức mạnh luôn tác động trong tâm trí con người, lôi kéo con người đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi, mãi mãi câu nói của thánh Phaolô vẫn đúng trong kinh nghiệm của mỗi người: “Điều thiện tôi muốn làm thì tôi không làm, điều ác tôi không muốn làm thì tôi lại làm”. Có một sức mạnh vô hình nào đó luôn lôi kéo, xúi giục con người vào tội ác, sức mạnh vô hình đó chính là Satan, là ma quỷ, và chiến thuật hay phương thế ma quỷ sử dụng để lôi kéo, xúi giục chúng ta phạm tội là cám dỗ.
Ma quỷ thường cám dỗ chúng ta thế nào? Ma quỷ rất khôn khéo, quỷ quyệt và kiên nhẫn, vì chúng là các thiên thần sa ngã. Chúng áp dụng nhiều chiến thuật và nhiều cách thế khác nhau, tùy tuổi tác, tính tình, tùy hoàn cảnh để xúi giục chúng ta nghe theo chúng mà phạm tội. Rất ít khi ma quỷ cám dỗ chúng ta phạm tội ngay từ đầu, vì làm thế chúng ta sẽ sợ hãi không dám phạm, nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ trước, rồi mới dẫn chúng ta đến chỗ phạm tội trọng. Đàng khác, không bao giờ ma quỷ cám dỗ chúng ta làm hai điều một trật, để chúng còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta phạm tội kia, nghĩa là chúng cám dỗ thế nào để từ cơn cám dỗ này đưa đến một cơn cám dỗ khác, rồi một cơn cám dỗ khác nữa, và cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta sa ngã và phạm tội.
Về chiến thuật cám dỗ của ma quỷ, người ta thường kể câu chuyện sau: ma quỷ khôn khéo như một phạm nhân bị giam trên một cái tháp rất cao, không thể nào trèo xuống được, vậy mà anh ta đã thoát thân được bằng một cách rất tài tình: mỗi ngày anh nhổ hai sợi tóc và xe lại với nhau, sau một thời gian anh đã có một sợi dây tóc dài, anh thả xuống qua cửa sổ, bên dưới, người bạn của anh buộc một sợi dây lụa rất nhẹ vào đầu sợi dây tóc, cuối sợi dây lụa lại buộc một sợi dây gai, cuối sợi dây gai lại buộc một sợi dây thừng nhỏ, cuối sợi dây thừng nhỏ là một sợi dây thừng lớn, bằng sợi dây thừng này, phạm nhân đã tụt xuống đất trốn thoát được. Đó chính là đường lối cám dỗ mà ma quỷ áp dụng, chúng ta giam các dục vọng của chúng ta, nhưng ma quỷ giúp các dục vọng đó vượt ngục dần dần. Trong thực tế chúng ta không thấy rõ thứ tự hay tiến trình tuần tự như thế, nhưng nói chung, tất cả các cám dỗ phạm tội đều như vậy.
Chúng ta phải xử trí ra sao khi bị cám dỗ? Đành rằng ma quỷ cám dỗ chúng ta, nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỷ và xác thịt, đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỷ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình, đồng ý của chúng ta hay không? Tức là chúng ta có chấp nhận hay ngả theo những chước cám dỗ hay không, đó là chính ý chí của chúng ta. Vậy, trước hết, chúng ta phải đề phòng và xa tránh các dịp nguy hiểm, các cơ hội, các lý do, các hoàn cảnh, những người, những vật… có thể đưa đẩy chúng ta đến chỗ phạm tội. Rồi, nếu bị cám dỗ, chúng ta phải mau lẹ chống trả ngay từ đầu, chống trả cách cương quyết, đừng chần chừ, trì hoãn, và nhất là phải cầu nguyện nhiều để xin Chúa ban ơn trợ giúp. Nếu chẳng may thất bại, nghĩa là sa chước cám dỗ, phạm tội, chúng ta phải lập tức đứng dậy ngay, nghĩa là hối hận, ăn năn, xưng tội, xin Chúa tha thứ và cố gắng hơn nữa để khỏi tái phạm.
Chúng ta chẳng ai thoát khỏi cám dỗ, chỉ khác nhau ở chỗ có sa chước cám dỗ hay không, vì vậy, trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải luôn cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ. Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi ác thần, xin giúp chúng con khỏi sa chước cám dỗ. Chúng ta phải luôn cầu xin Chúa như thế, nhất là khi gặp chước cám dỗ. [Mục Lục]
Vào tháng 5 năm 1980, tuần báo Time có đăng tải câu truyện nổi tiếng mang tựa đề “Đứa Con Của Kẻ Vô Thần Tìm Thấy Thiên Chúa”. Đứa con đó là William Murray. Khi Murray đi học, mẹ cậu là bà Madalyn Murray tại Baltimore, Maryland, đã ra toà kiện chống việc cầu nguyện và đọc Thánh Kinh trong các trường học công cộng. Vụ án này đã được đến tận Toà Án Tối Cao Pháp Viện, và kết quả là mọi hình thức cầu nguyện và đọc Thánh Kinh tại các trường học công cộng của toàn quốc Hoa Kỳ phải chấm dứt.
Sau này khi lớn lên, Murray còn tiếp tục thành lập các cuộc vận động chống đối Thiên Chúa bằng việc cho xuất bản những tạp chí vô thần.
Thế nhưng, Murray đã được ơn trở lại. Một đêm vào trước Lễ Giáng Sinh, William Murray nằm mơ một giấc mộng tỏ tường về Thánh Kinh. Giấc mơ này đã thức tỉnh ông. Cảm nghiệm của giấc mơ này thật xúc động, đến nỗi ông đã chỗi dậy ra khỏi giường và lái xe đến một tiệm sách tại San Francisco. Ông viết: “Tôi đã tìm thấy cuốn Thánh Kinh. Tôi lái xe về nhà và đọc Phúc Âm theo Thánh Luca. Tại đây, tôi đã tìm thấy… Đức Giêsu Kitô.” Từ đêm hôm đó, cuộc sống của Murray được biến đổi.
Sau khi trở lại, ông viết một bức thư cho tờ báo Baltimore Sun. Ông xin lỗi với toàn thể dân chúng về việc ông đến Toà Tối Cao Pháp Viện xin cấm việc cầu nguyện và đọc Kinh Thánh tại các trường học Hoa Kỳ. Ông nói trong bức thư: “Trong khi suy xét lại cuộc đời 33 năm sống ngoài đức tin, tôi chỉ còn biết cầu xin, với sự phù giúp của Chúa, cho tôi được hoàn chỉnh lại những lầm lỗi và điều xấu xa mà tôi đã gây ra do sự thiếu lòng tin của tôi.”
Câu chuyện này là một bài quảng diễn sống động những gì Chúa Giêsu có ý nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay:
“Thời giờ đã gần đến. Nước Thiên Chúa đã gần kề. Hãy thống hối, và tin vào Tin Mừng.”
Đấy chính là những gì William Murray đã làm. Ông đã sám hối về tội 33 năm làm một kẻ vô thần, không tin vào Phúc Âm và không biết đặt Chúa Giêsu Kitô làm trung tâm điểm đời sống.
Những gì Murray đã làm chính là những gì mà bài Phúc Âm hôm nay kêu mời chúng ta phải thực hiện trong Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay này.
Nó kêu mời chúng ta thống hối đời sống mà đã không đặt Chúa Giêsu làm trung tâm điểm. Nó kêu mời chúng ta tái khám phá ra cuốn sách mà đã chưa luôn chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của ta.
Nói một cách đơn giản hơn, bài Phúc Âm hôm nay kêu mời chúng ta hãy làm cho Mùa Chay là thời kỳ phúc lành đặc biệt của riêng từng cá nhân.
Có bao nhiêu Kitô hữu, thì có bấy nhiêu phương thức để đáp trả lại. Tuy nhiên, xin chỉ xét hai cách thức sau đây:
Phương thức đầu tiên là tìm cuốn Kinh Thánh và đọc Phúc Âm theo Thánh Luca từ đầu cho đến hết trong Mùa Chay này. Anh chị em có thể làm việc này bằng cách đọc một đoạn mỗi tối.
Phương thức thứ hai để đáp trả lại cách cụ thể là lãnh nhận Bí Tích Hoà Giải vào lúc nào đó trong Mùa Chay. Vì trong khi lãnh nhận bí tích này, chúng ta thực thi chính xác những gì Chúa Giêsu kêu mời chúng ta làm trong các bài đọc hôm nay. Chúng ta bày tỏ cách cụ thể lòng thống hối và lòng tin tưởng của ta vào Phúc Âm.
Đấy chính là bày tỏ lòng sám hối về tội lỗi và biểu lộ lòng tin tưởng của ta rằng, Chúa Giêsu Kitô ao ước tha thứ cho chúng ta và nâng đỡ chúng ta khởi đầu một đời sống mới.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng để nhìn thấy chính chúng con như Ngài thấy chúng con vậy. Trên hết mọi sự, xin ban cho chúng con ơn can đảm để biển đổi chính chúng con như chính Ngài muốn chúng con biến đổi. [Mục Lục]
Đức Giêsu chịu cám dỗ trước khi công khai rao giảng Tin Mừng
Câu hỏi gợi ý:
- Tại sao trước khi Đức Giêsu bước ra đời để loan báo Tin Mừng, Thánh Thần lại đẩy Ngài vào hoang địa để Ngài chịu cám dỗ? Việc đó có cần thiết hay ích lợi cho Ngài hoặc cho ai không? Mục đích của Thánh Thần là gì?
- Bị cám dỗ là điều tốt hay xấu? Cám dỗ hay thử thách có cần thiết cho việc nên thánh của ta không? Tại sao? Trước mặt Thiên Chúa, một người giả như chưa hề phạm tội vì chưa bị cám dỗ bao giờ có thánh thiện hơn người đã từng phạm tội vì tuy đã chống trả mãnh liệt nhưng lại thất bại không?
- Không nhờ cám dỗ, không nhờ thử thách, ta có thể xác định sự thánh thiện hay đạo đức của mình hay của một ai không? Tại sao?
- Cám dỗ hay thử thách là cần thiết, vậy có nên tự tìm cho mình những dịp để “được” cám dỗ không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
- Đức Giêsu chịu thử thách trước khi ra đi loan báo Tin Mừng
Cám dỗ là một điều cần thiết trong cuộc sống để chúng ta có thể chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa. Thật vậy, làm sao ta có thể biết tình yêu của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân, tinh thần siêu thoát, lòng đạo đức của ta cao hay thấp và ở mức độ nào, nếu ta không được thử thách? Tương tự như nếu không dùng lửa hay a-xít để thử, làm sao ta có thể biết được những đồ trang sức của ta là vàng thật hay vàng giả, là nguyên chất hay bị pha tạp? và nếu bị pha tạp thì pha tạp ở mức độ nào? Để biết rõ một người trước khi dùng người đó, nhất là vào những chức vụ quan trọng, giám đốc nhân sự của các công ty thường thử tay nghề, thử lương tâm, thử bản lãnh, thử mức độ đáng tín nhiệm của người đó bằng nhiều phương cách khác nhau. Ông có thể dàn dựng khéo léo những cơn cám dỗ. Nhờ những thử thách đó, chẳng những viên giám đốc công ty biết rõ người mình muốn tuyển chọn, mà chính bản thân người được thử thách ấy cũng biết rõ tài đức của mình hơn. Những người đã qua được thử thách một cách thành công chắc chắn sẽ cảm thấy tự tin hơn và dễ đạt được thành quả tối ưu trong công việc của mình. Như vậy, thiết tưởng việc thử thách để biết bản lãnh về tài và đức của mình hay của người là một việc cần thiết và hết sức dễ hiểu.
Quan niệm như thế, ta thấy việc “Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào hoang địa” để “chịu Xa-tan cám dỗ” trong “bốn mươi ngày” trước khi Ngài khai mạc công việc rao giảng Tin Mừng, là một việc dường như tất yếu phải có. Qua thử thách đó, Đức Giêsu có dịp tỏ ra cho Thiên Chúa và mọi người thấy bản lãnh của Ngài để có thể đảm trách công việc loan báo Tin Mừng và cứu chuộc nhân loại.
- Thử thách và cám dỗ rất cần thiết trong đời sống chúng ta
Trong mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức về tình trạng yếu kém, tội lỗi, đầy khiếm khuyết trong con người hiện tại hay “con người cũ” – vốn “bị tội lỗi thống trị” (Rm 6,6) – của chúng ta. Từ đó, ta mới quyết tâm “cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa” (Ep 4,22; x. Cl 3,9) để “mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa hầu thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,24).
Nhiều khi chúng ta ý thức và tự xưng rằng mình tội lỗi, dù rất thật lòng, nhưng ý thức về tình trạng tội lỗi ấy nhiều khi hết sức mơ hồ. Chúng ta không biết mình tội lỗi thế nào, ở mức độ nào, tội lỗi ở chỗ nào… Chính vì thế, chúng ta không biết đường nào mà sửa mình, để rồi cuối cùng, chúng ta chẳng sửa đổi gì cả, nghĩa là “mèo vẫn hoàn mèo”. May thay, nhờ có những cám dỗ xảy đến trong đời sống mà ta biết được mình tội lỗi thế nào, ở mức độ nào.
Cũng có nhiều khi ta tưởng mình đạo đức, thánh thiện, vì ta cảm thấy mình rất ít khi lỗi luật của Chúa hay của Giáo Hội. Ta có cảm tưởng ta rất tốt với bạn bè, với những người chung quanh ta, vì ta thấy mình cư xử rất lịch thiệp với họ, không hề đụng chạm tới quyền lợi họ, hay không hề cư xử bất công với họ… Ta cũng giống như Phê-rô và các tông đồ xưa, nghĩ mình là người luôn luôn trung thành với Đức Giêsu bất kỳ trong hoàn cảnh nào: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,35). Khi nói như thế, các ông rất thành thật, không một chút dối trá. Nhưng các ông không thể ngờ được phản ứng của các ông sau này khi Đức Giêsu bị bắt: “Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26,56), còn Phê-rô, người tỏ ra sẵn sàng sống chết với Thầy mình nhất thì “gà chưa kịp gáy ông đã chối Thầy tới ba lần” (Mt 26,75).
Nhiều khi thứ đạo đức hay trong sạch của ta tương tự như độ trong của một ly nước múc từ dưới bùn lên, nhưng đã được để lắng trong nhiều ngày. Phần trên của ly nước cũng trong vắt không kém gì một ly nước suối. Nhưng khi quậy lên thì nước trong ly đục ngầu đang khi ly nước suối có quậy đến đâu cũng vẫn tiếp tục trong vắt. Nếu không quậy lên, người ta có cảm tưởng nước ở trong cả hai ly tốt như nhau. Nếu không quậy lên, làm sao biết được ly nào là trong thật sự? Cũng vậy, nếu không có cám dỗ, làm sao biết được ai đạo đức sâu xa, ai đạo đức chỉ ở bề mặt?
- Chỉ biết mình đạo đức hay không qua những cám dỗ thử thách
Nguyễn Công Trứ viết: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Thật vậy, nếu cuộc đời của mọi người đều an bình, thuận buồm xuôi gió cả, thì người có bản lãnh sẽ hành xử chẳng khác gì người không bản lãnh. Nếu các đồ vàng bạc không được thử bằng lửa hay a-xít thì chẳng sao phân biệt được vàng thật hay vàng giả. Cũng vậy, chính trong cơn hoạn nạn ta mới biết được ai là bạn tốt, bạn thật của ta: “Friend in need, friend indeed” (Bạn bè trong cơn hoạn nạn mới là bạn thật). Tương tự, chỉ khi gặp những biến cố, những hoàn cảnh khó khăn, ta mới biết được ta có đạo đức hay không. Muốn biết đạo đức của ta ở mức độ nào, ta cần phải tự xét xem phản ứng của ta thế nào…
– khi quyền lợi của ta bị va chạm một cách bất công: lúc đó ta nổi sùng lên và chửi rủa loạn xạ? hay ta bình tĩnh xét xem nguyên nhân tại đâu, suy nghĩ xem có thể giải quyết cách nào cho đẹp nhất, khôn ngoan nhất, bác ái nhất?
– khi có một quyền lợi nào đó không thể phân chia xảy đến giữa ta và người bạn của ta: lúc đó ta quyết dành quyền lợi ấy về cho mình? hay biết nhường cho bạn? Epictète đưa ra hình ảnh hai con chó có vẻ quấn quít và yêu thương nhau lắm. Nhưng khi có ai quăng cho chúng một cái xương, thì chúng quay ra cắn nhau sứt đầu chảy máu. Như vậy có thật là chúng yêu thương nhau không? Làm sao biết được chúng có yêu thương nhau thật sự không nếu không có miếng xương để thử?
– khi đứng trước một người gặp nguy khốn đang cần cứu giúp, nhưng nếu cứu giúp thì ta sẽ phải hy sinh rất nhiều: lúc đó ta sẽ cứu giúp người ấy bất chấp phải hy sinh? hay sẽ nhường việc cứu giúp ấy cho người khác?
– khi đứng trước những bất công trước mắt mà việc lên tiếng của ta có thể chặn đứng hay giảm bớt phần nào, nhưng nếu lên tiếng thì ta sẽ bị sách nhiễu, công việc của ta sẽ bị cản trở: lúc đó ta sẽ coi sự đau khổ của đồng loại quan trọng hơn sự thoải mái cá nhân ta? hay ngược lại?
– khi mà nồi cơm của ta và gia đình ta bị đe dọa nếu ta làm theo lương tâm, và làm theo lương tâm sẽ cứu được biết bao nồi cơm của những gia đình khác: lúc đó ta sẽ coi những nồi cơm của vô số gia đình kia quan trọng hơn nồi cơm của gia đình mình? hay ngược lại?
– khi có hai người giàu và nghèo đến với ta một lúc, người giàu đem lại nhiều lợi lộc cho ta, còn người nghèo đến để nhờ ta một việc khá khó khăn: lúc đó ta sẽ đối xử với hai người một cách niềm nở như nhau? hay ta sẽ đối xử một cách phân biệt hết sức rõ rệt?
– v.v…
Rất nhiều người tưởng mình tốt lành thánh thiện chỉ vì thấy mình chưa hề phạm một lỗi nào quá đáng, rồi dựa trên sự vô tội của mình họ chê bai người khác đã phạm lỗi này tội kia. Thật ra họ chỉ là người chưa phạm tội vì chưa phải ở trong những hoàn cảnh khó khăn, nhiều cám dỗ, chứ không phải họ là những người khó có thể phạm tội. Rất có thể khi gặp những hoàn cảnh khó khăn, những cơn thử thách, họ còn phạm tội nặng nề hơn những người đã từng bị họ chê trách, mặc dù hoàn cảnh khó khăn hay sự thử thách của họ chẳng nặng nề bằng những người kia. Sự thánh thiện đạo đức phải dựa trên khả năng không phạm tội khi bị cám dỗ, chứ không chỉ đơn thuần dựa trên tình trạng vô tội trong hiện tại chỉ vì chưa gặp cám dỗ.
Nhiều người tự hào khoe mình bản lãnh lắm, hoặc được mọi người coi là đã tiến rất xa trên con đường nhân đức chỉ vì tu hành đã lâu năm, hay vì được nắm giữ những chức vụ quan trọng trong Giáo Hội, v.v… Nhưng khi gặp những thách đố, khi phải đối đầu với những cám dỗ chưa từng gặp, họ mới nhận ra bản lãnh của mình còn non kém, hay đường nhân đức của mình mới chỉ ở giai đoạn đầu.
Như đã nói trên, cám dỗ và thử thách rất cần thiết cho việc nên thánh của ta. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta nên tự tìm cho mình những cám dỗ. Trái lại, sự khôn ngoan đòi buộc ta phải tránh xa các dịp tội, những điều kiện hay cơ hội khiến ta có thể phạm tội. Câu “dĩ đào vi thượng sách” là một phương cách rất hay trong việc tu đức hay nên thánh. Và cũng nên nhớ lời khuyên của Phao-lô: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Nhưng khi những cám dỗ tình cờ xảy đến ngoài ý muốn của ta, ta nên sẵn sàng đón nhận, và hãy chiến đấu một cách dũng cảm, quảng đại. Rồi dù thắng hay bại, ta cũng hãy coi chúng như những hồng ân Chúa ban để giúp ta hiểu rõ mình hơn, khiêm nhường hơn, giúp ta xác định đúng hơn mình đang ở vị trí nào trên con đường nên thánh.
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi con thầm tự hào về mình, tưởng mình đã đạo đức hay thánh thiện lắm rồi. Nhưng lắm khi chỉ cần gặp những cơn cám dỗ hơi bất thường một chút, con đã ngã gục. Con cám ơn Cha đã gửi những cám dỗ ấy đến để con ý thức về bản lãnh của con một cách chính xác hơn, nhờ đó con khiêm nhường hơn, và biết cảm thông với những yếu đuối của đồng loại hơn.
Chủ đề: “Chúng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình, và xin Đức Giêsu cứu giúp để từ bỏ tội lỗi đó”
Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Trong Những Con Đường Xấu Xa” (Down These Mean Streets). Tác phẩm mô tả việc ông cải tà qui chánh từ một người bị kết án tù, một người nghiện ma tuý, và cố tình giết người để rồi trở thành một Kitô hữu gương mẫu.
Một đêm kia, Piri đang nằm trên giường trong phòng giam của mình. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời anh. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm cùng giường với một tù nhân khác mà người ta gọi là “thằng ròm”. Vì thế anh chờ đợi. Sau khi đoán chắc rằng “thằng ròm” đã ngủ, anh leo ra khỏi giường và quì xuống nền bê tông lạnh ngắt để cầu nguyện. Anh kể lại: “Tôi bầy tỏ với Chúa những gì có trong trái tim tôi… Tôi nói với Ngài những lời mộc mạc… chứ không phải những lời hoa mỹ… Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng của tôi,… Tôi cảm thấy dường như tôi có thể khóc được… Đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm”.
Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói nho nhỏ đáp: “Amen”. Đó là tiếng của “thằng ròm”. Piri nói: “Thế là hắn nằm sấp xuống, đầu úp trên đôi tay khoanh lại, còn tôi vẫn quì yên lặng. Một lúc thật lâu không ai nói với ai. Rồi “Thằng Ròm” nói nhỏ: “Tôi cũng tin Chúa!”. Hai người bạn trẻ nói chuyện với nhau một lúc lâu. Rồi Piri leo lên giường ngủ. Anh nói: “chúc Chico ngủ ngon nhé. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi”.
***
Câu chuyện này là một hình ảnh rất đẹp, minh hoạ những gì Đức Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay khi Ngài bảo: “Hãy cải thiện đời sống và hãy tin vào Phúc Âm”. Giáo huấn của Đức Giêsu gồm hai điều: trước hết là “cải thiện” đời sống của chúng ta. Sau đó là “tin vào Phúc Âm”, chúng ta hãy bắt đầu với điểm thứ nhất: cải thiện đời sống.
“Cải thiện” hay “cải tà qui chánh” nghĩa là nhìn nhận những gì xấu, không tốt đẹp trong đời sống của chúng ta, và sau đó là từ bỏ chúng, quay lưng lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với tội lỗi trong đời sống của ta, rồi cương quyết không tái phạm nữa. Như thế có nghĩa là bắt chước Piri Thomas nhìn nhận tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời sống của anh và quyết định làm một điều gì tốt đẹp để sửa lại chuyện đó.
Tất cả chúng ta đều có thể có những kinh nghiệm tương tự như Piri Thomas. Chúng ta cũng ý thức về những khuynh hướng xấu thỉnh thoảng làm hỗn loạn đời sống chúng ta. Chẳng hạn chúng ta ý thức về tính ích kỷ khiến chúng ta đặt quyền lợi của mình lên trên nhu cầu của tha nhân. Chúng ta ý thức về tính cao ngạo khiến chúng ta không muốn nhìn nhận những sai trái của mình. Chúng ta ý thức về tính lười biếng khiến chúng ta ngại giúp đỡ tha nhân. “Cải thiện” nghĩa là đối diện với những khuynh hướng xấu trong đời sống chúng ta và làm một cái gì để sửa đổi những khuynh hướng đó.
Điều này dẫn chúng ta đến điểm thứ hai trong giáo huấn của Đức Giêsu. Ngòai việc cải thiện đời sống ra, Đức Giêsu còn yêu cầu chúng ta “tin vào Phúc Âm”. Nghĩa là tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và Ngài đến để cứu chúng ta. Nghĩa là tìm kiếm Đức Giêsu đặc biệt trong Bí Tích Hoà Giải, và nhận nơi Ngài sự tha thứ và chữa lành. Nghĩa là làm những gì Piri đã làm sau khi nhìn ra những gì xấu xa trong cuộc sống của anh. Anh đã quay về với Thiên Chúa để cầu cứu. Anh tin vào “Tin Mừng” cho biết rằng Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đến thế giới này để cứu chuộc những người tội lỗi như anh. Chính vì thế, câu chuyện của Piri Thomas là hình ảnh rất đẹp minh hoạ hai điểm trong giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Điểm thứ nhất là “cải thiện” đời sống. Điểm thứ hai là “Tin vào Tin Mừng” tin rằng Đức Giêsu đến để cứu giúp chúng ta.
Cách đây ít lâu, tác giả Kilian Mc Donnell đã thực hiện một cuộc thăm dò sâu sắc về những cuộc trở lại. Cuộc thăm dò ấy đã đáp ứng câu hỏi này: Tại sao có một vài nhà rao giảng Tin Mừng lại rất thành công trong việc làm cho thính giả hối cải như thế? Theo Mc Donnell, có một điều là họ theo giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Họ làm cho quần chúng nhìn nhận rằng mình là những kẻ tội lỗi, và họ giúp quần chúng quay về với Đức Kitô để được cứu độ. Ông nói: “Nhiều người không nhìn nhận Đức Kitô vì họ không nhìn nhận rằng chính họ là những kẻ tội lỗi. Nếu tôi không phải là người tội lỗi thì tôi đâu cần đến Đức Kitô”
Mc. Donnell kết luận: “Không ai mừng kính những mầu nhiệm của Đức Kitô một cách vui mừng, nếu trước tiên người đó không buồn rầu nhìn nhận rằng mình là kẻ có tội”. Bài Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta thực hiện hai điểm quan trọng ấy. Nó mời gọi chúng ta nhìn nhận mình là những kẻ có tội, và quay về với Đức Giêsu để được cứu độ.
Điều đó khiến chúng ta đi đến một nhận xét quyết định. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta như thể dẫn chúng ta vào mùa chay một cách tốt đẹp. Qua các thế kỷ, các Kitô hữu đều nhận thấy mùa chay là thời gian Thiên Chúa ban ân sủng cách đặc biệt, nhất là để giúp ta cải thiện đời sống
Nếu chúng ta muốn tìm một phương thế đặc biệt để sống tinh thần mùa chay năm nay, thì không có phương thế nào tốt hơn là coi mùa chay như một cơ hội thuận tiện để tái khám phá ra quyền năng của Bí tích hoà giải và sự bình an này, chúng ta thực hiện những gì mà Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta làm, chúng ta hãy nhận thức được tình trạng tội lỗi của mình và nhận Ngài làm cứu Chúa của ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy suy nghĩ về một đoạn như thư của thánh Phaolô nhận thức được tình trạng tội lỗi của mình và nhận Đức Giêsu làm Cứu Chúa của mình. Thánh Phaolô viết:
“Tôi không hiểu những gì tôi làm, vì tôi không làm những gì tôi muốn làm, mà lại làm những gì tôi không muốn làm,…vì ngay cả khi tôi muốn làm điều tốt thì tôi cũng không làm được. Tôi không làm điều tốt tôi muốn làm mà lại làm điều xấu tôi không muốn làm… Thật tôi là người vô phúc biết bao. Ai sẽ cứu tôi khỏi cái thân xác đang dẫn tôi tới cái chết này?….. Tạ ơn Thiên Chúa… người đó là Đức Giêsu Kitô!” (Rm 7: 15-25) [Mục Lục]
Khi mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập dòng nữ thừa sai bác ái, khởi sự công cuộc phục vụ những người hấp hối tại thành phố Calcutta bên An độ, thì vấn đề lớn nhất gặp phải đó là tìm cho ra nơi chốn để chăm sóc họ. Chính quyền địa phương chỉ có thể dành cho công việc xã hội này khu nhà trọ của khách hành hương tại đền thờ kính thần Kali, mà lúc bấy giờ đang là nơi chứa chấp bọn trộm cắp và xì ke.
Thế rồi một nguồn tin bất lợi được tung ra:
– Người đàn bà ngoại quốc này có ý đồ lôi kéo những người nghèo An độ theo Công giáo.
Trước nguồn tin này, một nhóm người đã kéo đến tòa thị chính để phản đối, còn một nhóm khác thì đến trụ sở cảnh sát để yêu cầu trục xuất người đàn bà đó.
Viên cảnh sát trưởng hứa sẽ giải quyết vụ này. Đích thân ông tới xem xét ngôi nhà. Ông thấy mẹ Têrêxa đang chăm sóc một bệnh nhân có những vết thương, vì lâu ngày không được chạy chữa, nên xông ra mùi hôi thối chịu không nổi. Thế mà vị nữ tu này vẫn nghiêng mình cặm cụi rửa ráy, lau chùi và băng bó như cho chính mình vậy.
