Khi chứng kiến Chúa Giêsu tắt thở, chính viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ngài đã phải xác nhận: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.” (Mc 15,39) Đó là bằng chứng hùng hồn về một sự thật minh nhiên.
Chết là cuộc chia ly não nề, trĩu buồn, càng buồn hơn khi cuộc chia ly đó là chia xa thâm tình Mẫu Tử, nghĩa tình Thầy Trò. Đối với Kitô hữu, Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại Tang. Tuy nhiên, chính trong nỗi buồn ấy vẫn đầy ắp niềm hy vọng khi bước qua cửa sự chết và hân hoan tiến vào Miền Vĩnh Sinh trong tiếng Alleluia ngân vang!
Ngày Thứ Sáu chết chóc nhưng lại là ngày Thứ Sáu Tốt Lành – Good Friday. Đành rằng chúng ta cũng góp phần bán đứng Đức Kitô, nhẫn tâm đóng đinh Chúa Giêsu nhiều lần qua việc phạm tội, hằng ngày chúng ta còn nỡ lòng đóng đinh nhau bằng nhiều loại đinh: Chỉ trích, gièm pha, khích bác, ghen ghét, đố kỵ, kỳ thị,… Trong các loại đinh đó có nhiều dạng: đinh gỉ sét, đinh sắc bén, đinh dài thoòng, đinh xoắn,… thậm chí có cả đinh tẩm độc.
Một khi các loại đinh đó đã “đóng” vào ai thì không dễ nhổ ra. Có lẽ vì vậy mà khi thấy các phụ nữ Giêrusalem khóc thương Ngài, Chúa Giêsu dừng lại với cây Thập Giá trên vai và nói thật lòng với họ: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu.” (Lc 23,28) Và đó cũng chính là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ mỗi chúng ta ngày nay, đồng thời cũng cảnh cáo chúng ta ngay trong “cuộc khổ nạn” mà thế giới đang phải chịu đựng vì virus Vũ Hán.
Đề cập tình yêu thương, Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13) Đó là si tình, và điều này đã được Ngài chứng minh vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, lúc 3 giờ chiều trên Đồi Sọ, ngày 3 tháng 4 năm 33 (Công nguyên). Thời điểm và ngày tháng Chúa Giêsu chịu chết đã được Tạp chí Địa Chất Quốc tế thực hiện cuộc nghiên cứu để xác định “ngày giỗ” của Ngài. Cuộc nghiên cứu này dựa vào nền tảng Phúc Âm, đồng thời kết hợp với các tài liệu về địa chất và thiên văn học, các nhà nghiên cứu đã đủ cơ sở để xác định như vậy.
Cái chết là bằng chứng về tình yêu chân chính. Còn mức độ yêu? Mức độ yêu là YÊU VÔ HẠN, yêu như điên, yêu phát khùng, yêu cuồng nhiệt, yêu đến nỗi bị coi là dại dột. Chuyện đời có mối tình của Romeo va Juliet của văn hào Shakespeare (1582-1616, Anh quốc), Việt Nam có mối tình Lan và Điệp, còn văn hào Victor Marie Hugo (1802-1885, Pháp quốc) yêu say đắm cô hàng xóm Adele Foucher nhưng bị mẹ cấm, sau khi mẹ mất, ông đã kết hôn với Adele. Tuy có vợ rồi nhưng ông lại “phải lòng” cô Juliette Drouet, và Juliette Drouet đã viết cho ông khoảng 1.700 lá thư tình. Ở đây chỉ muốn nói tới khối tình si của những trái tim yêu hết mình. Có kinh nghiệm tình trường, Victor Hugo đã kết luận: “Chết cho tình yêu là sống cho tình yêu.” Chết mà là sống, thật kỳ lạ!
Còn hơn thế nữa, Chúa Giêsu chính là người si tình thứ thiệt, độc nhất vô nhị, mệnh danh là Người Tôi Trung mà ngôn sứ Isaia đã đề cập: “Này đây, Người Tôi Trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng. Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy Tôi Trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa, cũng vậy, nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại, được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ.” (Is 52,13-15) Người Tôi Trung có những động thái trái ngược, rất khác lạ, nhưng có thật chứ không mơ hồ, tưởng tượng.