Trở về trụ sở, ông gặp lại những người biểu tình và nói:
– Tôi hứa sẽ trục xuất người đàn bà ngoại quốc này ra khỏi khu vực đền thờ kính thần Kali, nhưng trước khi hành động, tôi chỉ xin mỗi người hãy đem theo mẹ hoặc chị em tới chăm sóc cho những người hấp hối đáng thương kia, thay thế cho người mà tôi được yêu cầu để trục xuất.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào phần kết của đoạn Tin mừng hôm nay, qua đó Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta:
– Hãy sám hối và tin vào Phúc Am.
Thế nhưng chúng ta phải sám hối như thế nào?
Nói tới sám hối là chúng ta nghĩ ngay tới việc ăn năn những lầm lỗi mình đã phạm để rồi quay trở về cùng Chúa.
Tuy nhiên quay trở về cùng Chúa mà thôi chưa đủ, tâm tình sám hối còn đòi hỏi chúng ta phải quay trở về cùng anh em. Hòa giải với Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải hòa giải với người khác, vì tất cả chúng ta đều là anh em, con cùng một cha, sống trong cùng một gia đình, đó là cộng đồng nhân loại.
Thực vậy, trong toàn thể các tạo vật thì con người được Thiên Chúa đặc biệt chú ý đến…Bởi vì con người luôn mang trong tâm hồn mình một khát vọng sâu thẳm.
Với tư cách là thụ tạo, vì được dựng nên cho Thiên Chúa, nên con người sẽ luôn thao thức cho tới khi được an nghỉ nơi Ngài. Đằng khác, vì được dựng nên do cùng một nguồn gốc, con người không thể khước từ đồng loại của mình.
Chính vì thế mà việc sám hối đòi chúng ta vừa hòa giải với Chúa, lại vừa hòa giải với anh em. Vừa trở về cùng Chúa lại vừa trở về với anh em đồng loại.
Mẹ Têrêxa thành Calcutta chăm sóc cho những người hấp hối cũng chỉ làm một công việc bình thường, đó là sống trung thực ơn sám hối toàn diện nói trên.
Hãy hòa giải cùng Chúa và hòa giải cùng người khác. Hãy trở về với Chúa và hãy trở về với anh em mình. Đó chính là sứ điệp chúng ta cần phải làm ngay trong mùa chay này.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Năm nào cũng vậy, cứ vào Chúa nhật thứ nhất Mùa chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan. Năm A và C, đọc Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Luca, kể lại sự kiện này khá dài, kể rõ ba chước cám dỗ và ba lần Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Năm nay năm B, đọc Tin Mừng của thánh Marcô, kể lại rất vắn tắt, chỉ cho biết: “Thần khí thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ”. Tuy thánh Marcô không trực tiếp cho biết Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan, đã xua đuổi nó, nhưng suốt sách Tin Mừng, thánh Marcô sẽ cho thấy Chúa Giêsu đi tới đâu thì Satan bị đánh bại đến đấy. Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với Satan và những cám dỗ của nó.
Đời người được ví như một đấu trường, ở đó con người phải luôn chiến đấu: chiến đấu với ngoại cảnh, chiến đấu với nhiều thứ, nhất là chiến đấu với chính mình. Tại sao vậy? Bởi vì mang thân phận con người, ai ai cũng bị giằng co, xâu xé bởi hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau: một cái kéo con người lên và một cái lôi con người xuống. Hai khuynh hướng đó đều nội tại trong con người, khiến cho nội tâm con người trở thành chiến trường, đôi khi rất cam go làm con người đau khổ.
Khuynh hướng đi lên là khuynh hướng căn bản của ý chí con người. Ai cũng muốn mình là người tốt, ai cũng muốn mình làm điều thiện, chứ không ai muốn mình xấu hay làm điều ác cả. Nhưng muốn là một chuyện, còn có làm điều tốt hay không lại là chuyện khác. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi không hiểu nổi việc tôi làm: điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải dùng chính sức mạnh của mình, phải hao tổn năng lực của mình.
Còn khuynh hướng đi xuống cũng ở trong nội tâm, nhưng kể từ khi nguyên tổ phạm tội, khuynh hướng này đã được ma quỉ tăng cường làm cho mạnh lên, khiến con người muốn đi lên phải chiến đấu rất vất vả. Còn muốn đi xuống thì chẳng cần phải cố gắng gì cả, chỉ cần buông thả, không cố gắng nữa là tự động đi xuống. Chính vì thế làm thiện khó hơn làm ác rất nhiều. Và cái lực hấp dẫn mọi người làm ác hoặc không làm thiện là lực của ma quỉ.
Đúng vậy, đàng sau bối cảnh chiến trường mà con người phải chiến đấu, ẩn hiện chập chờn một nhân vật rất nguy hiểm mà Kinh thánh gọi là kẻ thù, ấy là satan. Satan là quỉ, nó là “xếp xòng” của loài quỉ. Satan hay quỉ trước kia là các thiên thần, nhưng vì làm loạn cùng Thiên Chúanên bị tống cổ ra khỏi thiên đàng và bị đày xuống hỏa ngục. Từ ngày thất thế, Satan và bè lũ trở nên những kẻ thù nguy hại của loài người. Chúng chuyên môn áp đảo, quấy phá để làm cho người ta hư hỏng theo chúng. Chúng đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người. Chúng đã du nhập vào trần gian đủ thứ gian tham, lừa lọc, tội ác, bất công và những lối sống lố bịch, nham nhở, nhăng nhít… Tất nhiên có người sẽ nói: có thấy Satan hay quỉ nào công khai làm những chuyện đó đâu? Đúng thế, ngày nay chúng ta ít được chứng kiến những vụ quỉ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Ngày nay rất ít trường hợp Satan hiện nguyên hình trực tiếp tác oai tác quái nữa, nhưng gián tiếp điều khiển trong bóng tối. Đó là một sức mạnh vô hình luôn tác động trong tâm trí chúng ta: lôi kéo, xúi bẩy chúng ta đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi. Chiến thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay buông tha ai. Vì thế, không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng.
Theo nghĩa thông thường chúng ta quen hiểu, cám dỗ là dịp phạm tội. Bị cám dỗ là khi chúng ta thấy mình hướng chiều về một điều ưa thích thuộc phạm vi cấm đoán. Chẳng hạn: một vẻ quyến rũ từ bên ngoài lôi cuốn, một sự xôn xao, rạo rực, thèm khát từ bên trong thúc đẩy; một âm mưu hay thủ đoạn bày vẽ ra trong trí khôn thúc đẩy chúng ta hành động; một sự nhắm mắt làm liều, một hành động nổi loạn của toàn thân từ chối ép mình trong trật tự… Đó là những phát hiện của cơn cám dỗ. Như vậy, bị cám dỗ, bất cứ là cám dỗ về phương diện gì, không phải là tội. Khi chúng ta bị cám dỗ thì chỉ có nghĩa là chúng ta bị thử thách thôi. Và chỉ khi nào chúng ta bị thua chước cám dỗ thì mới có tội.
Đành rằng ma quỉ cám dỗ chúng ta. Nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỉ và xác thịt. Đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỉ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình đồng ý của chúng ta hay không? Tức là chúng ta có chấp nhận và chiều theo chước cám dỗ hay không? Nói khác đi, ma quỉ chỉ có thể cám dỗ được chúng ta khi chúng ta có nhu cầu, ham thích, đam mê đối với những thực tại trần gian. Chúng ta có làm chủ được những nhu cầu thể chất ấy chúng ta mới dễ dàng thắng lướt được những cám dỗ, và không để cho khuynh hướng xấu làm chủ mình. Từ ngày có trí khôn cho đến giờ, ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần đã bị vấp ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn và bất toàn. Không bao giờ vấp ngã, đó là chuyện khác thường, đặc biệt, vô cùng tạ ơn Chúa. Còn hay bị vấp ngã, đó là chuyện bình thường. Và điều quan trọng là chúng ta phải ăn năn sám hối ngay.
Janet Frame là một tiểu thuyết gia người New Zealand. Trong suốt những năm đầu đời, bà đã phải chịu đựng những chứng bệnh về tâm lý, và vừa mới thoát khỏi cảnh bị ép buộc phải phẫu thuật thùy não. Cuối cùng, bà vào một bệnh viện ở Anh để điều trị. Tại đó, bà may mắn gặp được một bác sĩ rất hiểu biết, đã giúp đỡ bà phục hồi. Bằng cách nào vị bác sĩ đó khác hẳn với nhiều bác sĩ khác mà bà đã từng gặp? Bà nói:
“Tôi rất dễ chịu vì biết rằng bác sĩ của tôi là một người không e ngại thừa nhận và bày tỏ tư tưởng kỳ lạ rằng nói cho cùng, ông ấy cũng là con người, và ông không thể làm gì được hơn, và khi giả vờ như mình là thần thánh, thì cũng không thể thay thế được điều đó.
Trong bệnh viện đó, việc quản lý bao gồm những vị bác sĩ mà chính họ cũng bị cản trở do không đủ tư cách pháp lý. Những bác sĩ này có thể dễ dàng liên hệ với các bệnh nhân của họ”.
Chúng ta không thể học hỏi được lòng thương xót, khi không biết thế nào là đau khổ. Chúng ta không thực sự hiểu được lòng thương xót là gì, hoặc không thể an ủi một người nào đó đang chịu đau khổ, trừ phi chúng ta đã từng đau khổ. Chúng ta không thể lau khô những giọt nước mắt của người khác, trừ phi chúng ta đã từng khóc lóc. Chúng ta không thể giúp đỡ những người lầm đường lạc lối tìm được con đường của họ, trừ phi chúng ta đã từng bước đi trong tăm tối. Khi đã từng chịu đau khổ, chúng ta mới có thể trở thành một con người mở đường cho người khác.
Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu đã bị cám dỗ. Bức thư gửi tín hữu Do thái nói rằng Đức Giêsu đã trở nên “hoàn toàn giống như anh em Người về mọi phương diện”. Nơi Người, chúng ta có một vị thượng tế có thể cùng với chúng ta cảm nhận được sự yếu đuối của chúng ta; bởi vì Người đã từng bị cám dỗ bằng mọi cách giống như chúng ta, mặc dù Người không phạm tội. Đức Giêsu có thể đồng hóa với chúng ta. Người giống như chúng ta trong tất cả mọi sự và mọi cách, ngoại trừ tội lỗi. Người đã bị cám dỗ giống như chúng ta. Người không được miễn khỏi bị khổ sở, đau đớn, thất vọng… Người đã nếm thử thành công, thất bại, và cả cái chết. Người không khước từ bất cứ niềm vui nào của chúng ta, Người chỉ khước từ tội lỗi mà thôi. Đây là mầu nhiệm sâu xa nhất về tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giêsu hoàn toàn là con người, nhưng điều đó không có nghĩa là Người chỉ là người mà thôi. Sự kiện Người không phạm tội không có ý nói rằng Người thiếu bất cứ tính cách nào của nhân loại. Tội lỗi không phải là một yếu tố thuộc về bản chất con người. Trái lại. Tội lỗi là sự sa ngã nơi bản tính nhân loại. Ngoài ra, Người còn chia sẻ sự yếu đuối và chước cám dỗ của chúng ta nữa. Bởi vì chính Người đã từng bị cám dỗ, nên Người thấu hiểu chúng ta, và có thể giúp đỡ chúng ta. Do đó, chúng ta có thể tin tưởng đến gần Người, trong sự nhận biết rằng chúng ta sẽ được Người thương xót, và được đón nhận ân sủng trong những lúc chúng ta cần.
Những côn trùng và ruồi bị hương thơm của chất ngọt quyến rũ. Nhiều lần, chúng phát hiện rằng theo sau hương thơm của chất ngọt, có thể dẫn chúng đến một cuộc sống bị giam hãm hoặc tệ hại hơn. Do không thể kháng cự lại hương thơm, chúng bò vào bên trong một bông hoa, chỉ để đắm mình trong phấn hoa, để rồi chúng không thể trở ra được nữa.
Có thể bạn nghĩ rằng điều này không bao giờ xảy ra với con người chúng ta. Chúng ta quá tinh khôn để không bị sa ngã vào điều đó. Sự kiện đáng buồn là chúng ta lại vẫn cho phép điều đó xảy ra. Giống như những con ong, chúng ta cũng bị hương thơm của chất ngọt quyến rũ.
Ý nghĩa phổ biến của chước cám dỗ là lôi kéo con người làm điều sai trái. Khi nghĩ đến chước cám dỗ, ngay tức khắc chúng ta nghĩ đến những điều xấu xa. Tuy nhiên, không chỉ có sự dữ mới có thể đưa chúng ta đi lạc đường. Những việc tốt đẹp vẫn có thể cám dỗ chúng ta một cách đầy hiệu quả. Trên thực tế, tất cả những chước cám dỗ đều đến dưới chiêu bài là việc tốt đẹp. Và sức mạnh của một chước cám dỗ tỉ lệ với sức quyến rũ của mục đích.
Không phải chỉ khi nào đường đi khó khăn và rải đầy chướng ngại vật, chúng ta mới không tiếp cận được mục đích, nhưng khi đường đi dễ dàng và trải đầy những nét quyến rũ, chúng ta cũng vẫn bị như vậy. Trong trường hợp thứ hai, chúng ta bị cám dỗ coi con đường đó như trò đùa. Chúng ta tự cho phép mình đi sai đường, sao cho trước khi nhận ra điều đó, chúng ta đã quên mất mục đích, và lãng phí sức mạnh của mình. Những vinh hoa trần thế làm mất đi sự quyến rũ của hạnh phúc thiên đàng. Trong Tin Mừng, không thiếu những ví dụ về điều này.
Một dịp kia, Đức Giêsu kêu gọi một người giàu có trở thành môn đệ của Người, nhưng người đó đã từ chối. Không phải sự dữ đã làm cho anh ta từ chối – anh ta không làm điều gì xấu xa cả. Nhưng anh ta từ chối chỉ vì một điều gì đó tốt đẹp – sự giàu có.
Khi Đức Giêsu đi vào nhà của Marta và Maria, Marta quá bận rộn, nên không thể lắng nghe Người nói được. Không phải do điều gì đó xấu xa đã làm cho bà không nghe được lời Người, mà là một việc làm tốt đẹp, thậm chí đáng khen nữa – những công việc bày tỏ lòng hiếu khách. Đức Giêsu kể một câu chuyện về những người khách từ chối lời mời đến dự tiệc. Khi từ chối, họ không hành động do những động cơ xấu xa, nhưng do những động cơ tốt đẹp. Người thì muốn đi thăm mảnh đất mà họ mới tậu được. Người khác lại muốn thử con bò mới mua. Người thứ ba thì vừa mới cưới vợ. Tuy nhiên, mặc dù những nguyên nhân của họ đều tốt hảo cả, thì hậu quả vẫn như thể họ là những người tồi tệ – họ đã để cho bữa tiệc trôi qua.
Trong dụ ngôn về người gieo hạt, Đức Giêsu nói rằng một số hạt bị chết ngạt do gai góc. Những “bụi gai” này bao gồm cái gì vậy? “Những lo lắng và quan tâm đến thế gian này, và sự quyến rũ của giàu sang”. Một lần nữa, những điều này không phải tự chúng xấu xa. Từ tất cả những điều này, chúng ta phải suy ra điều gì? Đó là chúng ta có thể có nhiều điều đáng e sợ từ việc tốt cũng như việc xấu. Sau hết, khi nhận thấy một điều nào đó rõ ràng là xấu, thì chúng ta phải cự tuyệt nhiều hơn là bị điều đó lôi cuốn. Do đó, điều này đặt ra nhiều nguy hiểm hơn. “Khi dát vàng vào đôi cánh chim, thì nó sẽ không bao giờ bay được”. Những điều cám dỗ chúng ta từ bỏ mục đích của mình không phải lúc nào cũng luôn luôn xấu xa. Thông thường, đó lại là điều tốt đẹp. Vì thế, thật khó mà kháng cự lại được. Những sự chọn lựa đau thương nhất thường ở giữa điều tốt và điều xấu. Quỉ dữ không xuất hiện giống như một nhân vật đáng ghê tởm. Nhưng nó xuất hiện như một nhân vật hấp dẫn, đáng mến, dễ thương, thậm chí là một người bạn nữa. Nó xuất hiện để đem lại ý thích tốt đẹp nhất trong tâm hồn bạn – như khi nó dâng bánh và tất cả các nước trên thế giới cho Đức Giêsu. Chúng ta cần có sự khôn ngoan và sức mạnh, để có thể kháng cự lại những chước cám dỗ, đặc biệt đối với những cám dỗ đến dưới chiêu bài tốt đẹp.
Lần kia, một vị vua đang thả bộ trên những con đường của thành phố thủ đô, thì có một người ăn xin đến, anh ta liền hỏi xin vị vua chút ít tiền. Vị vua không hề cho người đó một đồng nào cả. Thay vào đó, vua mời anh ta đến lâu đài thăm viếng ông. Người ăn xin nhận lời mời của nhà vua.
Đến ngày hẹn, người ăn xin tìm đường đi đến cung điện, và được đưa đến gặp nhà vua, anh ta bỗng nhận ra quần áo rách rưới của mình, và cảm thấy xấu hổ. Đây là một biểu tượng hùng hồn về tình trạng nghèo khổ trong cuộc sống của anh.
Vốn là một loại người đặc biệt, nhà vua đón tiếp anh ta một cách nồng nàn, tỏ lòng thương xót anh, và ban cho anh ta một bộ quần áo mới, cùng với những thứ khác. Tuy nhiên, vài ngày sau, người ăn xin vẫn lê lết trên đường phố xin ăn trong bộ quần áo rách nát của anh ta.
Tại sao anh ta lại bỏ bộ quần áo mới? Bởi vì anh biết rằng khi mặc bộ quần áo đó, có nghĩa là anh phải sống một cuộc sống mới. Điều đó có nghĩa là anh phải từ bỏ cuộc sống của một người ăn xin. Nhưng anh chưa được chuẩn bị để làm như vậy. Không phải là cuộc sống mới không hấp dẫn đối với anh. Nó rất hấp dẫn. Chỉ vì anh biết rằng một sự thay đổi trong cuộc sống sẽ cần phải từ từ, gây đau xót và không chắc chắn. Nói cách khác, anh quá quen thuộc với thói quen cũ, đến nỗi không thay đổi được.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống của chúng ta. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa sau cuộc đời mình, tùy thuộc vào những thói quen đã có từ nửa đầu cuộc đời mình. Điều đó sẽ đem lại sự thoải mái cho người nào có những thói quen xấu.
Mùa chay đụng chạm vào một góc cạnh nào đó trong tâm hồn của tất cả chúng ta. Hình ảnh Đức Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc gây xúc động cho chúng ta. Nhưng cũng bắt buộc chúng ta phải nhìn vào cuộc sống của mình. Mùa chay thách đố chúng ta cải thiện con người mình. Nhưng những nỗ lực của chúng ta trong việc đổi mới thường không đủ sâu xa. Nếu muốn mặc một cái áo mới, thì chúng ta phải vứt bỏ cái áo cũ. Việc mặc cái áo mới sẽ lôi kéo theo một lối sống mới.
Nếu mong muốn thay đổi những khía cạnh bên ngoài cuộc sống, thì trước hết, chúng ta phải thay đổi những thái độ tư tưởng bên trong của chúng ta. Sự thay đổi đòi hỏi chúng ta phải lấy những thói quen mới thay thế vào những thói quen cũ. Điều này mời gọi chúng ta phải biết làm chủ bản thân, và tự bắt mình phải thực hiện những gì cần thiết. Trước hết, thông qua sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng ta có thể hoàn tất được sự thay đổi tâm hồn theo lời mời gọi của mùa chay.
Mặc dù sự thống hối và lời cầu nguyện luôn luôn phù hợp, nhưng những yếu tố đó lại càng đặc biệt phù hợp trong mùa chay. Đây là thời gian của ân sủng. Mùa chay là một cửa ngõ mở ra một cơ hội lớn cho mọi người. Đó là “Mùa xuân thánh thiện” của Giáo hội. Trong suốt mùa chay, những người dự tòng được chuẩn bị nhận lãnh phép Rửa tội, để được tái sinh trong Đức Kitô. Đây là một thời kỳ của sám hối và cố gắng. Nhưng cũng là thời kỳ của niềm vui lớn lao, tương tự như mùa xuân vậy. Trong khi chúng ta nỗ lực tiến tới Mùa Phục Sinh, thì mặt trời càng ngày càng tươi sáng và ấm áp hơn.
Vậy chúng ta phải làm gì? Nói tóm lại, chúng ta phải quay trở về với sức mạnh của tình yêu. Sống tử tế, hành động theo lẽ phải, và bước đi một cách khiêm tốn cùng với Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta dẹp bỏ được những mảnh rách của tội lỗi, để Người có thể mặc cho chúng ta chiếc áo mới của sự sống.
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Mùa Chay Thánh năm nay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro (25 tháng 2 năm 2009) cho đến Chúa Nhật Lễ Lá (5 tháng 4, 2009) mở đầu Tuần Thánh, và tiếp theo là Chúa Nhật Đại Lễ Phục Sinh (12-4-2009).
Trong Chúa Nhật I Mùa Chay (Năm B), Bài Đọc I (Sáng thế 9, 8-15) nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy. Thánh Phêrô cũng nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy trong Bài Đọc II (1 Phêrô 3, 18-22). Đại Hồng Thủy đã tiêu diệt tất cả nhân loại và mọi sinh vật “trừ 8 người trong gia đình ông Noe và một số sinh vật được đưa lên tàu”.
Câu chuyện Đại Hồng Thủy nhắc nhở chúng ta đến hậu quả khủng khiếp của tội lỗi. Nhưng con người chúng ta luôn bị cám dỗ lôi cuốn phạm tội. Bài Phúc Âm (Matcô 1, 12-15) cũng ghi lại việc chính Chúa Giêsu cũng để cho ma qủy cám dỗ, sau khi đã ăn chay 40 ngày.
Cám dỗ là một thử thách suốt cuộc đời chúng ta. Nhưng bị cám dỗ chưa hẳn là đã phạm tội. Có rất nhiều thứ cám dỗ khác nhau, nhưng tất cả đều do khuynh hướng con người chúng là ‘ham danh, ham lợi, ham lạc thú!’. Mọi người đếu bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng ham muốn được ca tụng, được giầu có, và thỏa mãn các thú vui. Ngay cả các vị Thánh tu hành trong sa mạc cũng bị cám dỗ, nhiều khi rất mạnh mẽ, cả trong tuổi già (như Thánh Antôn Viên Phú; Lễ kính ngày 17-1 hàng năm). Nhưng chúng ta có thể thắng cám dỗ, nếu có ơn Chúa giúp đỡ qua việc cầu nguyện, ăn chay hãm mình, và xa tránh dịp tội.
Trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, khi chúng ta lên chịu xức tro, chúng ta đã nghe ca đoàn hát: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro…” (Bài “Hỡi Người Hãy Nhớ” của Kim Long) để nhắc nhở chúng ta đã được dựng nên do “bụi tro, và khi chết, thân xác chúng ta cũng sẽ trở về ‘tro bụi’. Suy nghĩ như vậy không phải để chúng ta ‘bi quan yếm thế’; nhưng chỉ để chúng ta nhớ đến cuộc đời của chúng ta trên trần thế này ngắn ngủi, mỗi ngày qua đi là một ngày chúng ta đi đến gần nấm mộ của chúng ta hơn, và sau khi chết thân xác chúng ta sẽ trở thành tro bụi. Tuy nhiên, chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa, có linh hồn bất tử. Chết chỉ là ‘thể phách, hồn là tinh anh” và ‘sống gửi thác về’, ‘sinh qúy tử quy’. Chúng ta sẽ được về với Chúa là Cha chúng ta trên nước Hằng Sống, miễn là chúng ta luôn biết cố gắng thắng cám dỗ để sống xứng đáng những con người đã “được dựng nên theo hình ảnh Chúa!’ (Sáng thế 1, 26).
Mùa Chay chính là “thời gian thuận tiện” (2 Corintô 6,2) để chúng ta ‘làm các việc lành phúc đức’. Mùa Chay chính là thời gian để chúng ta dùng nhiều thời giờ hơn để sống đức tin của chúng ta, thánh hóa bản thân và gia đình chúng ta. Có những việc Giáo hội nhắc nhở chúng ta phải làm nhiều hơn trong Múa Chay, đó là: Cầu nguyện, ăn năn sám hối lỗi lầm quá khứ qua việc xét mình xưng tội; làm việc đền tội qua những hy sinh hãm mình (ăn chay và kiêng thịt); làm việc từ thiện (thường gọi là ‘làm phúc bố thí’), giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật, đau khổ trên thế giới. Những việc này chúng ta vẫn làm hàng ngày, và từng giây phút cuộc đời, nhưng vào Mùa Chay, chúng ta cố gắng nhiều hơn để giúp đổi mới con người chúng ta, gia đình chúng ta và chuẩn bị những ngày kỷ niệm việc Chúa đã chịu chết để chuộc tội chúng ta, nhưng Ngài đã Sống Lại và Lên Trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho chúng ta.
Xin hiệp ý cầu nguyện chung, để mỗi người chúng ta sống tốt đẹp mùa Chay Thánh này, được dồi dào ơn thánh Chúa để canh tân con người chúng ta, gia đình chúng ta và chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn trong thế giới hôm nay.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ Đề: Chỉ vì thương nên Thiên Chúa đơn phương ban ơn cho loài người (Mc 1,15)
- Dẫn vào Thánh lễ
Mùa Chay là “lúc thuận tiện” để lãnh nhận ơn Chúa, là “thời cứu độ”. Nhưng để có thể lãnh nhận ơn Chúa, chúng ta phải “sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe tiếng Chúa và xin Ngài giúp chúng ta thực hiện lời Ngài.
- Gợi ý sám hối
- Chúng ta cứ sa đi ngã lại mãi trong tội. Phải chăng vì chúng ta chưa thực lòng sám hối?
- Chúng ta có biết rằng phạm tội là để mình bị trói buộc trong xiềng xích của Satan không?
- Chúng ta có ý thức rằng phạm tội là phụ bạc với tình yêu của Đức Giêsu, Đấng đã chịu chết vì tội chúng ta không?
III. Lời Chúa
- Bài đọc I: St 9,8-15
Sau cơn hồng thuỷ (theo St 7,12 thì kéo dài 40 ngày), Thiên Chúa lập giao ước với Nôê.
- Nội dung giao ước: sẽ không còn xảy ra một tai họa nào tương tự như thế nữa cho loài người.
- Kẻ được hưởng giao ước: “mọi xác phàm”, tức tất cả các sinh vật.
- Điều kiện: đây là một giao ước đơn phương. Chỉ một mình Thiên Chúa cam kết với loài người; loài người không bị buộc điều gì cả.
- Dấu chỉ giao ước này: cầu vòng trên trời.
- Đáp ca: Tv 24
Tv 24 là lời cầu nguyện của một người công chính: ông bày tỏ niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa; ông xin Chúa cho biết đường lối của Ngài.
Tv này áp dụng rất đúng cho Nôê: Ông là người công chính được Chúa cứu khỏi nạn hồng thuỷ và dẫn đưa ông tới một thế giới mới.
Tv này cũng có thể dùng làm lời cầu nguyện cho các tín hữu bước vào Mùa Chay: cũng như Nôê, họ bước vào thời gian thử thách 40 ngày; nếu họ theo đường lối Chúa thì họ sẽ tới được một thế giới mới và lập giao ước mới với Chúa.
- Tin Mừng: Mc 1,12-15
Đoạn Tin Mừng này có 2 ý lớn:
a/ Đức Giêsu ăn chay: Ngài ăn chay 40 ngày (như thời gian xảy ra cơn lụt). Trong thời gian đó Ngài tìm hiểu đường lối Thiên Chúa (như Tv 24), và sau đó Ngài bắt đầu sứ vụ công khai.
b/ Đức Giêsu loan báo Tin Mừng: “Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
- Bài đọc II: 1 Pr 3,18-22
Thánh Phêrô nhắc lại chuyện Hồng thuỷ xưa và coi đó là hình bóng của phép rửa tội: Ngày xưa Thiên Chúa nhân từ đã cứu sống Nôê và gia đình; ngày nay phép rửa cũng cứu thoát con người như vậy nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
- Gợi ý giảng
* 1. Quà và ơn
Sứ điệp thứ nhất mà Phụng vụ Lời Chúa Mùa Chay gởi đến chúng ta là: Thiên Chúa tặng quà cho chúng ta, Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta.
Người ta thường tặng quà vào những dịp nào? Những dịp tặng quà là Tết, đám cưới, sinh nhật v.v. Thường thì ai tặng quà cho ai? Người tặng quà thường là người có liên hệ tình nghĩa thế nào đó với người được tặng, chẳng hạn cấp dưới đối với cấp trên, học trò đối với thầy cô, người chịu ơn đền đáp cho người thi ơn. Vì thế có thể nói “quà” thường là thứ “có qua có lại”.
Khi “có qua” mà không “có lại” thì gọi là “ơn” (Tiếng hy lạp Charis luôn bao hàm tính cách miễn phí). Các bài đọc hôm nay kể đến 2 ơn mà Thiên Chúa ban cho loài người:
- Ơn ban sự sống (xem phần giải thích bài đọc I): vì loài người tội lỗi nên bị phạt phải chịu nạn hồng thuỷ. Nhưng Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Nôe. Sau khi cơn hồng thuỷ kết thúc, Thiên Chúa lập giao ước rằng từ nay sẽ không bao giờ Ngài cho xảy ra một đại họa như thế nữa. Đây là một giao ước đơn phương: Thiên Chúa không buộc loài người làm gì cả, chỉ một mình Ngài hứa và cam kết giữ lời hứa ấy. Sau này loài người lại tiếp tục phạm tội nhưng Thiên Chúa vẫn trung thành với lới cam kết đơn phương ấy.
- Ơn ban sự sống mới qua bí tích Rửa tội (Xem phần giải thích Bài đọc 2): chúng ta đâu có công gì để được ơn này, nhưng Thiên Chúa đã ban chỉ vì yêu thương chúng ta.
Khi nhận quà thì ta mừng, khi nhận ơn thì ta cảm động. Vậy, Thiên Chúa tặng quà cho chúng ta, chúng ta có mừng không? Và còn hơn quà nữa, Thiên Chúa luôn ban ơn cho chúng ta, chúng ta có cảm động không?
* 2. Ý nghĩa Mùa Chay
a/ Một thời gian cầu nguyện: Ngày xưa, Môsê đã ở trên núi Sinai 40 ngày, ngôn sứ Êlia cũng ở trên núi Horép 40 ngày. Trong thời gian đó, các ngài đã cầu nguyện và đã gặp được Thiên Chúa. Trong thời gian 40 ngày Mùa Chay, việc đầu tiên chúng ta phải để ý làm là cầu nguyện như các ngài.
b/ Một thời gian chiến đấu: Ngày xưa ông Nôê ở trong tàu 40 ngày chiến đấu với phong ba bão táp của cơn hồng thuỷ; Đức Giêsu sống trong sa mạc 40 ngày chiến đấu với những cơn cám dỗ của Satan. Noi gương các Ngài, chúng ta cũng hãy chiến đấu với những khuynh hướng xấu, những thói quen tội lỗi và những cám dỗ trong Mùa Chay này.
c/ Một thời gian sám hối và đón nhận Tin Mừng: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã mời gọi “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Sám hối là từ bỏ con đường sai lạc cũ để quay về con đường chính. Trong Mùa Chay, chúng ta cũng quan tâm hơn đến việc lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa.
* 3. Chiếc cầu vồng
Hình ảnh chiếc cầu vồng của bài đọc I vừa đẹp vừa gợi rất nhiều ý cho chúng ta suy gẫm trong Mùa Chay:
- Chiếc cầu vồng là một đường cong bắt đầu từ đất, vươn lên trời cao, rồi lại trở xuống mặt đất. Chính vì thế mà Thiên Chúa dùng nó làm dấu chỉ giao ước giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa với loài người.
- Sau cơn mưa, trời lại sáng và chiếc cầu vồng xuất hiện rực rỡ. Như thế, chiếc cầu vồng còn là dấu chỉ giao ước được tái lập, trở lại tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu.
- Cầu vồng mang 7 sắc rất đẹp. Nó còn là dấu chỉ tương giao tốt đẹp giữa Thiên Chúa với con người.
Phải chăng mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa cũng rất tốt đẹp hồi thuở ban đầu, nhưng rồi do tội lỗi, chúng ta như rơi vào cơn bão lụt. Nhưng Thiên Chúa muốn cứu thoát chúng ta. Ngài kêu mời chúng ta tái lập liên hệ thân thương với Ngài trong Mùa Chay này, để rồi tình nghĩa giữa chúng ta với Ngài lại tươi đẹp như trước?
* 4. Thiên đàng đánh mất và thiên đàng gặp lại
Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào sa mạc.
Trong phòng triển lãm tưởng tượng của chúng ta hôm nay, có bày bức tranh tứ bình, gồm hai cặp tranh đôi một đối xứng. Hai bức đầu, một bên vẽ cảnh sa mạc hoang vắng, Chúa đang bị Satan thử thách. Một bên vẽ cảnh bình yên thanh thản. Chúa đang ngồi giữa bầy dã thú đã trở nên hiền như chiên cừu. Hai bức sau, bên phải vẽ cảnh vườn địa đàng tươi đẹp. Ađam Eva trẻ trung đầy sức sống vui hưởng những ngày hạnh phúc giữa một thiên nhiên hài hòa hoa thơm quả ngọt. Bên trái, vẫn là Ađam, Eva, nhưng khuôn mặt hốc hác, trán nhăn nheo ướt đẫm mồ hôi, dáng hao gầy mòn mỏi vì mệt nhọc và già yếu, giữa một thiên nhiên khô cằn gai góc.
Đó là thân phận con người sau khi sa ngã. Con người không còn thể sống hài hòa với Thiên Chúa, với thiên nhiên, với đồng loại và với chính mình.
Nhưng Đức Giêsu đã đến để đảo ngược tình thế. Ngài sống giữa sa mạc, một thiên nhiên thù nghịch. Ngài bị thử thách gay go. Nhưng rồi Ngài đã thắng nghịch cảnh và quỉ dữ: Ngài sống yên bình hài hòa giữa một vũ tụ đã được cảm hóa.
Chỉ bằng một câu ngắn, Marcô đã vẽ nên bức tranh tứ bình đó: “Ngài ở trong hoang địa bốn mươi này, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và các Thiên sứ hầu hạ Ngài”.
Công trình tạo dựng thứ nhất của Thiên Chúa đã bị loài người phá hỏng. Chúa đến để tái tạo lại, làm công trình tạo dựng thứ hai. “Thời kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi. Anh em phải sám hối và tin vào Tin mừng”.
Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, bắt đầu sứ vụ, Thần Khí Chúa đã ngự trên Ngài. Thần Khí ấy, cũng như trong ngày đầu cuộc tạo dựng, đang bay là là trên những vùng đất khô cằn khắc nghiệt, và hoang mạc đang dần dần trở nên xanh tươi, trổ hoa thơm quả ngọt.
Vậy ra thiên đàng mà Ađam và Eva đã đánh mất vẫn còn đó, phía trước mỗi người. Nếu chúng ta biết “sám hối” và tin vào Tin mừng Đức Kitô” chúng ta sẽ gặp lại thiên đường đã mất.
Mùa Chay 40 ngày thinh lặng sa mạc, hãy để lòng chúng ta lắng xuống để bị cám dỗ, bị lôi cuốn bởi lòng cậy trông hy vọng tìm lại thiên đường đã mất, nhờ Đức Kitô, Con Chúa, Chúa chúng ta.
- Dã thú và thiên thần
Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay là một hình ảnh rất lạ: “Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người”
Câu này gồm 2 phần mang hai sắc thái khác hẳn nhau nhưng có liên hệ nhân quả với nhau:
- Phần đầu là một cảnh khó khăn “Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ”: Đức Giêsu bị Satan cám dỗ, như ngày xưa hai nguyên tổ Ađam Evà trong vườn Địa Đàng, và như dân Do Thái trong sa mạc. Nhưng Ngài chiến đấu với những cám dỗ đó và đã chiến thắng.
- Phần sau là một cảnh thoải mái “sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người”: (1) Trước khi hai nguyên tổ phạm tội, các ngài đã sống an hòa giữa các dã thú (xem St 2,19-20); Sau này khi mơ tới ngày tìm lại địa đàng đã mất, ngôn sứ Isaia cũng tưởng tượng cảnh con người và dã thú sống chung hòa thuận với nhau (xem Is 11,6-8: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng… Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang…”; (2) Còn về hình ảnh các thiên sứ hầu hạ, Tv 91,9-12 hiểu rằng đó là ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho người nào biết nương tựa nơi Ngài (“Vì ngươi đã chọn Giavê làm nơi ẩn náu, Đấng Tối cao làm chốn dung thân… nên Người ra lệnh cho các thiên thần gìn giữ ngươi trên mọi lối ngươi đi…”
Vì Đức Giêsu đã chịu cám dỗ và chiến thắng chúng nên Ngài được hưởng sự an vui như đang sống trong vườn địa đàng và được Thiên Chúa đặc biệt che chở giữ gìn. Phần thưởng của Đức Giêsu khuyến khích chúng ta can đảm chiến đấu với các cám dỗ.
- Cạm bẫy
Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ lông làm áo da thú.
Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.
Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình đang liếm máu của chính mình.
Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết.
*
Mùa chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa chay cũng là lúc dừng lại, để nhận những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác nên đã không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mù quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc, kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy.
Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan luôn cảnh giác những cạm bẫy như thủy lôi trên giòng đời.
Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ: “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ” (Mc.1,13). Đây không phải là cám dỗ một lần thay cho một đời, nhưng là cuộc cám dỗ triền miên trọn cả kiếp người. Wendell Philips viết: “Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ”.
Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.
Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ, chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng.
Nếu thế giới đầy hình ảnh vẫn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt.
Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết: “Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình”. Vì chưng có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
*
Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
- Đổi mới
Một hôm nhà vua đang đi dạo trên đường phố thì gặp một người ăn mày ngửa tay xin tiền. Nhà vua không cho tiền nhưng mời anh đến thăm hoàng cung. Khi vào tới hoàng cung rồi, người ăn mày vô cùng bối rối vì thấy quần áo rách rưới của mình quá tương phản với những y phục lộng lẫy của những người trong triều. Biết thế, nhà vua tặng cho anh một bộ quần áo mới.
Ít lâu sau nhà vua lại dạo phố, lại gặp người ăn mày này và ngạc nhiên khi thấy anh lại mặc bộ quần áo rách rưới trước kia. Tìm hiểu lý do thì nhà vua biết được rằng sở dĩ anh không mặc quần áo mới vì nếu như thế thì anh không thể tiếp tục sống bằng nghề cũ là ăn xin được nữa. Anh đã quá quen sinh sống bằng nghề ăn xin rồi, đến nỗi nay không biết phải làm gì nếu không tiếp tục ăn xin.
Câu chuyện trên muốn nói rằng thay đổi áo quần thì dễ nhưng thay đổi cách sống rất khó; thay đổi bên ngoài thì nhanh nhưng thay đổi bên trong rất chậm; và nhất là rất khó thay đổi thói quen.
Mùa Chay kêu mời chúng ta đổi mới, không chỉ đổi mới bên ngoài mà phải đổi mới tận bên trong con người mình, đặc biệt là thay đổi những thói quen xấu đã ăn rễ rất sâu trong con người chúng ta.
- Mùa Chay và Mùa Xuân
Mùa Xuân là mùa đổi mới: cỏ cây hoa lá đâm chồi, nẩy lộc và ra hoa. Nhưng muốn có thế thì trước đó chúng phải chịu đựng một mùa thu ảm đạm, lá rụng, cành xơ xác… rồi một mùa đông trơ trụi, lạnh giá.
Mùa Chay đến đúng vào Mùa Xuân và cũng chính là Mùa Xuân của tâm hồn, có thể biến chúng ta thành những con người mới.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng sợ hãi chấp nhận để cho những chiếc lá thói quen cũ phải rụng đi
Xin giúp con đừng sợ hãi phải đối diện với cảnh nghèo nàn trơ trụi của tâm hồn
Bởi vì có như thế thì Chúa mới có thể đổi mới con thành con người mới, xứng đáng là môn đệ tốt của Chúa.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trong suốt mùa chay, Hội thánh mời gọi chúng ta cùng với Đức Giêsu trải qua hai kinh nghiệm là: gặp gỡ Thiên Chúa và đấu tranh với sự dữ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta:
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / nhờ Mùa Chay này biết sám hối thành thật / mạnh dạn đổi mới suy nghĩ và hành động / để việc truyền giáo cho thế giới được kết quả tốt đẹp hơn.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / biết thành thật sám hối và sửa sai những lỗi lầm / để có thể sớm đem lại cho người dân ám no, tự do, và hạnh phúc thật.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang ngụp lặn trong những đam mê tiền của, xác thịt, danh vọng / được nghe lời kêu gọi sám hối để quay về với đời sống công chính và lương thiện.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta, nhất là những người còn đang rối rắm, bỏ mùa Phục Sinh / biết mau mắn trở về để sống xứng đáng với công ơn cứu chuộc của Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa xin giúp chúng con trong Mùa Chay này, biết cố gắng siêng năng cầu nguyện và đi dự lễ, để được nhiều ơn Chúa mà vượt qua mọi cơn cám dỗ. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
- Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt chú ý tới lời cầu xin cuối cùng, thể hiện ước muốn của chúng ta trong Mùa Chay này: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con chiến đấu và chiến thắng mọi cám dỗ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…
VII. Giải tán
Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay. Đây là lúc thuận tiện để chúng ta sám hối và sống theo Tin Mừng. Và cũng vì thế cho nên đây cũng là thời gian cứu độ. Chúng ta hãy sống thời gian này một cách hết sức quảng đại. Chúc anh chị em được bình an.
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đây là phân đoạn cuối của Lời tựa (1,1-15), kể lại những hoạt động đầu tiên của Đức Giêsu sau khi chịu phép rửa.
2.- Bố cục
Bản văn này gồm hai đơn vị:
1) Cám dỗ trong sa mạc (1,12-13);
2) “Bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):
a- nơi chốn và thời gian (c.14a),
b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15).
3.- Vài điểm chú giải
– Thần Khí đẩy Người (12): Động từ Hy Lạp ekballô, “quăng ra; đuổi; kéo ra”, thuộc thì “hiện tại lịch sử” (historic present), một thì tiêu biểu của TM Máccô. Trong tác phẩm, động từ này luôn luôn hàm ý sức mạnh, có khi là một sức mạnh áp đảo (đuổi ma quỷ: 1,34; 3,15.22.23; 6,13; 7,26; 9,18.28.38; 16,9.17. Về người: 1,43; 5,40; 11,15; 12,8). Các Tin Mừng Nhất Lãm khác dùng những động từ nhẹ nhàng hơn (Mt: anagesthai, “được dẫn”; Lc: agesthai, “được dẫn”). Ý nghĩa: chính Thánh Thần đã là sức mạnh làm cho Đức Giêsu đi vào hoang địa.
– bốn mươi ngày (13): Trong Mt và Lc, giữa những câu trao đổi giữa Đức Giêsu và Satan, trích từ sách Xh và Ds, chúng ta hiểu đây là một quy chiếu về biến cố Xuất Hành. Còn trong Mc, có thể con số “40” này là một âm vang của cuộc thử thách 40 ngày mà Môsê (Xh 34,28) và ngôn sứ Êlia (1 V 19,1-8) đã trải qua.
– hoang địa (sa mạc): Sa mạc có ảnh hưởng dọc theo lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử này đã ghi lại hai kỷ niệm có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra là hai mặt của cùng một hoàn cảnh: (1) Thời gian ở trong hoang địa trước tiên được trình bày như thời kỳ sống lý tưởng của Dân được Thiên Chúa tuyển chọn; khi ấy, lý tưởng tôn giáo của họ phát triển phong phú và họ sống lý tưởng này ở mức hoàn hảo. (2) Nhưng đây cũng là thời thử thách, thậm chí thời trừng phạt, dành cho tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng. Hoang địa vừa là nơi con người tách mình khỏi trần thế để được thanh luyện (các nhân vật lớn của dân Chúa đến đây để làm cho các chương trình của mình được chín muồi, hoặc để tái phục hồi lòng nhiệt thành), vừa là nơi thử thách. Ở đây, hoang địa là nơi đáng sợ bởi vì có các dã thú cư ngụ. Tác giả không quan tâm xác định một địa điểm theo địa lý.
– Satan (Hp. Sâtân, “kẻ tố cáo, kẻ chống đối” (HL. satanas; x. Mc 3,23.26; 4,15; 8,33): Tên này tương tự với diabolos, “ác thần”, “quỷ”, kẻ điều hành những sức mạnh xấu xa, đối thủ của Thiên Chúa, kẻ thù của loài người.
– cám dỗ (HL. peirazomai, “bị thử thách”, “bị cám dỗ”): Ở đây động từ này hàm ẩn một ý đồ gian ác. Hành động cám dỗ được mô tả như là xảy ra suốt thời gian 40 ngày. Mặc dù tác giả Mc không mô tả chi tiết hơn việc quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là cuộc cám dỗ có một lý do Kitô học, tức được nhắm vào việc thi hành nhiệm vụ Mêsia. Người đã thắng Satan như một báo trước; Người sẽ thắng nó vĩnh viễn (x. 2 Tx 2,3-12; Kh 19,19t; 20,2.10).
– sống giữa loài dã thú và có các thiên thần hầu hạ: Hoang địa Giuđê là nơi cư trú của nhiều loại dã thú; sự kết nối giữa các thiên thần hầu hạ (diêkonoun: thì vị-hoàn [imperfect] để mô tả một việc phục dịch kéo dài suốt thời gian ở trong hoang địa) và sự che chở khỏi các thú dữ khiến có thể coi Tv 91,11-13 là một bối cảnh. Với hoạt cảnh này, tác giả cho hiểu là với Đức Giêsu, thời cánh chung đã bắt đầu: Đức Giêsu là Ađam mới, có thể đưa ta trở lại Địa đàng.
– Sau khi ông Gioan bị nộp (14): Gioan Tẩy Giả lại được giới thiệu là Tiền Hô của Đức Giêsu. Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai sau hoạt động của Gioan. Chi tiết này thuộc về lược đồ lịch sử cứu độ hơn là lịch sử trần thế: Đức Giêsu không thể bắt đầu được trước khi vị Tiền Hô ra khỏi sân khấu. Kết thúc tàn bạo Gioan phải chịu cũng gợi ý xa xa về số phận của Đức Giêsu. Động từ HL paradothênai (thái bị động) khiến ta phải thấy ở đây có bàn tay của Thiên Chúa làm việc (áp dụng cho Đức Giêsu: 9,31; 10,33; 14,41).
– Tin Mừng của Thiên Chúa: Công thức với thuộc-cách này vừa có nghĩa là Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là một “Tin Mừng”, nghĩa là tin về một sự kiện có thật, chứ không phải là một suy diễn, một giả thiết, một lý thuyết, thậm chí một lệnh truyền. Do có mạo từ xác định, đây chính là Tin Mừng tuyệt hảo, mà người ta không thể thêm vào một tin nào hay hơn, tốt hơn, mừng hơn.
– Thời kỳ đã mãn: “Thời kỳ” (kairos [thời gian đã định, lúc] ≠ chronos [khoảng thời gian]) là thời điểm quyết liệt Thiên Chúa đã định, mọi sự tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7,22; Ed 7,12; 9,1; Ac 4,18; Kh 1,3; 1 Pr 1,1). Trong TM Lc, có những quy chiếu về thời kỳ này (Lc 12,56; 19,44).
– Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhận biết như là Chúa Tể và Vua của Israel (x. Is 43,15; 52,7); và người ta chờ đợi Người tỏ mình ra công khai như là Đức Vua và Chúa Tể duy nhất và thống trị tất cả mọi sự thật rõ ràng (x. Mk 4,7; Xp 3,15; Dcr 14,9). Đức Giêsu không nói: “Triều Đại Thiên Chúa mà anh em vẫn chờ đợi đang hiện diện trong mức viên mãn”; nhưng: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Đó là đặc điểm của thời kỳ hoàn tất này, thời kỳ đầy ân sủng và thời kỳ quyết liệt, thời kỳ này bây giờ đã bắt đầu. Như thế, trung tâm của sứ điệp của Đức Giêsu là: “Thiên Chúa là Chúa Tể; vị Chúa Tể này đã gần kề”. Người là vị Chúa Tể có quyền quyết định và lo lắng cho chúng ta. Đó là Tin Mừng tuyệt hảo. “Đến gần” có nghĩa là: khi đến lúc đã định, Triều Đại Thiên Chúa đã đến và kể từ nay bắt đầu tỏ rõ ra: một sự giằng co giữa hiện tại và tương lai. Đây là một sự kiện hiện tại và một sự kiện của thời cuối cùng.
– Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Lời này cũng có nghĩa là “Hãy sám hối là tin vào Tin Mừng”, tức bằng cách (diễn tả qua việc) tin vào Tin Mừng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cám dỗ trong sa mạc (12-13)
Kể từ Giáo Hội sơ khai, các nhà chú giải đã coi bức tranh mô tả Đức Kitô ở trong hoang địa với dã thú như là một đối trưng của Ađam trong vườn. Tình trạng thù nghịch giữa loài người và dã thú, một hậu quả của sự sa ngã của Ađam, không được áp dụng cho Đức Giêsu. Tình trạng Đức Giêsu ở trong hoang địa sống hài hoà với muôn loài và quan hệ thân tình với Thiên Chúa cho thấy đó là hoàn cảnh của nhân loại nếu Ađam đã không phạm tội. Một hoang địa biến thành địa đàng là một hình ảnh ngôn sứ Isaia dùng để mô tả ơn cứu độ (x. Is 11,6-9; 32, 14-20; 65,25).
Không như dân Israel ngày xưa, Đức Giêsu sống một mình khi ở trong hoang địa. Thông thường, sự cô độc này hẳn là dấu chứng tỏ một người điên hoặc bị quỷ ám. Tuy nhiên, các thiên thần là dấu chỉ Đức Giêsu luôn quan hệ với Thiên Chúa: cho dù không có loài người, Con Thiên Chúa có thể cậy dựa vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Tác giả Mc đã nói vắn tắt về Satan khiến các học giả đi đến nhiều kết luận. Một số vị cho rằng Đức Giêsu bị khép vào tình trạng xung đột với Satan xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, Satan không mấy khi xuất hiện trong phần Tin Mừng còn lại như tác nhân cám dỗ. Đức Giêsu mau chóng chứng tỏ Người có khả năng xua đuổi bất cứ thứ quỷ nào. Do đó, rất có thể Mc nhắm cho độc giả nghĩ rằng Đức Giêsu đã phá vỡ quyền lực Satan trước khi sứ vụ của Người bắt đầu.
* Khởi đầu hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.
+ Kết luận
Không giống như TM Mt (4,1-11) và Lc (4,1-13), TM Mc không giải thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa. Các câu chuyện Israel đi trong hoang địa, cũng như Ađam và Evà ở trong vườn là những ví dụ về thế nào là bị cám dỗ và sa ngã. Những câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về thế nào là bị thử thách và đứng vững. Nếu tin tưởng vào Lời Chúa thì đứng vững; nếu không tin tưởng vào Lời Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn trung thành với Thiên Chúa, do đó, dã thú sống hoà bình với Người, còn các thiên thần thì hầu hạ Người.
Muốn chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến, người ta phải triệt để quay về với Thiên Chúa, phải cậy dựa vào Lời Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
- Người Kitô hữu chọn Đức Kitô và xin chịu phép rửa tội, thì chia sẻ số phận của Đức Kitô; người ấy sẽ bị Satan cám dỗ. Tuy nhiên, người ấy cũng sẽ được hỗ trợ bởi chính Đức Kitô và các thiên thần của Người.
- Vì Tin Mừng Đức Giêsu mang đến là Tin Mừng tuyệt hảo, Tin Mừng này là nền tảng cho niềm vui và sự tin tưởng của chúng ta. Ai đón tiếp Tin Mừng này và lưu tâm nghiền ngẫm, thì biết rằng Thiên Chúa ở gần bên để ban ơn cứu độ.
- Thời kỳ Đức Giêsu loan báo liên hệ với các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước: Thiên Chúa trung thành với lời hứa. Do đó, chúng ta vui mừng, tin tưởng và yên tâm ký thác cho Thiên Chúa. Nhưng thời kỳ này chỉ là thời kỳ chan hòa niềm vui cho ai biết nhận định như thế, và có một thái độ thích hợp: “sám hối và tin vào Tin Mừng”, tức là biết chọn lựa.
- Thiên Chúa là Chúa Tể chứ không phải là nô lệ của chúng ta; chúng ta không thể coi Người như ngang vai; chúng ta không thể áp đặt cho Người bất cứ chuyện gì. Người có tất cả mọi quyền bính và sức mạnh; Người quyết định và quy định. Bởi vì Thiên Chúa là Chúa Tể chân thật duy nhất, chúng ta được tự do đối với mọi chúa tể và quyền lực khác. Sứ điệp nói rằng Thiên Chúa là Chúa Tể là sứ điệp về sự giải phóng cơ bản của chúng ta. Mọi chúa tể và quyền lực khác được trả về đúng chiều kích của họ.
- Thiên Chúa là Chúa Tể mọi nơi mọi lúc, nhưng quyền chủ tể của Người có thể ở trong tình trạng giấu ẩn, rất khó nhận ra, đến nỗi người ta có thể nghĩ rằng Thiên Chúa và Triều Đại Người không hiện hữu. Để có thể nhận ra quyền chủ tể của Thiên Chúa, cần phải có đức tin, rồi khám phá ra dần nơi lối cư xử của Đức Giêsu: nơi Người, chúng ta được mạc khải cho biết Thiên Chúa đến gần chúng ta như thế nào với Triều Đại của Người và các hoa trái của Triều Đại Người.
CÁM DỖ TRONG HOANG ĐỊA (1,12-13)
Khác nào một tia sáng lóe rạng, trình thuật phép rửa vừa chấm dứt, Maccô liền cho ta thấy Chúa Giêsu tiến vào một cảnh vực tối tăm. “Thánh Thần liền thúc đẩy Người vào hoang địa”. Chúng ta cần nhờ chính Thánh Thần của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vừa lãnh nhận lại lôi kéo Ngài vào hoang địa. Hoang địa nào? Có lẽ là hoang địa Giuđê, nơi ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện (1,4). Nhưng vấn nạn chính yếu là: tại sao lại vào hoang địa? Hậu cảnh của việc đổi đời này ta gặp thấy trong lịch sử Israel, nhân cuộc Xuất hành. Khi ra khỏi Ai Cập, người Do Thái tiến vào hoang địa Sinai. Và ở đó họ đã gặp những thử thách cam go về lòng trung thành với Thiên Chúa (x. Xh 16,1-4; 17,1-17). Về phần mình, chết được thúc đẩy làm lại tiến trình thiêng liêng của dân Thiên Chúa. Việc Ngài đem dìm mình trong nước sông Giođan nhắc lại cuộc dân Israel băng qua Biển Đỏ (Xh 13,17-14,31). Được Thánh Thần thúc đẩy vào hoang địa, Chúa Giêsu gặp lại nơi đó những “cám dỗ” mà Israel xưa kia đã phải chịu trong hoang địa Sinai. Như vậy, khác nào một Môsê mới, Chúa Giêsu hoàn tất cuộc Xuất hành mới: nơi bản thân trung tín của Ngài đã hình thành dân mới của Thiên Chúa.
“Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ” (c.13a), nửa câu ngắn ngủi này rất có ý nghĩa. Đúng là một nhắc nhở về việc Chúa Giêsu cũng chịu cám dỗ như Israel xưa kia. Con số “bốn mươi” làm ta liên tưởng thời gian người Do Thái lưu lạc trong hoang địa (Đnl 8,2). Nhất là, như Maccô nhấn mạnh, Chúa Giêsu chịu Satan cám dỗ trong đó, Satan xưng danh mà Thánh Kinh (từ thời Gióp, G 1,6) gán cho tên thù bí nhiệm, kẻ chống đối việc thiết lập Vương Quốc Thiên Chúa. Ta sẽ thấy Chúa Giêsu đối đầu với hắn trong các vụ trừ quỷ sau này (x.3,22-23). Ở đây, Maccô là tác giả Tin Mừng duy nhất giữ kín nội những cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu (x.Mt 4,1-11 và Lc 4,1-13). Từ đó Maccô mời gọi độc giả tìm coi lại những cám dỗ mà Chúa Giêsu đã gặp trong suốt thời gian Ngài thi hành sứ vụ. Ta thấy nhiều lần Ngài đã bị khuyến dụ dùng quyền năng Thiên Chúa nơi mình để thiết lập Vương Quốc một cách huy hoàng đắc thắng (x.8,11-13.31-33; 12,13; 14,38; 15,29-32). Trong mỗi dịp có thể biểu lộ thần tính huy hoàng như thế, Chúa Giêsu đều tỏ ra khiêm tốn suy phục Chúa Cha. Như vậy không phải là ngẫu nhiên khi Maccô kết thúc trình thuật ngắn ngủi này bằng cách cho ta thấy Chúa Giêsu chiến thắng trước quyền lực của thần Dữ.
“Người sống giữa loài dã thú…” (c.13b). Ở một nơi đặc biệt nguy hiểm, sự gần gũi giữa con người và thú hoang nói đây làm ta nghĩ tới cảnh thân thiện của thời đại “Mêsia” đã được Isaia mô tả: “Chó sói ở với chiên, beo xám bên cạnh dê con, bê với sư tử được nuôi chung một chuồng, và một em bé dẫn chúng đi chăn” (11,6).