Và cũng chính Người Tôi Trung ấy “lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn, chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích.” (Is 53,1-2) Không chỉ vậy, Người Tôi Trung ấy còn “bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật, như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.” (Is 53,3) Đâu ai ngờ sự thật là “chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.” (Is 53,4) Đây là “điểm nóng” để chúng ta phải tự chấn chỉnh cách nhìn của mình đối với tha nhân – dù đó là ai.
Cuộc đời Người Tôi Trung là Bản Trường Ca Đau Khổ, là Liên Khúc Bi Tráng Ca. Thật vậy, họa vô đơn chí, đau khổ cứ chồng chất lên đau khổ, theo phàm tục thì đó là thất bại ê chề, thê thảm. Thế nhưng không phải vậy!
Và rồi Người Tôi Trung “đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.” (Is 53,5) Trong tình trạng Người Tôi Trung bị tơi tả như vậy thì “tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả, nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người mọi tội lỗi của tất cả chúng ta,” để rồi Người Tôi Trung tiếp tục “bị ngược đãi, cam chịu nhục, nhưng chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng.” (Is 53,6-7) Lặng lẽ. Lặng thầm. Nỗi đau thấm sâu.
Nhưng vẫn chưa yên thân mặc dù chịu nhục nhã ê chề đến vậy: “Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới? Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt. Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa.” (Is 53,8-9) Vô cùng kinh hãi, phàm nhân không thể tưởng tượng nổi và không thể chịu đựng được. Vì thế, luôn cần ơn Chúa phù trợ, cụ thể là trong cơn hoảng loạn khắp thế giới vì đại dịch.
Không gì ngoài Thiên Ý với sự quan phòng và tiền định mầu nhiệm: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.” (Is 53,10-11) Ý Chúa đã vậy, đáng khâm phục là đức vâng lời của Người Tôi Trung. Đúng là “Vâng lời trọng hơn của lễ.” (1Sm 15,22; x. Tv 50,8-9) Theo ý Chúa chứ không theo ý mình, nghĩa là từ bỏ chính mình.
Bài đọc dài với đủ dạng đau khổ như thế mà không thấy câu chữ nào vô nghĩa, người nghe cũng không cảm thấy nhàm chán. Thật lạ lùng! Có màu “sáng” nhất ở câu cuối cùng: “Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.” (Is 53,12) Đó cũng là hệ lụy tất yếu cho bất kỳ ai trung tín trong khi chịu gian nan, chịu đau khổ, chịu những điều trái ý mình.
Dù gặp bao trắc trở, Người Tôi Trung vẫn trung tín và kiên tâm cầu nguyện: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con.” (Tv 31,2) Ngay cả cái chết cũng không tách Người Tôi Trung khỏi lòng mến yêu Chúa: “Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín.” (Tv 31,6)
Mặc dù nhận biết mình “nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích đều kinh hãi, tránh xa, bị lãng quên như kẻ chết không người tưởng nhớ, hoá thành đồ hư vất bỏ,” (Tv 31,12-13) nhưng Người Tôi Trung “vẫn tin tưởng nơi Chúa, vẫn dám thưa rằng: Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con. Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ.” (Tv 31,15-17) Và giống như Người Tôi Trung, Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31,25) Điều này càng cần thiết hơn khi chúng ta đang phải đối mặt với đại dịch và sống trong một thế giới phải cách ly như ngày nay.
Để chia sẻ kinh nghiệm tâm linh, Thánh Phaolô giải thích: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.” (Dt 4,14-16) Qua đó, chúng ta thấy Đức Giêsu đã mặc xác phàm yếu đuối như chúng ta để đồng lao cộng khổ với chúng ta, và đặc biệt là để động viên chúng ta vượt qua mọi “ngưỡng” đau khổ, cách riêng là vượt qua cửa ải sự chết, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại, khi đau khổ và tử thần luôn ở gần.
Thánh Phaolô nói thêm: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.” (Dt 5,7-9) Bài học quá đắt giá, nhưng cái gì càng đắt giá thì càng giá trị cao!