“Và các thiên sứ hầu hạ Người” (c. 13b). Câu này muốn nói đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Đấng Mêsia được coi như Con Người mới, sống trong mối giao hảo toàn vẹn với đất trời. Câu kết này của phần nhập đề nói lên một ngụ ý sâu xa. Ở chính nơi, tức hoang địa, mà Israel đã thất trung với Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu, vị mục tử dân mới của Thiên Chúa sẽ trọn vẹn trung thành.
Qua những hoạt cảnh nối tiếp nhau tuy vắn gọn nhưng giàu ý nghĩa, toàn thể đoạn văn 1,2-13 làm ta có cảm tưởng như đó là khúc mở màn, khi buổi hòa tấu chưa khởi sự, dàn nhạc tuần tự chơi những điệu chính mà các nghệ sĩ độc tấu và ca đoàn sẽ lặp lại và khai triển qua suốt buổi trình diễn. Lời mở đầu này giống như một “bản liệt kê các chủ đề” của toàn bộ cuốn Tin Mừng. Nốt chủ âm đã được xướng lên. Buổi trình diễn có thể bắt đầu.
TIN MỪNG CỦA THIÊN CHÚA (1,14-15)
Hai câu này khác nào một “bản tóm lược”: một cái nhìn bao quát về sứ vụ của Chúa Giêsu như sẽ diễn ra các trình thuật tiếp theo. Maccô đặt Chúa Giêsu trong khuôn khổ những sinh hoạt chính yếu của Ngài tóm lược sứ vụ của Ngài cách thật cô đọng.
Mọi từ trong đoạn văn đều đáng quan tâm (c.14a). Chúng được cân nhắc cẩn thận. Trước hết ta được cho hay rằng Chúa Giêsu chỉ khởi đầu sứ vụ khi Gioan chấm dứt sứ vụ của ông và bị bắt giam. Như vậy là có một mối tương quan giữa sứ vụ của hai người. Maccô không nói Chúa Giêsu từ hoang địa Giuđa trở về (1,12). Không một chuyển tiếp nào cả, ông cho thấy ngay Chúa Giêsu đi tới Galilê. Đó là tỉnh miền Bắc xứ Palestin, nơi Chúa Giêsu sinh trưởng (x. Lc 4,14-16). Nhưng nhất là vì danh xưng Do Thái của nó, “Galilê” là “miền đất ngoại bang” (Is 8,23). Từ nhiều thế kỷ đây là ngã ba đường của các dân tộc. Vì những đoàn quân ngoại quốc và các thương gia đều phải qua lại nơi này, nên Galilê là vùng đất chung đụng từ xưa giữa những người Do Thái và dân ngoại. Trong Tin Mừng Maccô, Chúa Giêsu sẽ coi vùng đất này như một trung tâm “truyền giáo” tuyệt hảo. Vì ranh giới của miền này không rõ ràng nên người Israel dễ có liên hệ với những vùng đất dân ngoại bao quanh: phía bắc có Tia và Siđon, Syrô-Phênêci (bây giờ là Libăng), phía nam có miền Thập tỉnh (bây giờ là Gioocđani). Khi coi Galilê là địa bàn hoạt động chính của Chúa Giêsu, Maccô muốn nhấn mạnh rằng lời ngôn sứ mang tính phổ quát về Đấng Mêsia trong Isaia đã ứng nghiệm: “Dân đi trong bóng tối đã nhận thấy ánh sáng rạng ngời, trên dân cư của xứ sở một luồng sáng đã bừng lên” (Is 8,23-9,1).
Trong miền đất Galilê này, Chúa Giêsu khởi sự “rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (c. 14b). Đó là lời loan báo ơn cứu độ “đến” từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu mang theo với Ngài “Tin Mừng” này (1,1). Các độc giả của Maccô hiểu rất rõ diễn ngữ “rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa”. Đó là nhiệm vụ các Tông đồ đã lãnh nhận sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh (1Tx 2,8). Nhiệm vụ này là làm cho mọi người biết rằng Chúa Giêsu đã tỏ mình ra là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa được các ngôn sứ loan báo. Chính Ngài là “Đấng Cứu độ trần gian” (Ga 4,42).
Tiếp theo, Maccô tóm lược trong hai câu đề tài căn bản trong lời công bố của Chúa Giêsu. Trước hết loan báo rằng giờ thi hành sứ vụ đã đến (c. 15a), nơi các Kitô hữu tiên khởi, thành ngữ “thời kỳ đã mãn” đã trở thành cổ điển. Nó có nghĩa là khi Chúa Giêsu đến là “thời gian đã đầy đủ” (Gl 4,4). Ý muốn cứu độ của Thiên Chúa đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu: Ngài là Đấng Mêsia đã đến để đưa lịch sử tới hồi chung cuộc “Nước Thiên Chúa đã đến gần” cũng là một xác tín của Thánh Kinh. Từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày ở Babilon, Israel đặt tất cả hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và việc thiết lập Vương Quốc Ngài trên mọi dân tộc. Nơi các ngôn sứ lòng mong đợi này càng khẩn thiết hơn (Mi 4,7; So 3,15b; Za 14,9 v.v…). Với Chúa Giêsu, Thiên Chúa hiện diện đang đích thân hoạt động. Vương Quốc Ngài đã gần kề (Mt 12,28b).
Và Maccô kết thúc bản tóm tắt sứ điệp của Chúa Giêsu bằng cách đặt nơi miệng Ngài một lời kêu gọi cấp bách phải hoán cải để đón nhận trong đức tin biến cố hân hoan này (c.15b). Hoán cải –theo sát tiếng Hy Lạp- có nghĩa là “thay đổi não trạng”. Việc biến đổi này, một biến đổi cốt yếu nơi con người để trở lại với Thiên Chúa, cũng chính là nền tảng trong lời giảng dạy của các ngôn sứ (Am 4,6-12). Ở đây, Chúa Giêsu lặp lại một điểm nòng cốt trong sứ điệp của Gioan Tẩy Giả (1,4). Nhưng cùng với sự hoán cải cần phải có “niềm tin” vào Tin Mừng. Đó cũng là lời mời gọi của các Tông đồ khi lần đầu tiên các ngài công bố sự kiện Chúa Giêsu Phục Sinh. Phaolô đã làm thế ở Ephêsô: “Tôi kêu nài những người Do Thái và Hy Lạp trở lại với Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu” (Cv 21,21).
Không phải là ngẫu nhiên, nếu ở đây Maccô nhấn mạnh tới mối liên tục giữa sứ vụ của Giáo Hội và sứ vụ của Chúa Giêsu. Giữa hai sứ vụ này là cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Người loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa lại trở nên chính đối tượng của lời loan báo. Điều này không thể không gây ấn tượng nơi độc giả.
SAU KHI CHỊU THỬ THÁCH VÀ CHIẾN THẮNG, ĐỨC GIÊSU KHỞI ĐẦU SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO Ở GALILÊ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Thần Khí đẩy Người vào hoang địa.
Mỗi năm cứ đến Chúa nhật thứ I Mùa Chay chúng ta lại đọc tường thuật về cuộc Cám dỗ của Đức Giêsu. Matthêu và Luca trình bày giai thoại này như một cuộc đọ sức mà hai bên dùng lời Cựu ước để tranh thắng bại, giữa Đức Giêsu và Tên Cám Dỗ. Còn về phần Máccô, ông đã khôn khéo tóm lược trong hai câu, vừa ngắn gọn lại vừa đầy đủ.
Đức Giêsu vừa đến xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa ở sông Giođan. Ở đó Người đã được thánh hiến để làm Đấng Mêsia Vua và làm người Tôi Tớ của Thiên Chúa. “Đây là Con Ta yêu dấu”, tiếng từ đám mây đã tuyên phán như vậy, “trong Người, Ta được hài lòng”. Là Môsê mới, Người đã băng qua nước thuộc về một cuộc xuất hành mới. Người được giao trọng trách tụ họp một dân mới để dẫn họ về đất hứa; Người đã nhận lãnh Thần Khí là quyền năng của Thiên Chúa để chu toàn trọng trách đã nhận.
Máccô viết tiếp: Chính Thánh Thần liền đẩy Người vào hoang địa.
+ “Liền”: Còn cách nào nhấn mạnh mối tương quan giữa phép rửa và cuộc thử thách hơn thế? Nào ta có thể cảnh báo những ai đã chịu thanh tẩy hoặc những dự tòng đang chuẩn bị để lãnh bí tích này một cách rõ ràng hơn, rằng họ đừng ngạc nhiên khi họ phải đương đầu với thử thách?
+ “Thần Khí đẩy Người vào hoang. địa”, nếu dịch nguyên văn thì phải viết: “ném người vào hoang địa”, giống như dân Israel thuở xưa, khi được lôi ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, đã bị ném ra ngoài, bị xua đuổi đi (Xh 6,1; 11,1; 12,33).
Tại sao lại vào “sa mạc”? – Thưa bởi vì theo truyền thống Kinh Thánh, hoang địa nơi thử thách cũng là nơi con tim Thiên Chúa và lòng tin con người được bộc lộ, nơi khởi đầu mọi sự; nơi thiết lập Giao ước.
- Potin viết: “Đối với người Do Thái thì hoang địa là nơi thử thách ròng rã 40 năm dài. Dân Israel lâm vào một cuộc chiến không ngừng là chọn giữa Thiên Chúa thật, Đấng vừa cứu họ khỏi ách nô lệ và tự mạc khải ở núi Sinai, với bên kia là những tà thần, nào là của Ai Cập, nào là của những dân ở Canaan, những thần mà lúc nào họ cũng muốn chạy theo. Đức Giêsu không thoát khỏi cuộc thử thách này. Thử thách bắt buộc người, Vị được chọn của Thiên Chúa, phải lựa chọn một lần dứt khoát, cái lựa chọn sẽ dẫn Người đến con đường thảm kịch. Trong hoang địa, cái đói cái khát làm nổi lên trước mắt những vùng sáng chói ngời, đó có thể là những ảo ảnh, mà cũng có thể là dân Hứa. không ai có thể chọn trải qua cuộc chiến như thế, nếu không là kẻ tự phụ. Người ta bị Thần Khí đẩy vào, như Máccô đã viết, Thần Khí sức mạnh của Thiên Chúa từ nay được che giấu sâu kín trong ý chí và trong con tim” (“Jésus, l’histoire vraie”, Centurion, trang 114).
2) Đức Giêsu đối đầu và toàn thắng thử thách.
“Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ”, Máccô viết tiếp.
“Bốn mươi”: đối với người am hiểu Kinh Thánh đây là một con số mang nặng ý nghĩa: con số tượng trưng sửa soạn cho một cuộc khởi đầu mới. Nước Đại hồng thuỷ đã tràn ngập mặt đất suốt 40 ngày và 40 đêm, trước khi Thiên Chúa lập giao ước với ông Noe và dòng dõi. Trong 40 ngày và 40 đêm, ông Môsê chuẩn bị trên núi Sinai lãnh nhận Lề luật của Giao ước trước khi truyền lại cho dân. Trong suốt 40 năm, dân Israel được Thiên Chúa gỡ cho khỏi ách nô lệ Ai Cập đã dong duỗi hành trình trong hoang địa trước khi vào được Đất Hứa. Cũng trong 40 ngày và 40 đêm, ngôn sứ Êlia đã đi bộ về núi Horép, núi của Thiên Chúa, để ở đó lãnh nhận sứ mạng tái lập giao ước.
Ở đây thánh ký Máccô tỏ cho ta thấy rằng một khởi đầu mới đã khai mào. Đức Giêsu đã muốn làm lại cuộc hành trình do chính bản thân, cuộc hành trình thiêng liêng của dân Người; Người chiến thắng những cám dỗ mà xưa kia dân Israel đã bị thất bại trong hoang địa, với vai trò Môsê mới, Người đi đầu dẫn dắt dân mới về Đất Hứa.
– Trong Tin Mừng của ông, Máccô cũng không quên nhấn mạnh cám dỗ, mà Đức Giêsu phải liên lỉ đương đầu, là dùng quyền năng thần thiêng để áp đặt vương quốc Thiên Chúa. Ong tuy chỉ nhắc đến bằng một câu hết sức sơ sài; ông viết: “Người chịu Satan cám dỗ “.
Rồi bằng một câu ngắn, ông công bố cuộc khải hoàn của Đức Giêsu trên quyền lực của sự dữ:
– “Người sống giữa loài dã thú”. Đó là một cách tuyên bố rằng Đức Giêsu khánh thành thời đại cứu thế, mà ngôn sứ Isaia nói đến: “sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng” (Is 11,6).
+ “Và có các thiên sứ hầu hạ Người”. Một kiểu nói của Máccô ám chỉ sự trợ giúp thần thiêng dành cho người mà trong gian nan thử thách đã đặt hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chua. Ở trong Cựu ước – Matthêu và Luca trong tường thuật song hành đã trich dẫn rõ ràng Thánh vịnh 90: “Người truyền cho thiên sứ và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vập chân vào đá”.
- Hervieux kết luận: Đấng Mêsia xuất hiện như một Con Người mới, sống hoà hợp tuyệt vời với trời cao cũng như đất thấp. Câu kết của đoạn Dẫn Nhập nay nói lên rất nhiều điều. nơi mà Israel đã tỏ ra bất trung với Thiên Chúa, thì Đức Giêsu, vị Chủ lại của dân mới, đã tỏ ra thái độ trung thành tuyệt hảo” (L’Evangile de Marc”, Centurion, trang 25).
3) Khai mạc sứ mạng của Người ở Galilê.
Thế giới mới mà Đức Giêsu vừa khai mở do toàn thắng Satan trong cuộc thử thách nơi hoang địa, bây giờ Người công bố bằng lời nói và bằng hành động.
Máccô nêu rõ, Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng của người. “Sau khi ông Gioan bị nộp” để nói lên sự liên tục của sứ mạng Người với sứ mạng của Gioan.
“Người đến miền Galilê”, là quận của dân ngoại, là miền đất cư ngụ người Do Thái pha trộn người dân ngoại, là tỉnh bị Giêrusalem coi khinh.
Người công bố khai mạc thời đại mà những loan báo của các tiên tri được thực hiện. Giờ đây Thiên Chúa bắt đầu hoạt động ra tay, Vương quốc của Người đã đến gần: “Thời kỳ đã mãn và Triều đã Thiên Chúa đã đến gần”? Người ta cần phải thống hối ngay để đón nhận biến cố hồng phúc này trong đức tin: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
BÀI ĐỌC THÊM.
Một cuộc lật ngược ngoạn mục, chỉ bằng 1 câu văn.
(H.Vulliez, trong cuốn ~dieu si proche, Năm B” Brouwer, trang 34).
Thánh ký Máccô chỉ dùng một câu văn mà trình bày được một cuộc lật ngược ngoạn mục: một Đức Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa, trở thành một Đức Giêsu sáng ngời trong một vũ trụ hoà hợp và xinh đẹp. Đó là tạo thành mà Thiên Chúa yêu quý. Một Đức Giêsu toàn thắng sự dữ, trong một thế giới được hoà giải với chính mình và với Thiên Chúa. Ở đó ta tìm thấy toàn bộ Kinh Thánh, toàn bộ lịch sử nhân loại, chỉ trong vài hàng chữ đầy kỷ niệm, ta thấy nổi lên nguồn hy vọng vượt khỏi tầm mức con người.
Đức Giêsu ở trong hoang địa 40 ngày chịu sa tan cám dỗ. Thế rồi, báo trước buổi bình minh vượt qua, Người sống an hoà với mãnh thú, và các thiên sứ từ trời xuống hầu hạ Người. Hoang địa, một vùng đất mênh mông đầy thế lực thù nghịch. Cuộc sống luôn bị thần chết đe doạ. Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người đến để lật ngược tình thế: là trả lại cho Thiên Chúa và cho vũ trụ đã ra méo mó, dung mạo của Thiên Chúa. Thần Khí bay lượn trên miền đất khô ráo và kìa Đấng Hằng Sống chỗi dậy trong một khu vườn xanh tươi và nở đầy bông. Bức phù điêu khắc hình Ađam đã lật sang mặt kia có hình Đức Kitô. Địa đàng đã không bị mất phía sau mình. Mà nó đang ở phía trước, người ta phải tìm kiếm thì mới tìm thấy, nhờ cộng tác với Đức Giêsu và nhận Thần Khí.
Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, 40 ngày sa mạc để được quyến rũ và lôi kéo bởi niềm hy vọng mãnh liệt, hy vọng rằng mọi vật trong vũ trụ sống hoà hợp trong Đức Kitô, tuy chưa hoàn tất; nhưng đang hoạt động rồi.
THỜI GIAN CHỊU THỬ THÁCH (1,12-13)
Giờ vinh quang của phép rửa qua chưa được bao lâu, tiếp đến là chiến trận của cám dỗ. Có một điểm nổi bật ở đây hết sức sống động mà ta không thể bỏ qua. Chính Thần Khí đã giục Chúa Giêsu vào hoang địa để trải qua thử thách. Chính Thần Khí vừa ngự xuống trên Ngài lúc chịu phép rửa đã đưa Ngài vào hoang địa.
Sống trên đời, chúng ta sẽ không thể nào tránh được việc tấn công của cám dỗ, nhưng điều chắc chắn là những cám dỗ không nhằm khiến chúng ta phải sa ngã. Chúng đến nhằm củng cố các gân cốt của trí tuệ, tấm lòng và linh hồn chúng ta. Chúng không được đưa đến nhằm làm hại, hủy diệt chúng ta, nhưng nhằm đem lợi ích cho chúng ta. Chúng là những phương tiện thử nghiệm để khi ra khỏi đó, chúng ta sẽ trở thành những chiến sĩ, những lực sĩ thiện chiến hơn, mạnh mẽ hơn của Chúa. Giả sử có một thanh niên chơi túc cầu thật hay trong đội dự bị và thấy nhiều triển vọng, người huấn luyện của cậu sẽ làm gì đây? Chắc chắn ông không xếp cậu đá cho đội hạng bét để suốt trận cậu chẳng cần đổ mồ hôi, nhưng ông sẽ xếp cậu đá cho đội tuyển chính thức để cậu phải chịu thử thách như chưa bao giờ chịu thử thách trước đó, để cậu có cơ hội chứng tỏ chính mình. Đó là mục đích mà cám dỗ nhắm vào, đó là cơ hội tạo cho chúng ta tự chứng minh nhân cách của mình để khi ra khỏi đó, được vững vàng, mạnh mẽ hơn cho cuộc chiến đấu.
Bốn mươi ngày là một cụm từ không nên hiểu theo nghĩa đen. Người Do Thái thường dùng từ ấy chỉ một thời gian đáng kể. Môsê đã lên đỉnh núi với Chúa bốn mươi ngày (Xh 24,18). Sau khi được bữa ăn của Thiên Sứ, Êlia đã có sức để đi trong bốn mươi ngày (IV 19,8). Người Do Thái không dùng câu bốn mươi ngày theo nghĩa đen, nhưng nhằm chỉ một thời gian tương đối dài.
Chính quỷ Satan đã cám dỗ và thử thách Chúa Giêsu. Quan niệm về quỷ Satan rất lý thú, đáng cho chúng ta chú ý.
Từ Satan trong Hy văn chỉ có nghĩa đơn là kẻ chống đối, kẻ thù. Trong Cựu Ước nó vẫn được dụng nhiều lần theo nghĩa là những kẻ thù thông thường, những người chống đối. Vị thiên sứ của Chúa là Satan đứng chặn đường Balaam (Ds 22,22). Dân Philitinh sợ rằng Đavít có thể trở thành Satan của họ (2Sm 29,4). Đavít xem Abisai như Satan của mình (2Sm 19,22). Salômôn tuyên bố rằng Thiên Chúa đã cho ông hòa bình, thịnh vượng đến nỗi nhà vua không còn Satan nào chống lại mình nữa (1V 5,4). Ban đầu từ ấy chỉ có nghĩa là kẻ thù, nhưng dần dần có thêm nghĩa là kẻ kiện cáo người khác. Chính theo nghĩa ấy, chữ Satan đã được dùng ở Gióp 1. Cần ghi nhận rằng trong chương đó, Satan chính là một trong những con cái của Chúa (G 1,6), nhưng công tác đặc biệt của Satan là soi mói con người (G 1,7) để tìm dịp kiện cáo họ trước mặt Chúa. Việc làm của Satan là kiếm đủ thứ chuyện để sống.
Một danh hiệu khác nữa của Satan là ma quỷ, từ ma quỷ vốn do từ Hy văn diabolos, nghĩa đen là kẻ nói hành. Từ ý nghĩa là kẻ kiếm chuyện để chống lại một người đến ý nghĩa là kẻ cố ý và quỷ quyệt nói hành, nói xấu một người trước mặt Thiên Chúa chỉ là một bước ngắn. Nhưng trong Cựu Ước, Satan hãy còn là một sứ giả của Chúa, chứ chưa phải là kẻ thù quỷ quyệt số một của Ngài, nó chỉ là kẻ thù của loài người mà thôi.
Rồi vẫn còn thêm ý nghĩa hiểu về Satan. Sau khi bị lưu đày, dân Do Thái học hỏi được một số tư tưởng của Ba Tư. Tư tưởng của Ba Tư được đặt trên quan niệm cho rằng trong vũ trụ này có hai thế lực, một thế lực của ánh sáng và một thế lực của tối tăm –Orrnuzd và Ahriman- một thế lực của điều thiện và một thế lực của điều ác. Toàn thể vũ trụ là bãi chiến trường của chúng và loài người phải chọn đứng về phe nào trong cuộc tranh chấp ấy. Thật ra người ta nhình biết và cảm thấy cuộc đời là như vậy. Tóm lại, trên đời này có Chúa và kẻ thù của Ngài. Hầu như không thể nào mà không hiểu Satan là kẻ thù số một, tiêu biểu cho mọi thù địch. Đó chính là ý nghĩa của tên nó, loài người luôn luôn hiểu về nó như thế, Satan đã trở thành kẻ chống nghịch Thiên Chúa.
Trong Tân Ước, chúng ta thấy ma quỷ hay Satan ẩn mình phía sau bệnh tật và đau khổ của con người (Lc 13,16). Chính Satan đã quyến rũ Giuđa (Lc 22,3), ma quỷ là kẻ chúng ta phải chống lại (1Pr 5,8.9; Gc 4,7), chính quyền lực của ma quỷ bị công việc của Chúa Cứu Thế đập tan (Lc 10,1-19), chính ma quỷ đã bị hủy diệt hoàn toàn vào ngày sau cùng (Mt 25,41). Satan là thế lực chống lại Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta có câu chuyện về cám dỗ, Chúa Giêsu cần quyết định phải là công việc của mình như thế nào. Ngài biết rằng đây là một công việc phi thường và Ngài cũng ý thức đến những quyền lực phi thường. Thiên Chúa Cha đã phán với Ngài “Hãy đem tình yêu của ta đến cho loài người, hãy yêu thương họ đến nỗi con sẽ vì họ mà chịu chết, hãy chinh phục họ bằng tình yêu thương không gì chiến thắng được, cả khi con phải kết thúc nó trên Thập giá”. Quỷ Satan bảo với Chúa Giêsu “Hãy dùng quyền phép của người để quét sạch loài người, hãy tiêu diệt các kẻ thù của ngươi, hãy chiếm lấy thế gian này bằng sức mạnh, quyền phép và làm đổ máu”. Thiên Chúa phán với Chúa Giêsu “Hãy thiết lập vương quyền bằng tình yêu”, Satan bảo Ngài “Hãy thiết lập một chế độ độc tài bằng bạo lực” Chúa Giêsu đã phải chọn giữa phương pháp của Thiên Chúa và đường lối của kẻ thù Thiên Chúa.
Câu chuyện ngắn gọn của Maccô kể lại về cám dỗ đã chấm dứt bằng hai nét sống động.
1/ Có thú rừng ở chung với Ngài. Trong vùng hoang địa có beo, gấu, heo rừng, chó rừng lang thang khắp nơi. Người ta thường cho rằng đó là những chi tiết sống động làm cho thêm vẻ đen tối, ghê rợn của khung cảnh. Nhưng sự thật không phải vậy, đây là một điều hết sức đẹp đẽ vì nó có thể có ý nghĩa là các thú dữ đã đến để kết bạn với Chúa Giêsu. Trong giấc mơ của dân Do Thái về hoàng kim thời đại, họ vẫn mơ có một ngày nào đó, sự thù địch giữa loài người và loài vật không còn nữa “trong ngày đó Ta sẽ vì chúng mà lập Giao Ước cũng những thú đồng, chim trời và côn trùng trên đất” (Os 2,18), “bấy giờ muông sói sẽ ở với chiên, beo nằm với dê, trẻ con đương bú sẽ chơi kề bên rắn hổ mang, trẻ con thôi bú sẽ thò tay vào hang rắn lục, nó chẳng làm hại, chẳng giết ai trong cả núi thánh của Ta” (Is 11,6-9). Sau này, chúng ta thấy Thánh Phanxicô đã giảng cho thú vật. Rất có thể ở đây cho chúng ta được nếm trước vẻ đẹp của thời kỳ mà con người và loài thú sẽ sống hòa bình với nhau. Chúng ta được thấy bức tranh trong đó loài thú nhận biết trước loài người rằng Ngài sẽ là bạn và là Vua của chúng.
2/ Có thiên sứ hầu Ngài. Trong lúc thử thách bao giờ cũng có sự thêm sức của Chúa. Lúc Êlisê và đầy tớ ông bị kẻ thù bao vây tại Đôtha và dường như chẳng còn đường nào thoát được. Êlisê đã xin Chúa mở mắt cho đầy tớ ông và chàng thanh niên ấy thấy chung quanh có những ngựa và xe bằng lửa của Chúa (2V 6,17). Chúa Giêsu đã không bị bỏ mặc một mình để chiến đấu trong cô đơn, và chúng ta cũng vậy.
SỨ ĐIỆP PHÚC ÂM (Mc 1,14-15)
Trong bảng tóm tắt sứ điệp của Chúa Giêsu trên đây, có ba chữ vốn là những chữ quan trọng trong đức tin Kitô giáo.
1/ Có Tin Mừng. Đó là Tin Mừng ưu việt mà Chúa Giêsu đã đem đến cho loài người. Theo dõi từ euaggelion, Phúc âm, qua suốt Tân Ước, ít ra chúng ta cũng thấy được điều gì đó trong nội dụng của nó.
(a) Đó là Tin Mừng chân lý (Gl 2,5; Cl 1,5). Trước khi Chúa Giêsu đến, loài người chỉ phỏng đoán, mò mẫm để tìm Thiên Chúa. Gióp từng than thở “Ôi chớ chi tôi biết nơi nào tìm được Chúa” (G 23,3). Marcus Aurelius bảo linh hồn chỉ có thể nhìn thấy lờ mờ, và chữ ông dùng là một chữ Hy Lạp chỉ về việc trông thấy xuyên qua nước. Nhưng khi Chúa Giêsu đến, người ta thấy rõ ràng Thiên Chúa là thế nào. Họ không còn cần phỏng đoán, mò mẫm nữa, họ biết rõ.
(b) Đó là Tin Mừng hy vọng (Cl 1,23). Thế giới thời cổ là một thế giới bi quan, Seneca đề cập về “sự bất năng, bất lực của chúng ta là điều tất yếu”. Trong cuộc chiến đấu cho điều thiện, loài người đã bị đánh bại và Chúa Giêsu đến đem hy vọng cho những tâm hồn tuyệt vọng.
(c) Đó là Tin Mừng bình an (Ep 6,15). Hình phạt dành cho con người là một nhân cách bị rạn nứt, giằng xé trong nội tâm. Trong nhân tính, con thú và thiên thần bị hòa lẫn vào nhau một cách quái dị. Người ta kể rằng có lần triết gia đi qua Schopenhauer, đang đi lang thang, có người hỏi: Ông là ai? Ông đáp: Tôi hy vọng ông có thể nói cho tôi biết. Còn Robert Burns tự nói về mình “Cuộc đời của tôi làm cho tôi nhớ lại một ngôi đền đã đổ nát. Ở một phần thì thật vững chắc, cân đối, nhưng ở những phần khác thì đầy lỗ hổng và những cảnh đổ nát hư hại tuyệt vọng”. Cái rắc rối nơi con người luôn luôn bị cả tội lỗi lẫn sự thiện ám ảnh. Chúa Giêsu đã đến để kết hợp phần nhân cách bị tách rời đó của con người lại với nhau, Ngài đã chiến thắng bản ngã để giúp kẻ được Ngài chinh phục, chiến thắng được phần bản ngã đang tranh chiến của mình.
(d) Đó là Tin Mừng về lời hứa của Thiên Chúa (Ep 3,6). Nói đúng ra, thì loài người luôn luôn nghĩ về một Thiên Chúa đầy đe dọa chứ không phải là một Thiên Chúa của những lời hứa. Tất cả các tôn giáo phi Kitô giáo đều nghĩ đến một Thiên Chúa hay đòi hỏi điều này, điều nọ, chỉ Kitô giáo mới giảng về một Thiên Chúa sẵn sàng ban cho nhiều hơn những gì chúng ta cầu xin.
(e) Đó là Tin Mừng về sự bất tử, bất diệt (2Tm 1,10). Với người ngoại đạo, thì sống là đang ở trên đường đi tới cõi chết, đặc điểm của loài người là hay chết, nhưng Chúa Giêsu đã đến với Tin Mừng là chúng ta đang đi trên con đường sự sống chứ không phải con đường sự chết.
(g) Đó là Tin Mừng cứu rỗi (Ep 1,13) và Tin Mừng ấy không phải là một cái gì tiêu cực, nó là một điều tích cực. Nó không phải chỉ đơn giản là giải phóng khỏi hình phạt, khỏi các tội lỗi của quá khứ, nhưng là quyền phép để sống chiến thắng và để chinh phục tội lỗi. Sứ điệp của Chúa Giêsu thật là những tin tốt lành.
2/ Có từ ăn năn. Ăn năn không quá dễ dàng như thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghĩ. Từ Hy văn metanoia nghĩa đen là thay đổi tâm trí. Chúng ta rất dễ lẫn lộn hai sự việc là hối tiếc vì các hậu quả của tội lỗi với hối tiếc vì chính tội lỗi. Nhiều người hết sức hối tiếc, về tình trạng bẩn thỉu mà họ đã dính vào nhưng chính họ cũng hiểu rằng, nếu họ biết chắc là có thể tránh được các hậu quả của tội lỗi thì họ vẫn cứ tái phạm như thường. Họ không thù ghét chính tội lỗi, chỉ không thích các hậu quả của nó. Sự ăn năn thật có nghĩa là chẳng những hối tiếc về hậu quả của nó. Sự ăn năn thật có nghĩa là chẳng những hối tiếc về hậu quả của tội lỗi mà còn thù ghét chính tội lỗi nữa. Từ xưa, nhà văn lão thánh Montaigne đã viết trong tập tự truyện của ông. “Trẻ con phải được dạy dỗ để ghét thói xấu, vì chính bản chất của nó, để chẳng những tránh hành động, mà còn ghét thói xấu tận thâm tâm nữa, để chính ý nghĩ về thói xấu cũng khiến chúng ghê tởm dù dưới bất cứ hình thức nào”. Ăn năn có nghĩa là kẻ đang yêu thích tội lỗi trở lại thù ghét nó vì tính cách khốn cùng của tội lỗi. Vậy ăn năn là hoán cải.
3/ Có từ tin. Chúa Giêsu phán “Hãy tin vào Tin Mừng”. Tin Tin Mừng chỉ đơn giản có nghĩa là nắm lấy lời phán dạy của Chúa Giêsu, tin rằng Chúa đúng như lời Chúa Giêsu nói với chúng ta, tin rằng Chúa yêu thương thế gian đến nỗi sẳn sàng hy sinh bất cứ điều gì để đưa chúng ta trở về với Ngài, tin rằng điều nghe ra khó có thể là sự thật, sẽ thật sự trở thành sự thật.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Lại bắt đầu một mùa chay thánh, một cuộc hành trình đức tin với Đức Giêsu Kitô. Bởi vì, mùa chay mời gọi mọi Kitô hũu cải thiện đời sống, đổi mới để lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa. Mùa chay dẫn người tín hữu của Chúa đi vào mầu nhiệm chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Do đó, mùa chay là mùa Thiên Chúa ban hồng ân cách đặc biệt, nhưng đồng thời mùa chay cũng mời gọi chúng ta cải thiện đời sống, đổi mới cuộc đời, thay đổi lối sống tốt hơn, cởi bỏ con người cũ để mặc lấy Đức Kitô.
Khai mạc sứ vụ công khai rao giảng nước Thiên Chúa bằng phép rửa bởi tay Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ xung quanh Ngài, Chúa Giêsu đã hướng về Giêrusalem. Chúa Giêsu đã cho nhân loại thấy rõ ý định của Cha Ngài. Bởi vì Thiên Chúa Cha sai Ngài đến trần gian không phải để làm theo ý của mình mà là làm theo ý của Chúa Cha. Cả cuộc đời của Ngài là chuẩn bị cho sự chết để cứu độ nhân loại và phục sinh để làm vinh danh Thiên Chúa Cha. Do đó, ngay từ khi còn ở trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria, Chúa Giêsu đã sẵn sàng cho cuộc hành trình của Ngài dẫn đến thánh giá, và khi đi vào cuộc đời rao giảng Chúa Giêsu đã chuẩn bị bằng cuộc ăn chay, hãm mình 40 đêm ngày trong hoang địa. Đây là cuộc chuẩn bị rất kỹ càng, Ngài đã kết hợp mật thiết với Chúa Cha để nghe Lời Chúa Cha và thực hiện ý Chúa Cha. Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho cuộc hành trình bằng cuộc hành trình vượt qua hay là mầu nhiệm vượt qua. Trong thánh lễ lúc tuyên xưng đức tin chúng ta đọc rõ ràng: “Con tuyên xưng Chúa đã chết đi, con tuyên xưng Ngài đã sống lại…” và “Lạy Chúa Cứu Thế, Chúa đã chịu khổ hình thập giá và sống lại vinh quang để giải thoát muôn người, xin cứu độ chúng con”.
Giêsu đã nhận phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Đây là phép rửa sám hối, xin ơn tha tội. Chúa làm thế để nói cho nhân loại Ngài cảm thông với nỗi yếu hèn của con người.Và từ đó chúng ta qua bí tích rửa tội được chia sẻ mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu.Thánh Phêrô trong thứ thứ nhất của Người nhấn mạnh:” Chúng ta được cứu rỗi, được tẩy sạch tội lỗi qua phép rửa tội như Thiên Chúa đã cứu ông Noe và gia đình ông khỏi nạn đại hồng thủy”. Phép rửa đem lại bình an và ơn tha thứ: “Bằng sự chết, Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta; bằng sự sống lại, Ngài phục hồi sự sống của chúng ta”. Con người thật yếu đuối,quyết tâm đó nhưng rồi lại luôn sa ngã, tuy nhiên Chúa luôn yêu thương và giải thoát chúng ta qua bí tích giải tội. Bí tích giao hòa đem chúng ta thiết lập lại giao ước tình yêu của chúng ta đối với Chúa khi chúng ta chịu phép rửa.
Mùa chay là thời gian quay trở về, là thời gian hồi tâm để nhìn vào Chúa hơn là nhìn vào mình. Nhìn vào Chúa để thấy mình con quá khiếm khuyết phải cố gắng vươn tiến.Mùa chay cũng là lúc dừng lại để nhận ra những cạm bẫy, những thử thách, những cám dỗ đang bủa vây xung quanh chúng ta. Tỉnh thức để dễ dàng tránh những cạm bẫy. Cầu nguyện để không sa bẫy của ma quỷ. Chính Chúa Giêsu cũng luôn phải cảnh tỉnh: “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ” (Mc 1, 13). Chính vì thế, chúng ta phải biết cậy dựa vào Chúa.
Đời là một cuộc chiến đấu liên lỉ, có Chúa chúng ta sẽ luôn đứng vững.Chúa kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúng ta tin vào Thiên Chúa, tin vao ơn cứu rỗi, tin vào sự sống Chúa mang đến, do đó, chúng ta sẵn sàng sám hối.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn tin vào Chúa nhờ đó, chúng con luôn thắng vượt những cơn cám dỗ ở trần gian này. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Mùa chay là dịp, là cơ hội thuận tiện nhất để chúng ta quay về với Chúa, và nhận ra vô vàn cám dỗ đang bủa vây chúng ta. Những cám dỗ này dù được trá hình dưới bất cứ hình thức nào thì nó vẫn là những vật làm cản trở bước tiến của chúng ta đến với Chúa và đến với anh chị em của chúng ta. Chúa nhật I mùa chay, năm B, mời gọi chúng ta hãy vào sa mạc với Đức Kitô để ăn chay, cầu nguyện và với sự tác động của Chúa Thánh Thần, chắc chắn chúng ta sẽ lướt thắng ma quỉ và những mưu mô trá hình của chúng. Chúng ta cũng sẽ như Đức Kitô với ý của Chúa Cha, chúng ta quyết định cuộc đời của chúng ta…
Sau khi lãnh nhận phép rửa thống của Gioan Tẩy Giả bên dòng sông Giorđăng, Chúa Giêsu đã khai mạc sứ vụ công khai của Ngài bằng lời mời gọi: ” Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng ” (Mc 1, 15). Rồi cũng chính thời gian đó, Thánh Thần đã dẫn đưa Ngài đến nơi thanh vắng, nơi hoang địa để ăn chay, cầu nguyện. Đây là cuộc tĩnh tâm của Chúa Giêsu kéo dài trong vòng 40 đêm ngày. Và chính trong cuộc tĩnh tâm này, Chúa đã định hướng rõ ràng cho sứ vụ cứu thế của Ngài và cũng chính nơi hoang địa Chúa chịu ma quỉ cám dỗ, và Ngài đã chiến thắng ma quỉ để khai mở sứ vụ rao giảng và cứu độ của Ngài.
Trong sứ vụ rao giảng Nước Trời, Chúa Giêsu đã cho thấy: ” Biến cố lớn lao về sự chết và phục sinh của Ngài được gọi là Mầu Nhiệm Vượt Qua “. Do đó, phép rửa là Bí tích lớn lao Mùa chay gợi lên bởi vì qua phép rửa chúng ta được kết hiệp với Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô.Bài đọc I thánh Phêrô cho chúng ta thấy chúng ta đã được cứu chuộc qua Bí tích rửa tội như Thiên Chúa đã cứu ông Noe và gia đình khỏi cơn đại hồng thủy. Qua cơn đại hồng thủy, Thiên Chúa đã thiết lập một giao ước tình yêu với dân của Người.. Nước rửa tội giúp chúng ta từ tình trạng tội lỗi bị chết như mọi người, chúng ta được tái sinh trong đời sống mới của Đức Kitô và chúng ta được sống cuộc sống mới và đi vào sự sống vĩnh cửu đời đời. Khi lãnh nhận Bí tích rửa tội, chúng ta nên trong trắng, nên tinh tuyền, sạch mọi vết nhơ tội lỗi nhưng vì là con người chúng ta vẫn còn lỗi phạm và hay sa ngã, tuy nhiên chúa đã giải hòa chúng ta qua Bí tích giải tội, bí tích lớn lao chúng ta luôn phải nghĩ, luôn phải mau mắn đến với Bí tích này trong Mùa chay.
Bí tích hòa giải nhằm giúp chúng ta làm hòa với Chúa và làm hòa với anh chị em của chúng ta.
Là Kitô hữu, chúng ta đang mặc lấy con người mới là Đức Kitô. Tuy nhiên là con người mang thân phận yếu hèn, tội lỗi, chúng ta luôn bị ma quỉ, sự dữ bủa vây. Những cám dỗ luôn là những thử thách, những thách đố cho chúng ta. Những cám dỗ có thể nói luôn nhiều, luôn đầy dẫy. Ma quỉ dưới nhiều hình thù quai ác dẽ làm mê hoặc đời sống của chúng ta. Xưa ma quỉ đã dùng tiền tài, danh vọng, phù hoa, phú quí để cám dỗ Chúa. Ngày nay, chúng con dùng nhiều cám dỗ tinh vi, thủ đoạn hơn nữa để thúc giục con người sa ngã, phạm tội. Nên, chúng ta phải có ơn Chúa đễ biết chọn lựa điều tốt, điều xấu, việc nên làm và việc không nên làm vv…Ngày nay, với khoa học tiến bộ vượt bực, với Internet, với những kiểu dụ dỗ tinh vi như ma túy, sì ke, như bài bạc, như ăn mặc hở hang, như những chất kích dục, những hình ảnh sex đang làm mê hoặc rất nhiều người.
Thắng được cám dỗ là điều đòi hỏi cử chỉ, thái độ anh hùng, thái độ từ bỏ, hy sinh…Thắng thể xác nhiều khi còn dễ hơn thắng cám dỗ tinh thần. Do đó, chúng ta cần phải có ơn Chúa, cần phải từ bỏ và hy sinh tập luyện không ngừng.
Cám dỗ nào cũng khiến chúng ta chỉ nghĩ tới mình, và nhiều khi chúng ta im lặng, mù quáng để phạm tội, để chấp nhận. Chúng ta phải biết ăn chay, cầu nguyện và thực hành đức ái, nghĩ tới tha nhân bằng việc bố thí. Chỉ khi nào chúng ta bám chặt lấy Chúa thực sự chúng ta mới dễ dàng lướt thắng và thắng được những cám dỗ đang kéo chúng ta dần xa Chúa và xa anh em.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, hằng năm Chúa ban cho chúng con bốn mươi ngày chay thánh, để tôi luyện hồn xác chúng con. Xin giúp chúng con sống những ngày khắc khổ ấy, để học biết Đức Kitô, và dõi theo gương Người, hầu xứng đáng hưởng ơn Người cứu độ. (Lời nguyện nhập lễ, Chúa nhật I mùa chay).
(Suy niệm của Sr. Margareta Maria Hiền)
Mahatma Gandhi có kể về cuộc đời ông như sau:
Hồi tôi mười lăm tuổi, tôi mắc một tội rất xấu, là tội ăn trộm. Khi đó tôi mắc nợ người bạn một số tiền khá lớn, thế rồi tôi đã về lấy của cha tôi một vòng đeo tay bằng vàng để bán lấy số tiền trả nợ. Nhưng sau đó tôi luôn luôn bị lương tâm cắt rứt, không cho tôi được giây phút bình an. Tôi không thể sống trong tình trạng này nữa. Tôi nhất quyết phải đến thú tội với cha tôi càng sớm càng tốt. Nhưng khi đến trước người, vì xấu hổ và sợ hãi nên tôi không thể thốt ra lời. Sau đó tôi liền nghĩ ra một cách thú tội bằng giấy mực. Tôi đã cầm tờ giấy đó đến trước mặt cha tôi, toàn thân tôi run rẩy và trao tờ giấy đó cho cha tôi. Ông đã đọc tờ thú lỗi của tôi, sau đó ông nhắm mắt lại trong giây lát và đã xé tờ giấy thành nhiều mảnh rồi nói với tôi: “Biết mình là điều rất tốt” và đến ôm chầm lấy tôi trong vòng tay tràn đầy yêu thương, tha thứ của người. Từ giây phút đó tôi hiểu và thương mến cha tôi hơn.
Lời Chúa trong tuần đầu mùa chay cũng nhắc nhở cho mỗi người chúng ta, là những con cái yêu thương của Ngài: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Sám hối ở đây theo ngôn sứ Giêrêmia là thay đổi hướng đi, thực tình quay về với Thiên Chúa của Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới. Đón nhận Tin Mừng và sống thực thi Tin Mừng của Thiên Chúa, Tin Mừng về việc Người can thiệp trong lịch sử nhân loại nhờ Đức Giêsu, Đấng Mê-si-a là Quân Vương được xức dầu tấn phong để cai trị muôn dân. Người là con một yêu dấu của Thiên Chúa được dâng hiến làm lễ vật trong hy lễ; Người là tôi trung của Thiên Chúa có nhiệm vụ rao giảng, thực hiện công việc giải thoát và cứu độ. Đó là Tin Mừng mà Đức Giêsu muốn loan truyền và kêu gọi chúng ta lấy đức tin mà đón nhận toàn diện thông điệp hôm nay Ngài công bố.
Để sống Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy bắt chước thái độ của Gandhi, thực tình trở về với cha trong tâm tình thống hối ăn năn; bỏ đường xấu quay về chính lộ để xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ và lòng nhân từ của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm.Trần Bình Trọng, USA)
Theo Thánh kinh, thì mỗi thoả thuận giữa Thiên Chúa và loài người được gọi là một giao ước. Thiên Chúa khởi sự cái giao ước bằng việc bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Và Thiên Chúa mời gọi loài người đáp trả cái tình yêu đó. Cái giao ước đầu tiên được ghi lại trong Thánh kinh là giao ước giữaThiên Chúa và ông No-e. Còn cái giao ước quan trọng nhất trong thời Cựu Ước là giao ước trên núi Si-nai.
Trong thời Cựu Ước, qua các tiên tri, Thiên Chúa luôn nhắc nhở cho dân phải trung thành với lời giao ước. Tuy nhiên dân riêng Chúa không mấy khi giữ lời giao ước. Họ thường bất trung, phản bội. Sau cùng Thiên Chúa làm một giao ước vĩnh cửu với nhân loại qua chính Con Một Người. Và giao ước đó được ký kết, không phải bằng máu hiến tế của chiên cừu trong Cưu Ước, nhưng bằng máu Con Thiên Chúa, đổ ra để chuộc tội nhân loại.
Trong bài trích thư thứ nhất của Thánh Phê-rô tông đồ, Thánh nhân cho thấy có sự song hàng giữa giao ước Chúa kí kết với ông No-e và giao ước Chúa thiết lập trong Bí tích Rửa tội. Theo Thánh Phê-rô thì cái việc gia đình ông Noe được cứu thoát khỏi nạn lụt đại hồng thuỷ, là cái dấu báo hiệu ” cũng được cứu thoát qua nước rửa tội” Hôm nay Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta một biến cố đã xẩy ra cho mỗi người khi còn ở tuổi măng sữa: đó là Bí Tích Rửa Tội. Bí tích Rửa tội là một biến cố vĩ đại, bất kể khi rửa tội, ta còn nhỏ bé như thế nào. Các nhà tâm lý học thường nhấn mạnh đến những gì ta có kinh nghiệm, bất kể lúc còn nhỏ tuổi thế nào đi nữa, đều có ảnh hưỏng đến đời sống hiện tại. Hoặc ta chịu phép Rửa tội khi còn ở tuổi măng sữa, hay khi đã lớn, ta phải tìm cho ra cái ý nghĩa và sống ý nghĩa đó. Bài Trích Sách Sáng Thế hôm nay ghi lại sau khi Chúa cứu gia đình ông Noe khỏi nước lụt hồng thuỷ, thì Chúa cho cái cầu vồng xuất hiện như là một biểu hiệu của lòng nhân từ hay thương xót của Chúa. Cái cầu vồng là biểu hiệu của giao ước giữa Thiên Chúa và ông No-e có nghĩa là bão táp đã qua đi và nước lụt đã rút xuống. Bí Tích Rửa tội cũng là một giao ước giữa Thiên Chúa với loài người. Trong Bí tích Rửa tội, Thiên Chúa ban tình yêu và lòng thương xót, còn người chịu phép rửa tội hứa giữ lòng trung tín, lo tròn bổn phận làm con.
Theo truyền thống cổ xưa, thì Giáo hội luôn nhấn mạnh việc rửa tội người dự tòng trong mùa chay. Ngay từ đầu, Giáo hội đòi hỏi người dự tòng phải dùng suốt mùa chay để học đạo, sửa soạn cho việc rửa tội trong đêm thánh vọng phục sinh. Ngày nay giáo hội khuyến khích ta giữ cái truyền thống tinh thần mùa chay, cái thời gian ăn năn sám hối và đền tội. Cũng vào cuối mùa chay, Giáo hội mời gọi ta ôn lại lời hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma quỉ và tội lỗi và những lời hứa hão huyền của ma quỉ.
Giáo hội thiết lập mùa chay kéo dài 40 ngày để ghi nhớ 40 ngày Chúa Giê-su ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc, cũng để giúp ta từ bỏ tội lỗi, cải tạo đời sống và thực thi đức tin. Để sửa soạn cho cái giao ước trên núi Si-nai, Mai sen cũng ăn chay 40 ngày… Elia, vị tiên tri vĩ đại cũng ăn chay 40 ngày trong cuộc hành trình lên núi Horeb. Gio-an tiền hô cũng ăn chay 40 ngày trước khi được gọi để sửa soạn cho việc Chúa đến bằng cách kêu gọi dân chúng chịp phép rửa thống hói. Trong đêm thánh vọng Phục sinh, ta sẽ lặp lại lời hứa khi chịu phép rửa tội. Để cho cái việc ôn lại lời hưá khi chịu phép rửa tội khỏi trở thành trống rỗng, ta cần sống tinh thần mùa chay: đó là tinh thần ăn năn sám hối.
(Lm. Jude Siciliano, OP – Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP)
Anh chị em thân mến,
Cách đây vài ngày, tôi đang đứng trả tiền tại siêu thị, có một người thâu ngân trẻ mang bảng tên là Nô-ê. Tôi tự hỏi có bao nhiêu người nghĩ rằng, tên của anh ta có liên hệ với trận lụt Đại Hồng Thủy mà chúng ta đọc được trong Sách Sáng Thế? Ngay cả đối với những người chỉ có một ít kiến thức về Kinh thánh cũng biết ông Nô-ê và gia đình, chiếc tàu, và những cặp động vật mà ông đã mang lên tàu, sự phá hủy và tận diệt của cơn lụt, rồi đến Móng cầu vòng trên trời. Tôi cứ tưởng tượng rằng ông Nô-ê lúc ấy đang cân cà chua thì trận lụt tới..
Câu chuyện về Nô-ê chắc chắn sẽ là nỗi trăn trở cho những người có đức tin. Chúng ta hãy nhớ rằng, trong phần đầu của Sách Sáng thế, mọi vật đều ở trong sự hỗn loạn và tăm tối bao trùm cả vũ trụ. Sau đó, Thiên Chúa đã bắt đầu tạo dựng trời đất và vào cuối mỗi ngày, Chúa thấy mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp. Cuối cùng, sau khi tạo dựng nên con người, “Thiên Chúa thấy mọi sự Ngài đã làm ra quả là rất tốt đẹp”. Sau đó, tội lỗi xâm nhập vào và làm lây lan sự hỗn loạn khắp toàn thể nhân loại.
Các tác giả Kinh thánh mượn huyền thoại về Ba-by-lon để chuyển tải một số ý trong Kinh thánh: Thiên Chúa không thờ ơ đối với những bất công và tội lỗi của loài người, vì trong khi Thiên Chúa trừng phạt những điều ác, Ngài không tiêu diệt những người tốt. Lụt Đại Hồng thủy nhắc lại những hỗn loạn trong vũ trụ thời nguyên thủy (1:1) và một lần nữa, Thiên Chúa cho thấy là Ngài sẽ làm lại mọi sự nên tốt đẹp. Con người đã đem sự hỗn loạn và vô trật tự vào trong xã hội hoàn hảo mà ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên. Nhưng chính Thiên Chúa chứ không phải con người, quyết định gìn giữ những gì tốt lành Ngài đã làm ra. Do vậy, mới có việc con người và các tạo vật cùng nhiều giống loài khác được cứu thoát trong tàu ông Nô-ê.
Thiên Chúa thiết lập một Giao ước với Nô-ê và các thế hệ sau này. Giao ước trong Kinh thánh được thiết lập giữa hai đối tác không ngang hàng, và cả hai bên đều hứa hẹn với nhau về các mối quan hệ của họ trong tương lai. Nhưng theo sách Sáng thế, Giao ước lần này chỉ có Thiên Chúa hứa, không những đối với ông Nô-ê và gia đình, mà còn cho các thế hệ mai sau nữa; kể cả “các sinh vật”. Thiên Chúa cam kết “không bao giờ” tái trừng phạt sự dữ của con người bằng cơn lụt lớn như vậy nữa.
Thiên Chúa hứa bảo vệ tất cả các tạo vật. Nhưng một lần nữa, tội lỗi đã xâm nhập vào để phá hoại xã hội loài người và các tạo vật. Làm thế nào Thiên Chúa đánh bật được tội lỗi và mang lại một thế giới mới trong lúc con người vẫn ngoảnh mặt làm ngơ với Thiên Chúa? Nhưng Thiên Chúa vẫn hủy bỏ các trận lũ lụt. Tác giả Sáng thế cho biết: “14 Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây, 15Ta sẽ nhớ lại Giao ước giữa Ta với các ngươi, … và nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa”(St: 9,14=15). Thay vào đó, Thiên Chúa đã có một kế hoạch khác.
Trong bài đọc hai, trích thư của thánh Phêrô, chúng ta thấy Thiên Chúa làm thế nào để đối xử với loài người trong khi họ vẫn phạm tội. Sẽ có một trận lũ lụt khác, nhưng không phải là trận lụt bao phủ trái đất, mà đây là trận lụt tràn trên chúng ta để rửa sạch mọi tội lỗi. Đó là Phép Rửa tội. Một lần nữa, Thiên Chúa thiết lập một Giao ước với chúng ta “qua sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô”. Nhờ nước mà gia đình ông Nô-ê gồm 8 người đã được cứu thoát; Nước đó chính là hình ảnh của nước rửa tội để cứu rỗi chúng ta hôm nay.
Chúng ta bắt đầu Mùa Chay với những ý nghĩa quan yếu của Bí Tích Rửa tội. Chúng ta đang chuẩn bị dạy giáo lý cho tân tòng để họ sửa soạn nhận Phép Rửa tội trong ngày Phục Sinh. Chúng ta, những người đã nhận Bí Tích Rửa tội, cũng nhận được ơn Chúa trong Mùa Chay, để chuẩn bị giúp chúng ta lập lại lời hứa của Phép Rửa tội trong lễ Phục Sinh. Nhờ lời cầu nguyện, qua việc giữ chay và giúp người nghèo, chúng ta sẵn sàng nhận lãnh ân sủng của Thiên Chúa một cách trọn vẹn trong suốt cuộc sống của chúng ta.
Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta món quà gì trong Mùa Chay này vậy?. Một đời sống cầu nguyện sâu lắng? Một dịp giúp chúng ta trung thực dấn thân làm việc? Một đường hướng mới trong đời sống Kitô hữu của chúng ta trong hoàn cảnh hiện tại? Đổi mới mạnh mẽ cách thức theo chân Chúa? Luôn biết vui mừng và cảm tạ về những gì chúng ta đã có được từ bàn tay nhân từ của Thiên Chúa? Một cử chỉ tha thứ cho những hờn giận trong quá khứ? Một đời sống hăng say hoạt động nhằm bồi dưỡng và chăm sóc cho trái đất chúng ta đang sống và tất cả các tạo vật khác đang sống quanh ta?. Ai mà biết được? Thiên Chúa chính là Đấng đầu tiên đến với chúng ta để thực hiện một Giao ước và Ngài luôn giữ lời Giao ước, là giúp chúng ta đổi mới qua Nước Hằng Sống, để cứu chúng ta khỏi mọi tội lỗi. Trong ân sủng đó, chúng ta sẽ đồng hành với Chúa Kitô và các tín hữu khác.
Đời sống rao giảng của Chúa Giêsu được khởi đầu bằng Phép Rửa ở sông Jordan. Khi Ngài từ dưới sông bước lên, đó là “trận lụt” của riêng Ngài; Và Chúa Thánh Thần đưa Ngài vào trong sa mạc đề chịu sự cám dỗ qua sự trình bày ngắn gọn của thánh Mác-cô. (vì thế không nên xem xét nhiều chi tiết khác ở thánh Lu-ca và Mát-thêu).
Từ cơn lụt Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa làm nên một tạo dựng mới và, một Giao Ước mới giữa Thiên Chúa và loài người được bắt đầu trở lại. Ngài hứa sẽ giữ lời Giao Ước, là sẽ không hủy diệt tạo vật như thế nữa. Ngay sau bài Phúc âm này, sẽ tới đoạn thánh Gioan Tẩy Giả bị bắt và bị trảm quyết. Hình như bạo lực và tội lỗi vẫn cứ lộng hành mãi. Nhưng một sức sống mới lại bắt đầu với việc Chúa Giêsu đi rao giảng: “Nước Chúa đã gần đến”. Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thập giá, mọi sự lại chìm trong bóng tối. Và qua sự sống lại của Ngài, chúng ta có được cuộc sống mới. Có lẽ Thiên Chúa hay xử dụng mọi thất bại để gây dựng nên một cuộc sống mới chăng? Ai có thể làm Thiên Chúa thất bại được? Ai có thể đánh bại ý Thiên Chúa muốn sự tốt lành cho chúng ta và các tạo vật của Ngài?
Thiên Chúa đã không đứng ngoài thế giới của chúng ta. Qua Chúa Kitô, Thiên Chúa đã đứng cạnh chúng ta ngay trong lúc chúng ta đang chiến đấu chống lại tội lỗi và những xáo trộn của đất trời. Không một trận lụt nào, không lực lượng hủy diệt nào, và ngay đến cả cái chết, cũng không thể ngăn cản được sự hoạt động của Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài cho vạn vật. Lời Giao ước của Thiên Chúa với Nô-ê và các thế hệ sau này nhắc chúng ta rằng, Thiên Chúa luôn muốn hoạt động với chúng ta để cứu vớt những gì Ngài đã tạo dựng nên một cách tốt lành.
Vì vậy, chúng ta nên tự hỏi: Bổn phận của chúng ta là gì trong Giao ước với Thiên Chúa, để giữ gìn và đổi mới những gì đã bị tội lỗi gây xáo trộn? Làm thế nào chúng ta có thể giúp đỡ người nghèo trên thế giới vượt qua bệnh tật và nghèo đói? Làm thế nào chúng ta có thể chăm sóc và làm sạch cho môi trường thiên nhiên? Chúng ta làm gì để có thể bảo vệ cuộc sống con người nhằm giảm thiểu tính bạo lực trong xã hội? Cần phải làm gì để bảo vệ nhân phẩm của mỗi người?
Nói cách khác, chúng ta phải làm những gì để có thể chu toàn bổn phận của chúng ta trong Giao Ước mới với Thiên Chúa. Lần đầu tiên được khởi sự từ thời Nô-ê và còn tiếp tục mãi trong suốt cuộc đời chúng ta qua cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô?
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
SUY NIỆM THỨ TƯ LỄ TRO
Cá thì dễ ươn, thây ma dễ thối, con người dễ hư.
Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé. Chỉ một phút yếu lòng, thiếu canh phòng là con người bị sa ngã, bị hư hỏng và ươn thối.
Vua Đa-vít vốn là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt, tài năng đức độ được liệt vào hàng thánh vương, thế mà chỉ vì hình ảnh của một phụ nữ xinh đẹp là Bát-sê-ba lọt vào tâm trí cũng đủ làm nhà vua chao đảo, rồi nhà vua sa ngã, phạm tội cướp vợ người khác và giết luôn cả chồng bà là U-ri-gia, đang khi anh ta đang anh dũng chiến đấu ngoài chiến trường để bảo vệ ngai vàng của vua! (II Samuen 11)
Rồi ngay cả con vua Đa-vít là Salômôn, một vị vua có tiếng là khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, nhưng cũng quá mê đắm xác thịt, có đến bảy trăm thê thất và ba trăm hầu thiếp, đã xiêu lòng theo các tà thần của dân ngoại, xây đền thờ cho họ đối diện với núi thánh Giê-su-sa-lem và đã làm sự dữ trước mắt Gia-vê (I Vua 11, 1-13).
Nói chung, dù ở bất cứ địa vị nào, đẳng cấp nào trong xã hội và tôn giáo cũng có những con người danh giá cao trọng đã phải ngã gục thảm thương và hư thối: hư thối vì tham nhũng, hư thối vì những bê bối tình dục, hư thối vì lạm quyền, độc đoán…
Cá thì dễ ươn, thây ma thì mau thối, con người thì rất dễ hư!
Triết gia Platon diễn tả thân phận con người “như cỗ xe có hai ngựa kéo.” Một con ngựa trắng kéo ta về đường lành, đang khi con ngựa đen luôn lôi kéo ta về điều dữ. Thế là con người luôn bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau.
Ngay cả thánh Phao-lô là vị tông đồ rất nhiệt thành và thánh thiện cũng cảm thấy những dục vọng đen tối làm xáo trộn tâm hồn của người. Người than thở: “Điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi tôi lại làm những điều tôi gớm ghét …thật khốn thân tôi!”
Thân phận con người cũng như những viên bi tròn được đặt trên những mặt phẳng nghiêng. Sức nặng của viên bi lôi kéo nó lăn xuống thế nào thì cũng chính sức nặng của xác thịt và bản năng hư hèn cũng thường xuyên lôi kéo chúng ta xuống bùn như thế.
Thân phận con người cũng như thân phận chiếc thuyền bơi ngược dòng nước, nếu không vững tay lái, không mạnh tay chèo thì vô vàn đam mê, dục vọng và tham muốn thấp hèn như những dòng nước ngược chảy xiết sẽ dìm chúng ta vào trong dòng xoáy của chúng và xô đẩy chúng ta xuống vực thẳm.
Hãy cùng chiến đấu với Chúa Giê-su
Sống là tranh đấu. Bao lâu còn chiến đấu, con người mới có thể tồn tại như một con người. Khi ngừng chiến đấu, con người sẽ bị suy thoái và không còn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình.
Khi làm người, Chúa Giê-su cũng mang thân phận con người có xác thịt hoàn toàn y như chúng ta. Người cũng từng bị cám dỗ y như ta. Những cơn cám dỗ mà hôm nay chúng ta đang phải chịu thì Người cũng đã từng chịu, có khác là Người đã chiến đấu rất anh dũng, rất kiên cường, không bao giờ lùi bước trước mọi cám dỗ và thử thách. Nhờ đó Người luôn luôn chiến thắng và chiến thắng rất vinh quang. Thư Do-thái viết: “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15).
Ý chí chúng ta thì bạc nhược. Xác thịt lại ươn hèn. Đam mê tội lỗi thì mạnh như vũ bão cuồng phong… nên tự sức mình, chúng ta không thể nào vượt thắng các thách thức và cám dỗ.
Vậy trong mùa chay nầy, chúng ta hãy vào sa mạc tâm hồn mà chiến đấu cùng Chúa Giê-su. Hãy luôn kết hiệp với Chúa Giê-su và dùng Lời Người như khí giới thần diệu chống lại ác thần.
Ước gì mỗi người thường xuyên rước lấy Mình Máu thánh Chúa Giê-su để kết hiệp mật thiết với Người hơn. Và một khi có Người ở với chúng ta, ở trong chúng ta, cùng chiến đấu với chúng ta thì chúng ta mới có thể chiến thắng được tội lỗi và trung thành đi theo đường lối Thiên Chúa đến cùng, như Người đã từng chiến thắng vẻ vang. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại xem như đặc sản của mình. Món ăn ấy người đời không quen thưởng thức, nhưng kẻ có đạo lại tìm đến ăn như một thứ lương thực sớm tối. Món ăn ấy không có trong thực đơn của những đầu bếp trứ danh nhưng luôn gặp thấy trên bàn ăn của Giáo Hội lữ hành. Món ăn ấy đơn giản lắm nhưng lại là món ăn có đầy đủ mọi hương vị chua cay mặn chát ngọt bùi của quá khứ hiện tại tương lai. Món ăn chữa bệnh nhưng đồng thời cũng là món ăn bổ dưỡng tâm linh.
Món ấy là món gì? Thưa đó là món “ăn năn sám hối”, một món ăn màu tím truyền thống của Mùa Chay.
Đó không phải là món ăn mới nhưng luôn có diệu cảm mới dành cho những ai biết ăn đúng cách. Đó không phải là món ăn lạ, nhưng luôn là những phép lạ tâm linh dành cho những ai biết ăn đúng liều lượng. Đó không phải là món ăn đặc sản chỉ thết đãi trong thời gian cao điểm như Mùa Vọng Mùa Chay, mà là món quanh năm ngày tháng mở cửa cho hết mọi người bất kể giàu nghèo lớn bé. Đó không phải là món ăn cầu kỳ trong các nhà hàng quý tộc, mà thực ra là một nhịp cầu vô cùng kỳ diệu dẫn ta ra khỏi tình trạng tối tăm và dẫn ta bước tới đời sống thánh ân. (1)
- Ăn năn sám hối
Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu. Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, ai cũng nhận mình là thân phận bụi đất. Nghi thức xức tro thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối ăn năn, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của đời người. Lần lượt mỗi người, từ cụ ông cụ bà đến trẻ nhỏ bước lên để thừa tác viên rắc tro trên đầu. Nghi thức và cử chỉ ấy giúp con người ý thức thân phận mong manh và giới hạn của mình. “Hãy nhớ ngươi được tạo dựng từ bụi tro, và sẽ trở về với bụi tro”. Đó là lời Thiên Chúa đã phán với Ađam Evà. Đó là lời Chúa nói với từng người khi lên xức tro.
Ý thức thân phận giới hạn mong mong của mình, để làm gì? Thưa là để biết rằng tôi không sống mãi trong cuộc đời này, sớm muộn gì cũng đến lúc tôi trở về với Chúa, và tôi sẽ phải trả lời trước mặt Chúa về cuộc đời của mình. Con người có sinh có tử, có hợp có tan, có khởi đầu sẽ có kết thúc. Nghĩ về sự chết để mà sống sao cho “đẹp” đời trần thế. Làm sao để tôi sống cuộc đời này cách ý thức hơn, với tinh thần trách nhiệm hơn, để khi đến trước mặt Chúa tôi có thể đến trong niềm vui, chứ không phải trong sự sợ hãi!
Vì thế, cử chỉ xức tro còn hàm chứa một lời mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”; hãy nhìn nhận những tội lỗi thiếu sót, những bất tất trong cuộc đời của mình, hãy tỏ lòng ăn năn sám hối và hãy cố gắng để sửa đổi những gì còn thiếu sót đó để sống hợp với thánh ý Thiên Chúa hơn.
- Năm bước ăn năn (2)
Mùa Chay là mùa đặc biệt dành cho sự trở về của người biết ăn năm sám hối. Sự trở về này gồm nhiều giai đoạn, phần lớn xảy ra trong nội tâm. Ăn năm sám hối bắt đầu từ nội tâm, từ cõi lòng.
– Bước đầu tiên của hành trình ăn năn sám hối là ý thức tội lỗi. Trong thâm sâu của cõi lòng, trong nội tâm, chúng ta thấy mình có tội, nhận ra tội lỗi của mình. Chúng ta phán xét chính mình, nhận điều xấu mình đã làm, hay cái tâm địa xấu xa của mình. Đối với nhiều người, bước đầu tiên này đã là khó. Nhiều người trong thời đại hôm nay dù đã làm bao nhiêu điều xấu, vẫn không thấy mình có tội. Họ đã đánh mất ý thức tội lỗi, và đó là nguy cơ lớn nhất của nhân loại ngày nay.
– Bước thứ hai là sự hối hận, đau buồn, ray rứt trong lòng vì những điều xấu mình đã làm. Sự đau buồn này là một liều thuốc đắng, chữa lành cho vết thương tội lỗi. Sự ăn năn phản tỉnh của một con người sau khi đã lỡ làm điều ác, sẽ làm cho người đó trở nên tốt hơn, sâu sắc hơn.
– Bước thứ ba là sự gặp gỡ Thiên Chúa trong nội tâm, là một sự gặp gỡ trong tin yêu. Khi đã lỡ phạm tội, nhiều người rất hối hận, vì yêu Chúa. Càng yêu Chúa, chúng ta càng hối hận, càng hối hận chúng ta càng yêu Chúa. Chúng ta gặp gỡ Chúa, thú nhận tội lỗi với Chúa và xin Chúa tha thứ. Chắc chắn Chúa tha thứ và ban lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an. Giai đoạn này Chúa cho chúng ta cảm nghiệm được Tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
– Bước thứ tư là quyết tâm thú nhận tội lỗi của mình, không những với Chúa, mà còn với Giáo Hội. Giai đoạn này, cần phải lướt thắng sự ngại ngùng trong việc xưng tội, nói ra sự thật và tất cả sự thật với cha giải tội là đại diện cho Chúa và cho Hội Thánh. Giai đoạn này cũng rất cần thiết, vì nó biểu lộ sự chân thực của lòng thống hối, tránh cho chúng ta ảo tưởng và sự chủ quan.
– Bước thứ năm là thực sự sửa đổi đời sống. Sống khác đi, không sống như cũ nữa, không làm điều ác nữa; dứt khoát với tình trạng tội lỗi mà mình đang mắc phải. Giai đoạn này rất khó và đòi hỏi sự hy sinh, sự chiến đấu với chính mình, và sự chiến thắng, làm chủ được chính mình. Chính vì thế mà cần rất nhiều ơn Chúa, cần sự giúp đỡ của những anh chị em đồng đạo với mình.
Để có thể canh tân đổi mới đời sống cách hữu hiệu và bền bỉ, phải cầu nguyện rất nhiều như lời Chúa dạy. Cầu nguyện âm thầm kín đáo trong lòng, chứ đọc kinh bên ngoài thôi chưa đủ. Rồi phải ăn chay, nghĩa là phải nhịn, không chỉ nhịn ăn mà thôi, có khi còn phải nhịn nói, nhịn thỏa mãn sở thích của mình, kiềm hãm tình cảm nóng giận. Và cuối cùng hãy tập làm việc lành, tập giúp đỡ những người nghèo khổ hơn mình.
- Chuyện kể ăn năn
Thánh Kinh kể nhiều câu chuyện ăn năn sám hối rất cảm động.
– Vua Đavít phạm tội ngoại tình với Bát Seva, vợ của tướng Urigia. Sau khi phạm tội vua Đavít cố tình che đậy tội lỗi của mình. Nhà vua sai chồng bà đang ở ngoài mặt trận về nhà với vợ, để mai mốt bà có sinh con, thì thiên hạ sẽ cho rằng đó là con của vị tướng. Tuy nhiên tướng Urigia nhất định không chịu về nhà vì ông là một tướng lãnh chuyên nghiệp, muốn sống chết với binh sĩ ngoài mặt trận. Giấu giếm bằng cách này không được, vua Đavít lại toan che đậy tội lỗi của mình bằng cách lập kế cho giết vị tướng là chồng bà ngoài trận địa để vua có thể cưới bà.Đến đây Thiên Chúa sai ngôn sứ Nathan đến để làm thức tỉnh lương tâm của nhà vua. Được thức tỉnh lương tâm, vua Đavít liền ăn năn sám hối, vội trở về với Chúa. Nhà vua thốt lên: Tôi đã đắc tội với Thiên Chúa (2 Sm12,13). Vua tỏ lòng ăn năn sám hối cho tội lỗi đã phạm được bầy tỏ trong Thánh vịnh 51 mà truyền thống cho rằng vua Đavid là tác giả.
– Câu chuyện người phụ nữ tội lỗi được trong Phúc âm. Tội lỗi đã đọa đầy chị ra ngoài vòng xã hội. Cuối cùng chị đến xin Chúa Giêsu ban cho chị đời sống mới và một tình yêu đổi mới. Chị ta chứng tỏ cho Chúa thấy biểu hiệu của tình yêu bằng cách rửa chân Chúa bằng nước mắt và dùng tóc lau chân Chúa và sức dầu thơm cho Chúa. Do đó tội lỗi của chị đã được tha thứ nhiều vì yêu nhiều (Lc 7,47). Hành vi của Chị biểu lộ tâm tình ăn năm sám hối. Để có được tâm tình sám hối, người ta phải tỏ lòng khiêm tốn, chấp nhận thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình. Người biết sám hối là người ý thức về sự yếu hèn và tội lỗi của mình. Người đàn bà tội lỗi khi nhận thức được mình là kẻ có tội, đã ăn năn sám hối bằng những giọt nước mắt. Chỉ khi nào người ta ý thức được về tội lỗi của mình, người ta mới cảm thấy nhu cầu cần Chúa. Còn người Pharisêu tự coi mình là công chính nên mới không cảm thấy cần sám hối.
– Khi còn thuộc nhóm Pharisiêu, Phaolô kiêu ngạo, cứng lòng và bách hại các tín hữu. Nhờ ăn năm sám hối, ngài đổi mới hoàn toàn, ngài có được kinh nghiệm sống trong tình yêu lòng nhân từ và tha thứ của Đấng đã quật ngã mình khỏi lưng ngựa.Thánh Phaolô yêu Chúa trên hết mọi sự và đã trở thành Tông đồ dân ngoại.
– Thánh Phêrô chối Chúa. Chúa thức tỉnh ký ức của Phêrô bằng tiếng gà gáy và ánh mắt tha thứ nhân từ. Nhờ ăn năn sám hối bằng những giọt nước mắt hối hận “ Phêrô ra ngoài khóc lóc thảm thiết”( Lc 22,62), Phêrô đã nên vị lãnh đạo chăm sóc đàn chiên của Chúa.
Câu chuyện về những người tội lỗi có lòng ăn năn sám hối và được tha thứ như vua Đavít, như người đàn bà tội lỗi và như thánh Phaolô hay như thánh Phêrô nói lên lòng thương xót thứ tha của Chúa. Tâm tình ăn năn sám hối ở đây khác với mặc cảm tội lỗi. Được tha thứ rồi, ta không cần mang mặc cảm tội lỗi. Mang mặc cảm tội lỗi có thể khiến ta nghi ngờ lòng thương xót tha thứ của Chúa. Tuy nhiên ta nên duy trì tâm tình sám hối vì sống trong tâm tình sám hối sẽ giúp ta sống gần bên Chúa mãi.
Để có thể sám hối, cần phải có ơn biết kính sợ Chúa. Không phải sợ mà không dám đến gần Chúa, nhưng sợ làm điều mất lòng Chúa như sách Huấn ca dạy: Kính sợ Chúa là bước đầu của khôn ngoan (Hc1,14). Ơn biết kính sợ Chúa là cần thiết để được hưởng nhờ ơn cứu độ.
- Muốn ăn năn phải hãm mình
Xã hội càng duy vật và giàu có, người ta càng có khuynh hướng quên đi một số quy luật cơ bản của đời sống tinh thần. Quy luật xem ra bị lãng quên nhiều nhất chính là ăn năn sám hối, để rèn luyện ý chí hầu có thể làm chủ bản thân. Trong mọi cuộc đấu tranh, sự đấu tranh với bản thân là gay go hơn cả. Chính vì thế có một số người, sau khi đã đấu tranh thất bại với bản thân thì hoàn toàn nản chí, không còn muốn đấu tranh với chính mình nữa và thường xuyên chiều theo con người hư đốn của mình. Có những người khác, vì không bao giờ đấu tranh với chính mình, nên chỉ dành thời giờ và sức lực để đấu tranh chống tha nhân và ức hiếp người yếu thế.
Mùa Chay là mùa ăn năm sám hối. Mục đích của việc ăn năn sám hối là hãm mình. Hãm con người mình lại, hãm bớt dục vọng, hãm bớt đam mê, hãm bớt thói hư tật xấu, hãm bớt sự tham lam của cải, hãm bớt sự hung hăng gây chiến, hãm bớt lòng tự cao tự đại, hãm bớt cả những sở thích thường nhật. Sự hãm bớt như thế có một tác dụng rất lớn, nếu được thực hành thường xuyên sẽ tạo cho ta một nội lực một sức mạnh giúp ta làm chủ bản thân khi cần thiết. Đức tính tự chủ dễ nảy sinh và phát triển nơi những con người quen hãm mình. Và chính đức tính ấy làm cho con người thực sự tự do, làm chủ bản thân, không nô lệ chính mình vào bất cứ điều gì. Thoạt nghĩ tới thì sự hãm mình có vẻ là một sự gò bó, giới hạn, cắt xén, làm cho con người không còn được tự do thoải mái. Chính vì thế mà nhiều người trong xã hội hôm nay, kể cả những người có đạo, thậm chí cả những người sống đời tu trì, không thích hãm mình, và hầu như không còn hãm mình nữa. Đó là lý do của sự xuống dốc về đạo đức trong gia đình và ngoài xã hội. (3)
Giáo Hội biết rõ cứ sự thường người ta không thích hãm mình, nên thường dạy hy sinh đi đôi với sự hãm mình. Hy sinh là tự nguyện chết đi, là thông phần với cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, kết hợp với hiến tế thập giá của Ngài. Hy sinh làm những điều mình không thích quả thật là từ bỏ chính mình để bước theo Chúa. Hy sinh là liều mất sự sống, thì sẽ được sống, là đánh mất bản thân, thì sẽ gặp lại bản thân. Hy sinh là chết đi để được vui sống muôn đời. Hy sinh là đi con đường thập giá dẫn tới vinh quang Phục Sinh. Nếu không có động lực nào thúc đẩy thì con người rất ngại hy sinh hãm mình. Nhưng khi có động lực là tình yêu, con người có thể hy sinh dễ dàng. Hãm mình hy sinh không còn là gánh nặng, trái lại còn trở nên nhẹ nhàng cho những ai đang yêu Chúa và yêu những người khác. Chính vì thế mà hãm mình hy sinh thường đi chung với cầu nguyện. Có cầu nguyện, tiếp xúc với Chúa, gặp gỡ Chúa, cảm nghiệm tình yêu của Chúa, chúng ta sẽ sẵn sàng hy sinh nhiều thứ, và dễ dàng làm chủ bản thân mình. Đời sống cầu nguyện thường được nuôi dưỡng bằng những hy sinh nho nhỏ trong đời sống thực tế mỗi ngày.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để cầu nguyện, để ăn năn sám hối để hy sinh hãm mình, nhờ đó mà canh tân bản thân mình ngày mỗi hoàn thiện hơn.
- Mùa Chay linh thiêng
Mùa Chay linh thiêng lại về với đời sống tín hữu Công Giáo. Mùa chay là thời gian 40 ngày dọn lòng mừng lễ Phục Sinh, trải dài từ Lễ Tro cho đến Tuần Thánh, lặp lại thời gian 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu năm xưa khi chuẩn bị bước vào đời công khai rao giảng Tin Mừng (Mt 4,2). Con số 40 còn lặp lại nhiều biến cố khác trong lịch sử cứu độ như 40 ngày của Êlia trên núi Horeb dọn mình thực thi sứ vụ Chúa trao (1 V 19,8), như 40 ngày của Môsê trên núi Sinai chuẩn bị đón nhận thập điều Chúa dạy (Xh 34,28), và như 40 năm dân Chúa lưu lạc trong hoang địa dọn lòng đặt chân vào đất hứa. Mùa Chay như vậy là thời điểm thuận lợi để sống mầu nhiệm Tử Nạn của Chúa Kitô thông qua việc chay tịnh để sẵn sàng mừng lễ Phục Sinh. Nhưng Mùa Chay không chỉ là việc chay tịnh, cho dẫu khởi đầu và kết thúc Mùa Chay được diễn ra bằng việc buộc ăn chay và kiêng thịt thứ tư Lễ Tro và thứ sáu Tuần Thánh. Mùa Chay còn là mùa xuân tâm hồn với những sinh hoạt đổi mới đời sống đức tin.
Cầu nguyện, canh tân, chia sẻ: đó là ba sinh hoạt mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện trong Mùa Chay năm nay, cũng là ba chiều kích với Chúa, với mình, với tha nhân dệt nên nhịp sống Giáo Hội.
Mùa Chay là thời gian đặc biệt như lời Thánh Phaolô nói: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian thuận tiện để mỗi người quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân.
Mùa Chay là lúc thuận tiện để khích lệ mọi thành phần Dân Chúa gia tăng sức lực thực hiện công việc bác ái nhiều hơn nữa. “Giữa biển cả thờ ơ” của xã hội hôm nay, mỗi người, mỗi giáo xứ và cộng đoàn thực thi đức ái, nhất định Giáo Hội sẽ “trở nên những hòn đảo lòng thương xót”. (4)
____________
(1) Làm Nụ Hoa Trắng. ĐGM Vũ Duy Thống.
(2) Bài giảng lễ Tro 2007, ĐTGM Bùi Văn Đọc.
(3) ĐTGM Bùi Văn Đọc.
(4) Sứ Điệp Mùa Chay 2015. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
THỨ TƯ LỄ TRO
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc “Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.
Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.
Sách Giảng Viên viết rằng: “Tất cả chỉ là phù vân”. Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân.
Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo: “Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau” (Nguyễn Du).
Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:
”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.
Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi” (Ca dao).
“Bèo dạt, mây trôi đành với phận” (Chu Mạnh Trinh)
Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?
Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:
“Phù hoa nối tiếp phù hoa,
chi chi chăng nữa cũng là phù hoa” (Gv 1,2).
Có gì bền vững đâu. Thánh Vịnh ví von đời người như hoa cỏ:
“Đời sống con người giống như hoa cỏ.
Như bông hoa nở trên cánh đồng.
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi.
Nơi nó mọc không còn mang vết tích” (TV 102).
Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.
Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).
Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.
Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ĐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ĐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư.
Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi”. Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui…, anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Đâu là bậc thang giá trị đời anh?
Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.
Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ , sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa.Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.
Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.
Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.
Với tình yêu Chúa Kitô, ta không còn là bèo bọt, là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5,22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, ta sống một Mùa Chay thánh thiện.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhạc Trịnh Công Sơn rất triết lý, Mùa Chay lại về, tôi thích nghe bài ca “Cát Bụi”:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy.
Ôi cát bụi tuyệt vời, mặt trời soi một kiếp rong chơi.
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi.
Ôi cát bụi mệt nhoài, tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.
Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày.
Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hoá kiếp thân tôi.
Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Khi dùng hình ảnh hạt bụi để nói về thân phận con người, Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã lấy nguồn cảm hứng trong Sách Sáng Thế: Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng Adam, sau khi Adam phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi ( x St 1,26-3,24).
Nghĩ cho cùng, tất cả mọi người cũng chỉ là những hạt bụi hoá thân thành kiếp nhân sinh, sớm muộn cũng sẽ tàn lụi với thời gian. Do đó nỗi khắc khoải ngàn đời của con người là tìm kiếm ý nghĩa của sự hiện hữu, ý nghĩa của đau khổ, ý nghĩa của giải thoát, ý nghĩa của cuộc sống.
Vấn nạn mà con người chưa tìm được câu trả lời:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi?
Hạt bụi nào hoá kiếp thân bạn?
Và Hạt bụi nào hoá kiếp thân xác chúng ta?
Một vòng quay, một trăm năm, một kiếp người có là mấy! “Chợt một chiều tóc trắng như vôi”. Không phải là trắng như bông, như mây hay như tuyết mà là như vôi đổ xuống huyệt mồ. Trịnh Công Sơn không bi quan, ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao, sự sống cao quý biết dường nào, nhưng nó cũng như “đoá hoa vô thường”. Đó là một thực tế,nhìn nhận và đối diện với nó cách can đảm để có thể đưa tới một cuộc sống tốt đẹp hữu ích và có ý nghĩa.
Mùa Chay muốn nhắc nhở chúng ta quay về với sự thật của thân phận con người “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai rồi sẽ trở về bụi tro…”.Phụng vụ Giáo Hội muốn diễn tả rằng: cuộc đời này mong manh vắn vỏi, bởi thế nó rất hệ trọng. Số phận đời đời của mỗi người được quyết định trong thời gian tạm bợ này. Người theo Đạo Phật thì tin ở sự đầu thai kiếp sau, luân hồi nghiệp báo. Nhưng người Kitô hữu thì không, vĩnh cữu được gieo mầm trong hiện tại, đừng để thời gian trôi qua cách phung phí, đời người chỉ có một lần, được mất chỉ có một cơ hội.
Thân phận mỏng dòn mà Phụng vụ Mùa Chay nhắc cho chúng ta đừng quên ,không phải chỉ có liên quan đến phần xác hay chết của phận người mà còn cả về mặt tinh thần cũng mong manh yếu đuối.Thánh Phaolô đã diễn tả kinh nghiệm đó trong thư Roma “Điều tôi muốn làm thì tôi lại không làm, nhưng điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm….Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn tôi lại cứ làm … Tôi khám phá ra luật này là khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.Theo con người nội tâm tôi vui thích vì luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tôi…tôi thật là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết này?” ( Rm 7,15.19.21-24). Tiếng kêu của Phaolô cho thấy ngài đang muốn trở về với chính mình. Khát khao tìm về một thủa bình yên đã mất. Từ xa xưa, con người là Adam đã ăn trái cấm để mong trở nên thần thánh. Đó là cuộc nổi loạn nơi chính mình không muốn chấp nhận mình là mình. Nguyên tổ bị con rắn cám dỗ trở nên thần linh chứ không phải là cám dỗ nhan sắc, giàu có. Đó cũng chính là cám dỗ Lucifer đã đi qua. Lucifer muốn trở thành Thiên Chúa để có quyền trên mọi tiêu chuẩn tốt xấu. Đây là ước mơ vượt quá bản chất con người. Tội là một hành trình đưa con người đi khác con đường của Thiên Chúa. Vượt qua giới hạn của mình để làm thần thánh. Trong con người có một cuộc phân ly như Phaolô đã kêu lên: “Điều tôi muốn làm tôi không làm. Điều không muốn tôi lại làm”. Trong dân gian có câu đố về con muỗi rất thú vị: Vì mày tao phải đánh tao. Vì tao, tao phải đánh tao, đánh mày. Vui mừng khi giết được con muỗi cắn mình, nhưng máu của mình hay máu con muỗi? Phaolô thốt lên: “Tôi là người khốn nạn”. Ngài vỡ oà trong tiếng kêu: ‘Ai giải thoát tôi khỏi cái xác chết này?”. Thánh nhân reo vui niềm hạnh phúc: “Tạ ơn Chúa, nhờ Đức Kitô”. Không có ơn sủng đời sống sẽ nhiều bất hạnh. Có ơn sủng Chúa Kitô, con người sẽ đong đầy niềm vui hạnh phúc.
Ý thức về sự yếu đuối và tội lỗi của mình, về khuynh hướng xấu, sự bất lực nơi bản thân để mỗi người nổ lực giải thoát khỏi sự thống trị khắc nghiệt của tội lỗi và đó là khởi đầu cho ơn hoán cải và ơn cứu độ. Đó là lối đi của ơn sủng.
Mùa Chay mời chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu. Sa mạc là nơi hoang vu trơ trọi, mênh mông. Ở đó người ta mất hết mọi điểm tựa, không còn chi để “chia trí ,lo ra”. Chẳng hạn như ngoại cảnh ồn ào, các hoạt động, các thú vui, các quan hệ xã hội ; chỉ còn ta với ta và buộc ta phải quay về với mình trong sự đơn độc của chính mình. Trong sự quay về đó ta có cơ may nhìn thấy những điều cốt yếu nhất khi đối diện với chính lòng mình.
Con người chúng ta thường sống hời hợt bên ngoài, tan loãng ra trong trăm thứ linh tinh hay phụ thuộc khác. Mùa Chay mời gọi chúng ta đi vào sa mạc, nghĩa là tạo một sự trống vắng nào đó, một sự thinh lặng của các giác quan, của trí khôn và của cỏi lòng, một sự rút lui vào trong tâm khảm mình để có thể phân định đâu là cái chính cái phụ, đâu là cái cùng đích và cái phương tiện. Đây chính là lúc hồi tâm.
Biềt mình mỏng dòn, nhưng con người theo Phụng vụ Mùa Chay lại không phải là con người mềm yếu, uỷ mị, ngã nghiêng theo mọi lời mời mọc cám dỗ. Con người Mùa Chay là con người dũng cảm chiến đấu. Như Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời hoạt động công khai, Chúa vào sa mạc và tuyên chiến với Satan tức là với mọi mãnh lực của sự ác một cách không khoan nhượng. Và Ngài đã chiến thắng.
Người Kitô hữu là người biết nói không, là người dám bơi ngược dòng “ Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” ( Pl 2,15). Người Kitô hữu không cố ý sống lập dị, khác người, song đứng trước điều xấu ,dù là khi cả xã hội đều làm điều xấu đó, họ vẫn không được ngã theo. Họ phải can đảm từ chối một cơ hội làm giàu bất chính, một liên minh bất công, một mối quan hệ tội lỗi….Dĩ nhiên điều đó không dễ chút nào. Nhưng đã là môn đệ Đức Giêsu, họ không có chọn lựa nào khác.
Con người theo Phụng vụ Mùa Chay biết mình tự thân chỉ là cát bụi, nhưng là “cát bụi tuyệt vời”. Nó vẫn tuyệt vời ngay khi trở về với cát bụi trong một chiều “lá úa trên cao rụng đầy” , chứ không phải chỉ tuyệt vời khi “vươn hình hài lớn dậy” mà thôi.
Đức tin dạy cho chúng ta biết rằng “Hạt bụi” là chúng ta, được tình yêu Thiên Chúa gọi vào hiện hữu và chia sẽ sự sống bất diệt của Người. Kiếp người cho dù có đau thương, có bi đát, đôi lúc tưởng chừng bóng tối lấn lướt ánh sáng. Nhưng cuối cùng, sự sống, chân lý, tình thương vẫn mạnh hơn tất cả.
Ước chi mỗi gia đình và cộng đoàn Kitô hữu biết tận dụng thời gian Mùa Chay này, để gạt bỏ một bên những điều gì gây lo ra cho tâm trí và tăng trưởng trong những điều nuôi dưỡng tâm hồn, hầu yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. Tôi đặc biệt nghĩ tới một sự dấn thân lớn hơn cho việc cầu nguyện, lectio divina, chạy đến bí tích hòa giải và tham dự tích cực vào bí tích Thánh Thể, đặc biệt Thánh lễ ngày Chúa nhật. Với thái độ bên trong ấy, chúng ta hãy đi vào tinh thần sám hối của Mùa Chay. Nguyện xin Đức Trinh nữ Maria, “Nguồn hoan lạc của chúng ta,” đồng hành và trợ giúp chúng ta trong nỗ lực giải thoát tâm hồn khỏi nô lệ tội lỗi, biến nó thành “nhà tạm sống động của Thiên Chúa.” (Sứ điệp Mùa Chay 2009).
Ước gì mỗi người Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của bản thân ; luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa, sống Mùa Chay thánh thiện để đón nhận nhiều Ơn Phúc Chúa ban.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển – LỄ TRO)
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay được kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo. Tuy nhiên, có điều là: Mùa Chay đã diễn ra hằng năm, nhưng tại sao đời sống đạo của chúng ta vẫn chỉ dừng lại nhiều ở góc độ bên ngoài mà đời sống tâm linh không có gì thay đổi lắm! Nguyên nhân tại đâu và việc chúng ta ý thức về nó như thế nào? Đâu là điều Chúa và Giáo Hội muốn nơi người tín hữu mỗi khi Mùa Chay về? Nhân ngày thứ Tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.
Xức Tro
Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27).
Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.
Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6, 26). Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Đức Chúa sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết, nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3, 6).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự trai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Mt 11, 21 – 22; x. Lc 10, 13).
Tro còn nói đến một điềm gở, mà cụ thể là cái chết của mỗi người và nhân loại. Vì thế, tiên tri Giêrêmia đã mô tả như: “Thung lũng tử thi và tro thiêu xác” (x. Gr 31, 40). Nói như thánh Phaolô: “Mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết” (1 Cr 15, 31). Vì thế, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng, không thể trần chừ. Chuẩn bị tức là sống theo tinh thần của Chúa.
Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.
Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?
Ăn Chay
Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người, để dâng cho Người một phân nửa của cải (x. Ds 29,7; Cv 13,2), (x. Tl 20,26; Gđt 8,6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12,16-22; Er 8,21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23,27; Hc 34,26; Đn 10,2); hỗ trợ việc để trừ quỉ… (x. Mt 17,21).
Ăn chay còn thể hiện tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7), để thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4).
Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).
Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay
Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.
Có những người ăn chay, bố thí… chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ rột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay. Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt. Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì chót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa… Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, thì hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”. Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều…
Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa về ý thức nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bửu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng thì toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7,1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ, chẳng khác gì “gậy ông đập xuống lại dần lưng ông”. Nói cách khác, chúng ta là con đẻ của nhóm hình thức vụ luật. Thiết nghĩ, ăn chay như vậy, hẳn chúng ta chẳng khác gì những Pharisêu! Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Đấng thấu suốt mọi điều kín nhiệm là Đức Giêsu đã quả trách họ cách nặng nề: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7, 6). Ăn chay kiểu như thế quả thật vô nghĩa vì đã đánh mất đi ý nghĩa thánh thiêng của ngày Thánh, ngày dành cho Thiên Chúa và vì ơn cứu độ của mình và tha nhân.
Việc ăn chay của Kitô giáo phải gắn liền cuộc đời, lời nói và hành vi của mình với Đức Kitô, nếu không, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, như chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành danh hài hay con hề trên sân khấu. Thánh Phaolô đã cẩn trọng nhắc nhở những kẻ như trên trong thời của Ngài, khi nói: “Anh em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Kitô và mất hết ân sủng” (Gl 5,4) khi chỉ lo giữ luật mà không có đức mến và đức ái đi kèm.
Người Công Giáo ăn chay, ngoài việc liên đới với Thiên Chúa, chúng ta còn gắn liền với các mối tương quan nơi tha nhân. Vì thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta dành ra một chút hy sinh về của cải vật chất mà lẽ ra chúng ta được hưởng để chia sẻ cho người túng nghèo, lo truyền giáo, giúp đỡ các bệnh nhân… Nói cách khác, việc ăn chay phải nhằm xây dựng Nước Trời ở trần gian này, nghĩa là phải biến việc ăn chay thành một phong cách sống nhằm xây dựng xã hội hay Giáo Hội ngày càng tốt đẹp hơn, công lý và tình thương hơn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo ” (Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Chúa đi… Bây giờ là cơ hội thuận tiện” (2 Cr 5, 20 – 6, 2).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con hiểu rằng: muốn được phục sinh với Chúa, chúng con phải qua con đường thập giá. Phải chiến đấu và tập luyện các nhân đức cách sốt sắng, để thêm lòng yêu mến Chúa và liên đới với tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền – LỄ TRO)
Mùa xuân luôn gợi lên trong ta những hình ảnh đẹp. Đẹp về ánh nắng xuân. Đẹp về những nụ hoa. Đẹp về cây nẩy lộc đâm chồi…; Đặc biệt sắc màu và hương thơm của trăm hoa đã hoà vào nhịp sống tất bật của con người, từ vùng ngoại ô thôn dã đến chốn phồn hoa đô thị, tạo nên một không khí vui tươi, một quang cảnh ấm áp và thiêng liêng của ngày xuân. Muôn hoa làm đẹp cho đời, muôn hoa xoa dịu buồn đau, muôn hoa khích lệ tinh thần, muôn hoa chia sẻ mừng vui… Nhưng đáng tiếc, những nụ hoa và cả mùa xuân đều mong manh, sớm nở chiều tàn. Tất cả dường như đều đi theo định luật của vạn vật là vô thường. Chẳng có gì bền vững với thời gian. Chẳng có gì vĩnh cửu nhưng luôn chịu cảnh phù vân mong manh.
Những điều vô thường này chúng ta có thể thấy qua vạn vật và cả qua những cảnh huống cuộc đời:
Hoa đẹp……. Hoa thơm… Hoa vẫn tàn
Tình nặng…..Tình sâu… Tình vẫn tan
Rượu đắng…. Rượu cay… Rượu vẫn hết
Người hứa…. Người thề… Người vẫn quên
Trăng lên……trăng tròn… trăng lại khuyết
Tuyết rơi……tuyết phủ… tuyết lại tan
Hoa nở…….hoa rơi….. hoa lại tàn
Tình đẹp……tình sâu….. tình lại tan!
Người đẹp…… người xấu…… rồi cũng chết
Người giàu …..người nghèo….rồi cũng hết (ST)
Tình yêu đôi lứa là tình thề non hẹn biển. Một cái tình tưởng chừng như trường cửu nhưng vẫn cứ mong manh. Trong tình yêu nó vẫn có mầm chia ly. Nó vẫn làm cho bao người vỡ mộng để rồi ôm hận sầu đông.
Đò tình anh đã sang sông
Sao không ngoảnh lại nhìn hàng lệ rơi
Hoa kia sớm nở chiều tàn
Tình ta cũng vỡ theo chiều hoàng hôn.
Cảnh đời là cảnh vô thường. Những lời thề non hẹn biển cũng đi vào lãng quên. Cuộc đời con người cũng vô thường như vạn vật. Có hiện hữu hữu rồi cũng có từ giã. Có sum họp rồi cũng chia ly. Xem ra cuộc đời thật mong manh. Mong manh như nụ hoa sớm nở chiều tàn. Đây là phi lý của cuộc đời khiến người ta mong được có kiếp sau, với mong ước được là cây thông để tự do tự tại, tự vui thú trần gian.
Kiếp này, ta ở nơi đây
kiếp sau xin được làm cây thông buồn
mặc giông tố
mặc mưa tuôn
mặc cho thế thái quay cuồng xung quanh
Thông reo, reo giữa ngàn xanh
vui cùng gió mát trăng thanh địa đàng.
Hôm nay, ngày lễ tro như muốn nhắc nhở về thân phận mỏng dòn của kiếp người. Thân phận tro bụi rồi cũng trở về bụi tro. Kiếm tìm công danh sự nghiệp rồi cũng có ngày buông tay để trở về với bụi đất. Vun quén của cải trần gian rồi cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Quá mải miết tìm kiếm danh lợi thú để rồi cũng có ngày nuối tiếc vì mình quá bận tâm với của phù vân. Cuộc đời thật vắn nhưng con người lại chẳng an hưởng hiện tại mà lao công vất vả tìm kiếm những thứ chẳng trường tồn.
Khi nhìn nhận sự mong manh của kiếp người sẽ giúp chúng ta biết sống thanh thoát với cõi trần. Đừng vì danh lợi thú mà làm điều sai trái. Trái với đạo đức. Trái với lương tâm. Đừng tưởng rằng mình trường sinh nên lao đầu vào đại hội trần thế chỉ để bon chen, vui chơi, trụy lạc; Đừng gieo vào cuộc đời những ngang trái, bất công và tội lỗi.
Khi nhìn nhận thân phận mỏng dòn của kiếp người cũng mời gọi chúng ta hãy đấm ngực ăn năn về những lạc lối của kiếp người. Hãy nhớ rằng “mọi sự là phù vân”, hãy ăn năn trước khi quá muộn, hãy sám hối và sửa lại hướng đi trước khi trở về với bụi đất. Lời bài hát của cha Kim Long như vẫn tha thiết nhắc nhở chúng ta: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro”.
Ước gì mỗi khi chúng ta cúi mình nhận lãnh những hạt tro không chỉ là hành vi sám hối, mà còn là dịp để nhìn nhận thân phận tro bụi của mình. Một thân phận thật mỏng giòn nên hãy biết sống cho trọn ý nghĩa của kiếp người. Một thân phân mong manh sớm nở chiều tàn như loài hoa nên hãy sống có ý nghĩa với giây phút hiện tại. Xin Chúa giúp chúng ta biết sám hối về những lạc lối của mình và hoàn thiện mình thay vì chỉ mải miết chạy theo thế trần. Amen. [Mục Lục]
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tứ thời bát tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, thay đổi tuần hoàn luân vòng chuyển đổi. Niên lịch phụng vụ của Giáo hội Công Giáo cũng có chu kỳ xoay vòng luân chuyển.
Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh qua đi, Mùa Thường niên tiếp nối, chúng ta chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh, cao điểm là Đêm Vọng Phục Sinh. Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu? Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay có ý nghĩa thế nào? Mùa Chay đến rồi lại đi, chúng ta làm gì để Mùa Chay không trở nên nhàm chán và có ý nghĩa?
Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu?
Vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, để sống đạo và thực hành đạo, các kitô hữu tiên khởi đã quan sát những người chung quanh xem họ sống đạo và thực hành đạo thế nào, cụ thể như việc người Dothái giữ ngày Sabát, hay lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy các kitô hữu tiên khởi họp nhau thành một cộng đoàn tế tự, cử hành phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần theo một công thức tuyên xưng đức tin. Nhưng khi cử hành các ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Năm Mươi, dù vẫn giữ nguyên những ngày lễ của người Dothái nhưng lại mặc cho các ngày lễ ấy một ý nghĩa mới, chẳng hạn: khi cử hành, họ không chỉ nhắc lại các biến cố Cựu Ước, mà còn tưởng nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ. Mãi đến thế kỷ thứ IV, trong Giáo hội mới nảy sinh những ý kiến khác nhau như: liệu có cử hành lễ Phục Sinh vào ngày lễ Vượt Qua của người Dothái không? Tại các Giáo đoàn thuộc Tiểu Á, họ vẫn giữ nghi lễ chiên vượt qua. Riêng Giáo đoàn Antiokia lại ấn định lễ Phục Sinh vào ngày chúa nhật sau lễ Vượt Qua của người Dothái, trong khi đó, các kitô hữu tại Alexandria do các nhà chiêm tinh tính toán nên đã chuyển rời lễ Phục Sinh vào dịp phân xuân.
Cho dù có sự khác nhau về ngày cử hành các ngày lễ, nhưng lễ Phục Sinh vẫn là lễ chung của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo, vì lễ Phục Sinh dựa trên nền tảng đức tin, trước lễ Phục Sinh, có một thời gian chuẩn bị tương đối dài gọi là Mùa Chay hay “40 ngày”, tưởng nhớ 40 Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 đêm ngày.
Việc thực hành Mùa Chay đã có từ thời thì đầu Kitô giáo, nhưng trải qua những bước thăng trầm, mãi tới thế kỷ thứ II, thời thánh Irênê, giám mục thành Lyon, việc giữ chay ngắn hạn từ hai đến ba ngày, không ăn bất kỳ thức ăn nào mới được phổ biến. Sang kỷ thứ III tại Alexandria, người ta kéo dài việc ăn chay ra hết một tuần. Những dấu tích của Mùa Chay hay “40 ngày” được tìm thấy ở thế kỷ thứ IV, trong lễ qui của Công Đồng Nicêa. Đây là thời gian chuẩn bị mừng lễ, nhưng ưu tiên vẫn là việc giúp các tân tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa Tội và Đêm Vọng Phục Sinh.
Cuối thế kỷ thứ IV, Giáo đoàn tại Giêrusalem bắt đầu giữ chay 40 ngày hay còn gọi là Mùa Chay 8 tuần, người ta ăn chay suốt thời gian này, trừ thứ Bẩy và Chúa nhật. Sang thế kỷ thứ V, tại Aicập người ta cũng giữ chay, tiếp đến là xứ Gô-lơ, người ta ăn chay ngày thứ Bẩy và thứ Sáu tuần trong Mùa Chay. Trong khi giữ chay, các kitô hữu chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thức ăn gồm có bánh, rau và nước. Giữ nghiêm ngặt nhất là ngày Thứ Sáu và Thứ Bẩy Tuần Thánh, người ta không ăn một chút thức ăn nào. Giờ ăn chay được qui định tùy theo sự khác nhau của mỗi giáo đoàn. Vì mùa chay gồm 6 tuần không thể tương ứng với 40 ngày được. Nên sang thế kỷ thứ VII, người ta đã lùi về trước mùa chay mấy ngày, cụ thể như bắt đầu từ ngày thứ Tư cho đến ngày thứ Bẩy tuần trước khi bước vào Mùa Chay, ngày mà hôm nay chúng ta gọi là Thứ Tư Lễ Tro, ngày ăn chay. Đồng thời, ba Chúa nhật trước Mùa chay, Chúa nhật bẩy tuần, Chúa nhật sáu tuần và Chúa nhật năm tuần, là gồm tóm thời gian chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh, cách lễ Phục Sinh chín tuần. Việc giữ chay ngày càng đòi hỏi nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như buộc chỉ ăn bữa tối. Nhưng đến thế kỷ thứ VIII, việc giữ chay được nới rộng ra, nghĩa là cho phép những người ốm đau bệnh tật được ăn chứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định là trước giờ trưa 3 giờ tức 9 chín giờ sáng, tiếp theo được ăn “bữa ăn nhẹ” vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII việc ăn chay giảm dần và các nhà thần học cho phép được ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chay, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau trổ tài làm ăn với những thực đơn sao cho dồi dào phong phú hơn ngày thường.
Từ năm 1949, Giáo hội Công giáo qui định việc giữ chay và kiêng thịt là ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh mà thôi. Lý do vì hai ngày đó là ngày tưởng nhớ sự chết: ngày thứ tư lễ Tro, linh mục chính thức làm phép tro được đốt từ những cành lá đã làm phép vào ngày Lễ Lá năm trước rồi vẽ hình thánh giá trên trán người nhận tro và nhắc lại rằng “ngươi là tro bụi, và người sẽ trở về tro bụi”, nhắc lại cái chết của mỗi người chúng ta, tiếp đến, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.
Trong phụng vụ của Giáo hội Chính Thống, thời gian chuẩn bị bước vào Mùa Chay kéo dài năm tuần liền, mỗi tuần đọc một đoạn Tin Mừng riêng, với cách thức sám hối sâu xa. Tuần thứ bốn, được ấn định là ngày kiêng thịt và ăn chay trong toàn Giáo hội. Chúa nhật thứ năm được gọi là Chúa nhật Hòa giải, mỗi người hòa giải với người bên cạnh trước khi toàn thể cộng đoàn xin lỗi Chúa.
Cảm tưởng chung là một bầu không khí “vui và buồn”. Mỗi tín hữu, với sự hiểu biết có giới hạn và khác nhau về phụng vụ, nên khi bước vào nhà thờ với các kinh nguyện của Mùa Chay, mỗi người mỗi cảm tưởng khác nhau. Một phần vì những lời kinh tiếng hát mang đậm nét buồn, màu áo tím, những bài đọc dài hơn, đơn điệu hơn ngày thường, và hầu như không có nét vui tươi. Một nét đẹp nội tâm rực sáng, tựa như ánh sáng ban mai chiếu rọi từ thung lũng tối tăm lên tận đỉnh cao của núi đồi.
Niềm vui ầm thầm, êm dịu và toàn bộ các bài Sách thánh trong Mùa Chay nghe thật đơn điệu cho thấy sự bình an đã dẫn đưa người ta tới những điệp ca hòa tấu Allêluia trong Đêm Vọng Phục Sinh.
Chúa nhật lễ Lá là thời gian không còn dành riêng cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn nữa, bước vào một Tuần Thánh, với những bài đọc nhắc lại những ngày sau hết của Chúa Kitô trên trần gian và sự Phục Sinh của Ngài.
Tại sao lại gọi là 40 ngày chay thánh?
Từ “Mùa Chay” là một từ tương phản với từ gốc latinh là “quadragesima” có nghĩa là 40. Trong Kinh thánh, con số 40 có ý diễn tả một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Dothái kéo dài 40 năm. Ông Môi-Sen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (Xh 24,18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (1V 19,8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (Gn 3,4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (Mt 4,2).
Như vậy Mùa chay là mùa nhắc nhớ 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Dothái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuân tiện thích hợp cho các Kitô-hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.
Mùa chay mang lại cho chúng ta điều gì?
Phần lớn người kitô hữu không thực hành việc ăn chay, nguyện ngắm, nên Mùa Chay không có ảnh hưởng tới đời sống của họ là bao? Khi nói về Mùa Chay, người ta thường hiểu một cách không tích cực lắm. Đại đa số dân chúng cho rằng trong Mùa Chay việc kiên ăn, kiêng uống giữ chay chiếm vị trí hàng đầu.
Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại đa số người kitô hữu không thực hành đạo trong đời sống nhưng họ vẫn đến nhận tro vào Thứ Tư Lễ Tro. Đây là một nghi thức giầu tính biểu tượng, nó tác động đến tận đáy lòng con người, nhắc nhớ người ta suy nghĩ về thân phận của mình khi nhận tro và mời gọi con người trở về với Chúa. Vì nhiều khi con người quên đi thân phần yếu hèn, mỏng giòn của mình, dẫn đến đau thương và đổ vỡ. Bi kịch cuộc đời con người đều từ đó mà ra. Con người phạm tội, tội cắt đứt sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, làm cho con người mất đi hạnh phúc, phải đau khổ và phải chết. Chuyện sa ngã của Nguyên tổ đã chứng minh điều đó. Lịch sử cứ độ của Dân Chúa, tội thì Chúa phạt, hối cải thì Chúa tha và cứu. Nên mỗi khi lâm vào hoàn cảnh bi đát đau thương hay thất vọng, Dân Chúa đều nhận ra rằng cần phải sám hối trở về giao hòa với Thiên Chúa để được chữa lành. Mùa Chay là mùa sám hỗi, chúng ta hãy ra sức làm những việc cần thiết để được giao hòa và hiệp thông với Chúa, hầu được Chúa ban ơn.
Trong đời sống người kitô hữu, nhiều khi lắng nghe lời Chúa xong, chúng ta đã có quyết tâm đi xưng tội, làm việc đền tội, nhưng rồi kết quả không mấy khả quan, thì Mùa Chay là cơ hội rất thuận lợi. Thư thánh Phaolô nói với chúng ta: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian khẩn trương trong năm phụng vụ, thời gian thuận tiện được ban cho chúng ta để đẩy mạnh quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, thực hành khổ chế một cách quảng đại hơn, để đi tới và giúp đỡ tha nhân đang túng thiếu: đó là một hành trình tinh thần giúp chúng ta chuẩn bị sống Mầu Nhiệm Phục Sinh. Vậy chúng ta hãy tin tưởng điều đó và bước vào Mùa Chay Thánh. [Mục Lục]
(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD. – THỨ TƯ LỄ TRO)
I.- CHUYỆN BÊN TA: Khoảng đầu thế kỷ XX, trên “Đông Dương tạp chí” có mở mục “Xét tật mình” do chính chủ báo – học giả Nguyễn Văn Vĩnh – phụ trách. Mục này chuyên nêu ra những thói hư tật xấu, những hủ tục của người Việt Nam, nhằm mục đích xây dựng một nếp sống văn minh theo trào lưu đổi mới của đất nước, trước làn gió mới từ phương Tây đưa lại. Ảnh hưởng của phong trào khá mạnh, có sự tham gia của “Nam Phong tạp chí”, “Tân Văn”. “Đăng cổ tùng báo” và sau này, “Phong Hoá”, “Ngày Nay” (Tự Lực Văn Đoàn) cũng nhập cuộc.
Xã hội Việt Nam chuyển mình thấy rõ. Quả thực, muốn tiếp thu cái mới, cái tốt đẹp, thì trước hết phải biết “nhìn lại mình” mà “xét tật mình”, mạnh dạn từ bỏ những thứ đã lỗi thời ngăn cản bước tiến hoá của dân tộc. Tất nhiên khi “nhìn lại mình” sẽ thấy rõ cả ưu và khuyết điểm. Mạnh dạn sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, dung hoà hai nền văn hoá Đông Tây, ấy mới là “đổi mới”. Với đích điểm canh tân, không thể chấp nhận thái độ “bảo thủ” giữ nguyên cái cũ, nhưng cũng không thể một sớm một chiều đổi mới cái rụp theo trào lưu “cấp tiến”. Ấy cũng bởi vì “dục tốc bất đạt” (muốn nhanh thì không thành công).
II.- CHUYỆN BÊN TÂY: Trong “TẢN MẠN VỀ SỐNG ĐẠO CHÚA GIỮA ĐỜI” của Đức Giám mục Phao-lô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh (xuất bản năm 2003), có bài “Bảo thủ và cấp tiến” (trang 21-23) kể một câu chuyện xảy ra ở … bên Tây, vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX: Ngày 30-6-1988, ĐGM Lefèbre – người sáng lập Huynh đoàn Linh Mục Thánh Pi-ô X (tháng 11-1970) – đã tự ý truyền chức giám mục cho bốn linh mục của Huynh đoàn mà không có phép của Toà Thánh. Lý do:
Thứ nhất, Huynh đoàn vốn chủ trương chống lại “tinh thần của Va-ti-ca-nô II và các cải cách do Công Đồng ấy khởi xướng…”, và “chúng tôi cảm thấy tuyệt đối cần thiết phải có những thẩm quyền Giáo Hội ủng hộ các lo lắng của chúng tôi và giúp chúng tôi dự phóng chống lại tinh thần của Va-ti-ca-nô II và tinh thần của At-xi-di” (Thư ĐGM Lefèbre gửi Thánh GH Gio-an Phao-lô II ngày 02-6-1988).
Thứ hai, Không những chỉ chống lại Công đồng Vat. II, mà giám mục Lefèbre còn chống lại cả Toà Thánh đương thời nữa. Trong thư ngày 29-8-1988 gửi 4 giám mục nói trên, ông viết: “ngai Toà Thánh Phê-rô và những vị thế thẩm quyền của Rô-ma hiện nay do những người phản-Chúa-Kitô chiếm giữ” đang bách hại Huynh đoàn, vì “Rô-ma đi theo chủ nghĩa duy tân và phóng khoáng ấy đang đeo đuổi việc huỷ diệt Nước Chúa chúng ta, như (biến cố) At-xi-di và việc thừa nhận các luận đề phóng khoáng của Vat. II về tự do tôn giáo chứng tỏ”. Giám mục Lefèbre nhấn mạnh: “Xác tín rằng chỉ hoàn thành Thánh ý Chúa, qua thư này, tôi đến xin các cha nhận chịu lấy ơn thánh của chức giám mục Công Giáo như tôi đã truyền ban cho linh mục khác trong những hoàn cảnh khác… Tôi sẽ ban cho các cha ơn thánh đó vì tin rằng Ngai Toà Thánh Phê-rô không lâu nữa sẽ được chiếm giữ bởi một đấng kế vị Thanh Phê-rô hoàn toàn là Công Giáo”.
Cuối bài viết, đức GM Phao-lô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh nhận định: “Quả là ‘bảo hoàng hơn vua’! Một Ki-tô hữu muốn bảo vệ đức tin tinh tuyền hơn Đức Giáo Hoàng! Có những người Công Giáo tưởng mình là tín đồ đạo Công Giáo chính tông hơn cả Đức Giáo Hoàng khi muốn bảo thủ quan điểm của mình hơn là ‘khiêm tốn và vâng lời đầy đủ đối với Đấng thay mặt Chúa Ki-tô’ (thư của Thánh GH Gio-an Phao-lô II gửi giám mục Lefèbre, ngày 9-6-1988)”.
III.- CHUYỆN TRONG NHÀ: Cũng không thiếu những chứng liệu cho thấy, nhiều khi tôi cứ chỉ lo chăm chăm nhìn người để xét đoán, để phê phán, trách móc, mà quên đi “xét tật mình”. Khi đọc kinh cáo mình, mỗi lần cúi đầu đấm ngực, miệng thì lớn tiếng “lỗi tại tôi” nhưng sao tôi lại cứ ngó nghiêng sang người bên cạnh, và hình như chỉ thấy “lỗi tại anh, tại chị, tại … ai ai ấy!” Cọng rác nơi mắt người thì nhìn thấy rất rõ, nhưng cái xà tổ chảng chắn ngay mắt mình thì lại không thấy. Rồi thì … mau mắn đem Lời Chúa ra nhắc khéo anh em, để quên đi cái khó là tự nhắc nhở mình hãy sống Lời Chúa. Vậy đó! “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.” (Mt 23, 4). Phê bình người thì rất sốt sắng, nhưng tự phê bình thì … hãy đợi đấy!
Cách đây không lâu, ở Việt Nam đã rộ lên tin tức về hiện tượng “Đức Mẹ khóc” tại nhà thờ Đức Bà Saigon. Rồi thì rủ nhau đi xem, đi ngắm, làm cho dư luận càng thêm xôn xao. Ôi chao! Cứ cho là Đức Mẹ khóc thực sự đi, rồi hãy tự đặt câu hỏi: “Tại sao Mẹ khóc? Phải chăng vì con cái hư hỏng, tội lỗi?” Chuyện trong gia đình, sao không đóng cửa lại, “nhìn lại mình’’ mà ăn năn, hối cải cho Mẹ bớt đau buồn, bớt khóc; lại đi hô hoán lên cho mọi người xa gần biết Mẹ mình khóc như thế? Tập trung để cầu nguyện ư? Đức Mẹ ở khắp mọi nơi, sao không cầu nguyện nơi kín đáo (Mt 6, 5-6) mà lại cứ phải ra ngã ba ngã tư đường làm chi vậy? Quả nhiên, “nhìn lại mình” khó thật! Nhìn lại mình đã khó, làm sao mà “xét tật mình” cho được. Chẳng thế mà Thánh I-nha-xi-ô đã phải thốt lên: “Lột trần chính con người của mình để gặp gỡ Thiên Chúa và giải thoát mình khỏi những quyến luyến lệch lạc, là xét mình”. Ngài còn nói: “Thà bỏ việc nguyện ngắm, còn hơn là bỏ việc xét mình” (xc “Những bài linh thao” – chủ đề Thánh I-nha-xi-ô khuyên hướng dẫn viên đưa vào bất cứ cuộc tĩnh tâm nào – Thanhlinh.net).
Ai cũng thấy là nói với tha nhân, khuyên tha nhân “sống Lời Chúa” dễ hơn gấp trăm ngàn lần tự mình “sống Lời Chúa”. Đức Ki-tô đâu có khuyên là “hãy mang theo thật nhiều của cải – thậm chí cả danh vọng nữa – mà theo Thầy”, nhưng Người dậy “Hãy từ bỏ tất cả, vác thánh giá mình mà theo Thầy”. Vác thánh giá hẳn nhiên không dễ chịu bằng “vai mang bị bạc kè kè”, giống y chang những ông kinh sư, luật sĩ Pha-ri-sêu “ưa dạo quanh, súng sính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ.” (Mc 12, 38-40). Mà một khi đã “Vai mang bị bạc kè kè” thì “Nói lếu nói láo chúng nghe rầm rầm” (ca dao VN) liền. Cũng vì thế, nên Người Thầy chí thánh mới khuyên: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, 2-3).
IV.- XÉT TẬT MÌNH: Mùa Chay là mùa toàn Giáo Hội thực hiện đời sống chay tịnh (thanh tẩy + sám hối), chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa Phục Sinh. Trong tiếng La-tinh, Mùa Chay thánh được gọi là “Quadragesima” (bốn mươi), tức là thời kỳ gồm 40 ngày, kéo dài từ Thứ Tư Lễ Tro đến hết Thứ Năm Tuần Thánh (Thánh lễ Tiệc Ly). Thời gian 40 ngày là để nhớ lại thời gian ngôn sứ Mô-sê dẫn dân Do-thái ra khỏi đất Ai-cập, băng qua Biển Đỏ, lưu lạc trong sa mạc 40 năm (1280-1240) và trở lại vùng Đất Hứa. Đó cũng là thời gian 40 đêm ngày Mô-sê cầu nguyện trên núi Si-nai và được Đức Chúa trao cho Thập Điều (10 điều khoản giao ước – Xh 24, 18; 34, 28), hoặc để kỷ niệm thành Ni-ni-vê sám hối và được tha thứ khỏi án phạt (“Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ.” – Gn 3, 1-10). Rồi 40 ngày còn để nhớ lại cuộc hành trình 40 ngày trong sa mạc của tiên tri Ê-li-a, lúc ông trốn khỏi cơn thịnh nộ của Hoàng hậu I-de-ven, để tiến về Núi của Thiên Chúa, nơi đây Chúa mạc khải và trao cho ông sứ vụ mới (1V 19, 8). Và quan trọng nhất là sự kiện Đức Giê-su được Chúa Thánh Thần dẫn vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (Mt 4, 1-11).
Như vậy Mùa Chay là mùa Phụng vụ Giáo Hội mời gọi tất cả các tín hữu hãy “xét tật mình” mà ăn năn trở lại. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa tâm linh, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thích hợp cho các Ki-tô hữu noi gương Đức Ki-tô, dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và đây cũng là dịp người tín hữu được liên kết mật thiết hơn với các mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh vinh hiển của Đức Giê-su Ki-tô. Cũng vì thế, nên ngày mở đầu Mùa Chay, Giáo Hội cho tiến hành nghi thức Xức Tro và kêu gọi tín hữu ăn chay, thực hiện việc “sám hối ăn năn” như Lời truyền dạy của Đức Giê-su (“Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em.” – Cv 3, 19). Với nghi thức xức tro và ăn chay, người Ki-tô hữu có cơ hội nhìn nhận mình là kẻ có tội, xin Thiên Chúa tha thứ, đồng thời diễn tả uớc muốn thành thực trở lại cùng Người. Nói cách cụ thể, đây là dịp thuận tiện để người tín hữu bắt đầu đi trên con đường khổ hạnh cho đến “Tam Nhật Vượt Qua”, trung tâm điểm của Năm Phụng Vụ. Nghi thức Xức Tro nhắc nhở người tín hữu “Ngươi là bụi tro, và sẽ trở về với tro bụi” (St 3, 19), vì thế “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15).
Theo Thánh Kinh, tro được dùng làm biểu tượng của sự hối tiếc, ăn năn. Một số nhân vật trong Thánh Kinh đã phủ bụi tro lên người để bày tỏ lòng sám hối về những tội lỗi và sai lầm của mình. Ông Gióp đã thưa với Chúa: “trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn.” (G 42, 6); ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã kêu gọi dân It-ra-en thể hiện sự ăn năn: “Thiếu nữ dân tôi ơi, quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi.” (Gr 6, 26); Tiên tri Đa-ni-en cũng bày tỏ lòng thành khẩn của mình với Đức Chúa: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van.” (Đn 9, 3); vua Ni-ni-vê bày tỏ lòng ăn năn sám hối bằng cách ngồi trên tro (Gn 3, 6). Chính Chúa Giê-su cũng dùng hình ảnh “mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối” để nhắc nhở các thành (Kho-ra-din và Bết-sai-đa) đã chứng kiến các phép lạ mà không sám hối (Mt 11, 21; Lc 10, 13).
Ngoài ra, theo truyền thống xa xưa của Giáo Hội, tất cả mọi tín hữu, trong ngày thứ tư lễ Tro, đều phải giữ chay và kiêng thịt. Việc ăn chay có một giá trị lớn trong đời sống Đạo của người Ki-tô hữu, là một đòi hỏi của tinh thần, nhắm đến tương quan mật thiết với Thiên Chúa (được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đấng Cứu Tinh Giê-su Ki-tô – Rm 8, 29; Pl 3,10). Thật vậy, những khiá cạnh bên ngoài của việc ăn chay, dù quan trọng, nhưng chưa nói lên đầy đủ ý nghĩa của việc thực hành nầy. Điều quan trọng hàm chứa bên trong mới thực sự là chiều kích tối hậu: Đó là ao uớc chân thành muốn được thanh tẩy nội tâm, muốn sẵn sàng vâng nghe thánh ý Thiên Chúa và sống tình liên đới với anh chị em, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh.
Tìm hiểu ý nghĩa và mục đích việc ăn chay trong Thánh Kinh thấy rất đa dạng: Các tín hữu ăn chay với mục đích thờ phượng Thiên Chúa, để được Người nhậm lời khi cầu nguyện, đồng thời để khu trừ ma quỉ, để tỏ lòng ăn năn, sám hối và đi kèm với than khóc để bày tỏ sự buồn bã, hối hận, thương tiếc, lo sợ; đồng thời để đền vì tội lỗi đã phạm, cầu xin Thiên Chúa tha tội. Thánh Gio-an Tẩy Giả thi vào hoang địa mặc áo lông cừu, ăn châu chấu và mật ong rừng, để tự nguyện làm “Tiếng hô trong sa mạc” loan báo Tin Mừng. Đức Giê-su Thiên Chúa thì ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc, chịu để Xa-tan cám dỗ, hầu chuẩn bị sứ mạng Chúa Cha đã trao phó: rao giảng và thực hiện Tin Mừng Cứu Độ.
Thật không thể ngờ cách đây hơn 25 thế kỷ, ngôn sứ I-sai-a đã có một quan niệm hoàn toàn mới về ăn chay: Ăn chay với mục đích đầy tính nhân đạo là thực hiện công bằng và bác ái (Is 58, 6-7). Ngài lên án cách ăn chay chuộng hình thức bề ngoài mà thực chất bên trong chỉ lo kiếm lợi cho mình, áp bức kẻ khác, ăn chay để đôi co cãi vã, hoặc đánh lộn tàn bạo (“Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng ĐỨC CHÚA?” – Is 58, 3-5).
Cách ăn chay của ngài khác hẳn một trời một vực: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục” (Is 58, 6-7). Ăn chay đúng nghĩa – theo ngôn sứ I-sai-a – chính là thực hiện công bằng xã hội, là tỏ tình yêu thương với người chung quanh bằng những hành động cụ thể. Ăn chay còn thể hiện những khao khát hòa bình: Thiên hạ “sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.” (Is 2, 4).
Ăn chay phải là: “Hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương” (Ge 2, 12-13). Xé áo chính là hình thức ăn chay của bọn đạo đức giả như Lời dạy của Đức Giê-su: “Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm,18 để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” (Mt 6, 16-18).
Vâng, Mùa Chay chính là mùa nhìn lại chính mình, xét tật mình để có thể trở về với Thiên Chúa. Nhìn lại mình để hiểu rằng mình được dựng nên từ tro bụi đất cát, thì một mai cũng sẽ trở về với đất cát bụi tro mà thôi. Hiểu được như thế, hiểu được “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì”, thì đừng lo tích trữ của cải vật chất mà hãy lo đầu tư vào ngân hàng Nước Trời. Xét tật mình để thấy rằng mình tội lỗi ngập đầu, cần phải biết ăn năn sám hối, hoán cải cuộc đời, nói cách khác là phải biết từ bỏ tất cả thế gian, từ bỏ chính mình để trở về với Thiên Chúa. Cách tốt nhất để trở về với Đấng Từ Bi Nhân Hậu chỉ có thể là “Đừng xé áo (ăn chay hình thức), nhưng hãy xé lòng (thực tâm sám hối)”.
Vì thế, cần phải có một suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề ăn chay: Thứ nhất, ăn chay là nhằm mục đích hãm mình ép xác để đền vì những tội lỗi xúc phạm đến Chúa và tha nhân (sám hối). Thứ hai, về mặt vật chất, nếu cố gắng giảm bớt chi tiêu phung phí, rồi đem khoản cắt giảm được ấy làm công việc bác ái, thì việc ăn chay mới thực sự có ích. Thứ ba, không giới hạn việc ăn chay trong 2 ngày luật buộc, mà nên thực hiện bất cứ khi nào có dịp, thậm chí trong suốt cả Mùa Chay, suốt cả cuộc đời trần thế. Tóm lại, việc ăn chay cốt ở cái TRÍ (hiểu rõ việc mình làm nhằm mục đích gì) và cái TÂM (đức bác ái), không cần câu nệ ở hình thức (“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có tình yêu, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” – 1Cr 13, 3).
Trong Sứ điệp Mùa Chay 2015 (phần kết), ĐTC Phan-xi-cô viết: “Vì thế, anh chị em thân mến, tôi muốn cùng với anh chị em cầu xin Chúa Ki-tô trong mùa Chay này: “Fac cor nostrum secundum cor tuum”, xin làm cho trái tim chúng con được nên giống Trái Tim Chúa” (Lời cầu trong Kinh cầu Thánh Tâm Chúa Giê-su). Như thế chúng ta sẽ có một con tim mạnh mẽ và từ bi, tỉnh thức và quảng đại, không để nó khép kín vào mình, không rơi vào vực thẳm của nạn hoàn cầu hóa sự dửng dưng.” Người Ki-tô hữu cần nhận chân việc “xét tật mình” chính là để nhìn cho rõ con người thật của mình, không khép kín trong tính vị kỷ để “rơi vào vực thẳm của nạn hoàn cầu hóa sự dửng dưng”, mà là mở rộng trái tím ra với Chúa và với tất cả anh em.
Vâng, hãy thực sự nhìn lại mình, xét tật mình, mà ăn năn sám hối những điều sai phạm đã mắc phải (đối với Thiên Chúa và với anh em), quyết tâm đổi mới con người của mình trong “mùa chay cuộc đời”. Chỉ có như vậy mới xứng đáng là con Thiên Chúa và là bạn của Trưởng Tử Giê-su (Ki-tô hữu). Cũng bởi vì: “Mùa Chay là một mùa canh tân đối với Giáo hội, các cộng đoàn và mỗi tín hữu. Nhưng trên hết mùa Chay là một mùa ân thánh (2Cr 6, 2). Thiên Chúa không yêu cầu chúng ta điều gì mà trước đó Ngài không ban cho chúng ta.” (Mở đầu sứ điệp Mùa Chay 2015). Ước được như vậy.
Ngày nay Giáo Hội Công Giáo chỉ buộc các tín hữu ăn chay mỗi năm 2 lần mà thôi. Điều ấy thật hữu lý vì ăn chay phải mang tính tự nguyện chứ không thể ép buộc. Phải tin chắc rằng Chúa muốn người tín hữu ăn chay nhiều hơn, thậm chí ăn chay trong suốt cả lộ trình trần thế, bằng cách ăn năn sám hối vì tội lỗi đã mắc phạm, đồng thời thực hành đúng Lời Chúa dạy: “Gặp anh em đói thì cho ăn, khát thì cho uống, anh em là khách lạ thì tiếp rước tử tế, anh em trần truồng thì cho mặc, đau yếu thì tới viếng thăm, bị tù đày thì hỏi han chia sẻ” (Mt 25, 35-37).
Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thần Khí soi sáng và thêm sức cho chúng con để chúng con dám mạnh dạn XÉ LÒNG CHỚ KHÔNG XÉ ÁO khi bước vào Mùa Chay Thánh. “Lạy Chúa, ngày hôm nay, tất cả chúng con ăn chay hãm mình, để bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Thứ Tư Lễ Tro). [Mục Lục]
Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.
– Thưa cha, cha biết đây là gì không?
– Nó giống như cát.
– Cha có biết tại sao con mang nó vào đây không?
– Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.
– Đây là tội của con. Tội con không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào con có thể được tha thứ tất cả?
– Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.
Mùa Chay, mùa trở về cùng Chúa là Cha… bắt đầu bằng tâm tình sám hối qua việc xức tro…. Tại sao phải xức tro và tro có ý nghĩa như thế nào?
Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng con người đầu tiên là nguyên tổ Ađam (x. St 2, 7) và sau khi nguyên tổ phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa đã phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3, 19), thân phận con người thật mỏng dòn rồi sẽ thoáng mất đi, nhà thơ Miên Du xác tín khi dẫn vào bài thơ Rồi Mai Đây:
“Rồi mai đây, ta đi về cát bụi,
Đời bâng khuâng, chỉ một thoáng ngậm ngùi.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dù không là người Kitô hữu, có lẽ ông lấy nguồn cảm hứng từ Kinh Thánh khi dùng hình ảnh “hạt bụi” để nói về thân phận con người được cát bụi hóa kiếp thành con người rồi sẽ trở về với bụi đất:
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi…
… Ôi cát bụi phận nầy,
vết mực nào xóa bỏ không hay”
(Trịnh Công Sơn, Cát Bụi)
Bụi thường được dùng kết hợp đồng hóa với tro, bản Kinh Thánh Bảy Mươi nhiều lần các học giả dùng từ “bụi” để nói và đồng hóa “tro”. Trong Kinh Thánh tro bụi là biểu tượng tội lỗi, sự mỏng dòn của con người, sự khiêm tốn, nỗi đau khổ và cả sự thống hối ăn năn khi con người đã lỡ vấp phạm.
Trái tim và tấm lòng của người tội lỗi được ví như là bụi tro, sách Khôn Ngoan có nói rằng: “Con tim của anh là tro bụi, hy vọng của anh hèn hơn đất, cuộc đời của anh tệ hơn bùn” (Kn 15, 10), không gì tệ hơn bùn đất, tro bụi, con người tội lỗi được ví như tro bụi. Cho nên người tội lỗi sẽ bị tiêu hủy thành bụi đất như Ngôn sứ Edêkien loan báo Sấm ngôn: “Vì ngươi chồng chất tội…. Ta cho phát ra một ngọn lửa thiêu rụi ngươi; Ta biến ngươi thành tro bụi trên mặt đất…” (Ed 28, 18).
Tro bụi biểu hiện sự khiêm tốn bé nhỏ, Tổ Phụ Abraraham nhìn nhận mình trước Thiên Chúa: “con chỉ là thân tro bụi….” (St 18, 2).
Tro bụi được sử dụng để nói nên sự thống hối: Sau khi nghe tiên tri Giona loan báo sự trừng phạt của Thiên Chúa xuống thành Nivive do tội lỗi, Vua và toàn Dân xức tro để tỏ lòng thống hối vì lỗi lầm mà mình đã phạm, xin Thiên Chúa xót thương (x. Gn 3, 6). Dù là người vẹn toàn giữa thử thách, Gíop cũng biểu lộ lòng thống hối: “trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn (G 42, 6). Tro bụi với sự biểu hiện lòng hối tiếc khi phạm tội (x. Gdt 4, 11-15; Ed 27, 30).
Tro bụi nói lên sự buồn phiền đau khổ: bị người đời khinh chê, Thamar đã xức tro trên đầu (x. G 42, 6; Gn 3, 6; Mt 11, 21); theo sách Étte, người Do Thái xức tro khi lo sợ trước cái chết đe dọa (Et 6, 1-4).
Mùa Chay Thánh bắt đầu bằng Thứ Tư Lễ Tro – ngày được gọi là ngày “Bụi Tro” bởi vì trong ngày này, người tín hữu lãnh nhận tro được ghi hình thánh giá trên trán. Nghi thức xức tro trong ngày đầu Mùa Chay đã bắt đầu vào thời Đức Giáo Hoàng Grêgrôriô Cả (590-604). Nghi thức xức tro được đưa vào phụng vụ Tây Phương vào thế kỷ 10, và được phổ biến rộng rãi trong Giáo Hội tại Công Đồng Benevento năm 1091. Với tất cả ý nghĩa của tro bụi trong Thánh Kinh, việc lãnh nhận tro trên trán là dấu chỉ nhắc nhở sự chết: trở về với tro bụi và sự ăn năn, ý thức thân phận mỏng dòn như bụi đất, sám hối vì những lầm lỗi mà mình phạm.
Khi xức tro lên trán người tín hữu, Thừa tác viên kêu gọi sự sám hối của người muốn nhận lãnh tro và khiêm tốn nhìn nhận mình thấp hèn: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19), hay Thừa tác viên dùng lời kêu gọi ý thức mình tội lỗi, sám hối và canh tân đổi mới theo Tin Mừng với lời mà Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Con người dù trong thân phận thấp hèn yếu đuối như tro bụi, nhưng qua cử chỉ khiêm tốn nhận tro với Dấu Thánh Giá được ghi trên trán, dấu tượng trưng cho ấn tín thánh mà người Tín Hữu lãnh nhận khi lãnh phép rửa tội. Dấu giải phóng khỏi tội, qua dấu đó, người tín hữu được liệt vào con cái của Thiên Chúa (x. Rm. 6, 3-18). Đó là dấu chỉ con người trở về với bụi đất. Nhưng trong bụi đất, nhờ Đức Kitô qua cái chết và phục sinh với thập giá, con người sẽ tham dự vào vinh quanh với Ngài.
Cho nên việc lãnh tro cũng được coi như là dấu chỉ của sự trở về trong vinh quang khi chúng ta được lãnh nhận làm con cái của Thiên Chúa đã được diễn tả trong Sách Khải Huyền, vinh quang với Chiên chiến thắng là Đức Kitô khải hoàn, như Enzo Bianchi đã suy niệm về Tro bụi: “Vâng, đón nhận tro chúng ta ý thức rằng: Lửa tình yêu Thiên Chúa đã thiêu rụi tội lỗi, đốt cháy bởi lòng thương xót của Ngài… hay nhìn tro, mang ý nghĩa tuyên xưng Đức tin vào mầu nhiệm Pascale: “một ngày chúng ta sẽ là tro bụi, nhưng được dành để Phục sinh” (Donner sens au temps, Bayard (2004).
Cho nên, thật là ý nghĩa trong ngày thứ tư đầu mùa chay, khi lãnh nhận tro, chúng ta nhớ lại lời dạy của ĐTC Gioan Phaolo II: “Việc đặt tro rõ ràng và một cách nhấn mạnh đến thân phận thụ tạo, nhìn nhận mình hoàn toàn lệ thuộc vào Tạo Hóa. Hành động khiêm tốn lãnh nhận tro thánh trên trán… ngược lại hoàn toàn với cử chỉ kiêu ngạo của Adam và Eva, bởi sự bất tuân phục, đã phá hủy mọi quan hệ tình bạn hữu với Thiên Chúa tạo hóa” (Thứ tư Lễ Tro 1998).
Xức tro nhận mình yếu đuối, sám hối lỗi lầm, nhưng cũng tuyên tín rằng sẽ được tìm thấy, gắn liền lại tình yêu, tình bạn hữu với Tạo Hóa bởi dấu thánh giá…
Vâng, với tro bụi, chúng ta nhìn nhận thân phận bất toàn, sám hối lầm lỗi, tro bụi với Dấu Thập Giá – trở nên dấu vinh quang.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Bụi tro, bụi đất nhỏ li ti không có gía trị sức nặng kí lô nào đáng kể.
Bụi tro, bụi đất bay vất vưởng trong không khí gây ô nhiễm làm ngột ngạt khó thở có hại cho sức khoẻ.
Bụi tro, buị đất người ta quét vun lại rồi quăng vất ra góc vườn ngoài đồng ruộng cho sạch sẽ lối đi.
Nhưng theo kinh thánh thuật lại con người được Thiên Chúa tạo thành từ bụi đất.
Hằng năm vào ngày thứ Tư lễ Tro, ngày bắt đầu mùa chay 40 ngày, theo tập tục nếp sống đức tin của đạo Công Giáo, mọi người tín hữu Chúa Kitô đến trước bàn thờ cúi đầu xin lãnh nhận bỏ tro trên đỉnh đầu, trên trán. Dấu chỉ này nói lên lòng ăn năn thống hối xin Chúa ban ơn tha thứ những tội lỗi đã vấp phạm.
Dấu chỉ này cũng nói lên tâm tình từ nay xin từ bỏ cung cách nếp sống kiêu ngạo tự khoe mình, lấy mình làm trung tâm điểm.
Dấu chỉ khiêm cung lãnh nhận được rắc tro bụi trên đầu nói lên lòng kính trọng chân nhận mình là con cháu của Ông Bà nguyên tổ Adong và Eva, người được tạo dựng nên từ bụi đất.
Là tro bụi con người không có thể làm được tất cả. Con người là một tạo vật có khả năng giới hạn sống trên mặt đất. Đời sống con người như dòng sông, dòng điện trôi qua đi mau. Họ không thể kéo giữ lại những gì đã xảy ra ngay cả những gì cho là hay đẹp nhất. Tất cả tuần tự trôi qua đi như cát trôi dạt ngoài biển khơi, như bụi tro bay lưu lạc trong không khí.
Tâm tình lòng tin tưởng nhớ mình được tạo thành từ bụi tro nhắc nhớ mình là một tạo vật mỏng dòn. Nhưng mang trong mình hơi thở mầm sự sống của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh thần thánh Thiên Chúa khắc ghi vào nơi mỗi con người.
Vì thế con người có gía trị hơn tro bụi nhiều. Hơi thở hình ảnh của Thiên Chúa nơi mỗi người là sự sống, là ơn kêu gọi, những khả năng, cơ hội tiềm tàng trong thân xác, trong tâm trí chờ được phát triển bung nở vươn ra.
Ngày xưa bên bờ sông Jordan dân chúng xắp hàng đến xin Thánh Gioan làm phép rửa để tỏ lòng ăn năn thống hối trở về với Thiên Chúa.
Ngày thứ Tư lễ Tro, người tín hữu Chúa Kităô cũng sắp hàng đến xin nhận lãnh bụi tro rắc trên đầu tỏ lòng ăn năn thống hối.
Trong Thánh lễ Misa người tín hữu cũng thứ tự xắp hàng với hai bàn tay trắng lên tiếp nhận tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kito cho tâm hồn đức tin của mình.
Điều này nhắc nhớ Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người từ tro bụi, đã trở nên Bí tích Thánh Thể cho con người.
Tấm bánh Thánh Thánh nhắc nhớ đến tấm bánh ngày xưa Thiên Thần đã mang đến cho Thánh Tiên Tri Elia trong sa mạc hoang vắng. Tấm bánh này cũng được nướng trong lò lửa có tro bụi. Như thế trong tro bụi tấm bánh đã được nung nướng thành, mà Thiên Thần mang đến cho Eilia trong lúc đói lả mệt nhọc giữa đường đi.
Trong tro bụi Chúa Giêsu cũng đã nằm, ngài chính là bánh sự sống. Ngài đã chia sẻ thân phận nếp sống tro bụi của con người. Ngài đã sinh xuống trần gian làm người nơi hang chuồng xúc vật ở Bethlehem. Ngài đã đi bộ đó đây trên khắp nẻo đường quê hương đất nước Do Thái, dính bụi đất dọc đường, và sau cùng vác thập gía chịu khổ hình đến nơi chịu chết vì tro bụi dơ bẩn tội lỗi của con người.
Bụi tro đất làm nên thân xác hình hài con người có giá trị tốt. Vì được Thiên Chúa chúc phúc thánh hóa cùng ban hình ảnh hơi thở sự sống của Ngài cho con người.
Bụi tro đất làm nên con người có gía trị cao qúi mang lại sự sống. Vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã chia sẻ thân phận đời sống tro bụi làm người với con người. Và Ngài đã trở nên bánh sự sống đức tin cho con người.
Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và được kêu gọi cùng sống lại với Chúa Kito phục sinh.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
KHAI MẠC MÙA CHAY THÁNH
(Mt 6, 1-6; 16-18)
Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).
Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van” (Joel 2,12).
Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất: chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai: Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.
– Ăn chay
– Cầu nguyện
– Và bố thí
Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.
Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.
Trước hết phải khiêm nhường
Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là: “Tự nhịn bất kỳ thức ăn nào”. Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, “hạ mình” trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối như tác giả Thánh vịnh nói: “Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện” ( Tv 34, 13).
Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa: “Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Đức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Đức Chúa” (x. Tl 20, 26); “Vua Đa-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất; Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: “Biết đâu Đức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống!” (2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha: ” Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van”. (Dn 9, 3). Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi: ” Chúng nói: “Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?”… Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? ” (x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.
Đừng phô trương
Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy… khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người ” (Mt 6, 1-6).
Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vi khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng” (1Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.
Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.
Thực hành bác ái
Xem ra con người ngày càng ích kỷ, đến nỗi Đức Thánh Cha gọi đó là sự “thờ ơ toàn cầu hóa”. Xóa bỏ sự thờ ơ là điều Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh trong sứ điệp Mùa Chay năm nay. Ngài viết: “Mong mỏi lớn lao của tôi là tất cả nơi nào có sự hiện diện của Giáo hội, đặc biệt là nơi những giáo xứ và cộng đoàn, sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót giữa biển cả thờ ơ”. Ngài viết tiếp: “Dửng dưng với đồng loại và với Thiên Chúa cũng là một sự cám dỗ đối với Kitô hữu chúng ta” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).
Đức Thánh Cha dựa trên ba trích đoạn Kinh thánh và đề nghị mỗi tín hữu, mỗi giáo xứ và giáo hội suy niệm để canh tân.
– Giáo hội
Giáo hội và mỗi tín hữu cần tái khám phá “trong cùng một thân thể, không có chỗ cho sự dửng dưng, thứ thường hay chế ngự trong tim chúng ta” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).
– Các giáo xứ và các cộng đoàn
Câu hỏi nêu lên trong sách Sáng thế “Em ngươi đâu?” là một khởi điểm. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Tất cả những gì chúng ta đang nói về Giáo hội hoàn vũ bây giờ phải được áp dụng trong đời sống cộng đoàn và giáo xứ. Mỗi người tự hỏi mình có phải là những chi thể của Chúa Kitô không? Ngài nhắn nhủ: “mỗi cộng đoàn tín hữu phải đi ra và hòa mình vào cuộc sống của xã hội, đặc biệt nơi những người nghèo và những vùng ngoại biên xa xôi. Tự bản chất Giáo hội là truyền giáo; Giáo hội không tự đóng mình lại nhưng đi đến mọi miền đất nước và mọi dân tộc” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).
– Mỗi tín hữu
Đức Thánh Cha nhận xét: “Là những cá nhân, chúng ta bị cám dỗ bởi sự dửng dưng. Nhìn thấy những tin tức ngập tràn những hình ảnh đau khổ nơi nhân loại, chúng ta cảm thấy bất lực trong việc giúp đỡ họ. Chúng ta có thể làm gì để tránh cảm giác bất lực này?” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).
Để sống đức ái trọn vẹn, mọi thành phần dân Chúa cần thực hành theo 3 phương thức mà Đức Thánh Cha Phanxicô đề nghị trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay. Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen. [Mục Lục]