Bài Thương Khó là đoạn Phúc Âm buồn thảm nhất trong Kinh Thánh. Người Tôi Trung Đau Khổ Giêsu là nhân vật độc nhất vô nhị, nổi tiếng nhất trong lịch sử xưa nay và đến mãi tận thế. Bằng cách này hay cách khác, càng ngày người ta càng phải công nhận Con Người Thiên Chúa ấy, ngay cả những người cố ý tỏ ra không công nhận nhưng thực ra trong thâm tâm họ vẫn công nhận. Thánh quốc Vatican nhỏ bé nhất, nhưng cần gì thì người ta vẫn phải nhờ giáo hoàng can thiệp. Đó là bằng chứng cụ thể.
Trình thuật Ga 19,1-42 cho biết “chuyến đau khổ” của Chúa Giêsu bắt đầu từ Vườn Dầu. Sau Bữa Tiệc Ly, Ngài đi ra cùng với các môn đệ sang bên kia suối Kítrôn, vào một thửa vườn. Giuđa cũng biết nơi này, vì lâu nay Thầy trò thường quy tụ ở đó. Ông ta lặng lẽ đi trong đếm tối để làm điều mờ ám.
Cũng ngay đêm đó, Giuđa tới và dẫn một toán quân với đám thuộc hạ của các thượng tế cùng nhóm Pharisêu. Họ mang theo đèn đuốc và khí giới. Đức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi họ tìm ai. Họ thản nhiên nói là tìm Giêsu Nadarét. Ngài nhận ngay: “Chính tôi đây.” Mới nghe vậy, họ liền lùi lại và ngã xuống đất. Ngài hỏi lại, họ vẫn nói là tìm Giêsu Nadarét. Ngài vẫn nhận mình là người họ tìm, chấp nhận cho họ bắt Ngài nhưng Ngài yêu cầu không bắt bất cứ ai đi với Ngài. Điều này ứng nghiệm lời Ngài đã nói trước: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.”
Khi đó, ông Phêrô có sẵn thanh gươm liền tuốt ra và chém đứt tai phải của Mankhô, đầy tớ của vị thượng tế. Ngài bảo ông Phêrô xỏ gươm vào bao, và giải thích rằng Ngài sẵn sàng uống chén mà Chúa Cha đã trao. Họ bắt Ngài và dẫn Ngài đến ông Khanan, nhạc phụ của thượng tế Caipha. Chính Caipha đã đề nghị với người Do Thái là “nên để một người chết thay cho dân thì hơn.” Một ý thâm độc ẩn giấu trong lời nói có vẻ nhân đạo. Giả tạo!
Mặc dù bị chất vấn và tra khảo, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói thẳng và nói thật chứ không run sợ trước thế lực của họ, có người vả vào mặt Ngài, nhưng Ngài vẫn hỏi vặn lại: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23) Tất nhiên họ chẳng nói lại được gì, mà chỉ “cả vú lấp miệng em.” Rồi ông Khanan cho giải Ngài đến thượng tế Caipha trong khi Ngài vẫn bị trói. Kẻ ác càng thâm độc thì càng hèn hạ, dù người khác không có vũ khí và không chống cự.
Ở ngoài sân lúc đó, ông Phêrô bị người ta phát hiện thuộc nhóm của Chúa Giêsu nên ông sợ và chối thẳng thừng, không chỉ một mà tới ba lần. May có tiếng gà gáy sáng, và ông đã ăn năn.
Người Do Thái lại điệu Chúa Giêsu từ nhà ông Caipha đến dinh tổng trấn Philatô khi trời vừa mới sáng. Họ không vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Bề trong không lo mà chỉ lo bề ngoài, thật là tồi tệ. Đến nước này rồi mà còn lo sợ nhiễm uế. Giả hình!
Khi đó, ông Philatô hỏi đủ điều nhưng Ngài chỉ im lặng. Chính ông ta cũng nhận thấy Ngài không có tội gì và có ý phóng thích Ngài, nhưng ông ta vẫn không dám làm theo tiếng nói lương tâm vì ngại với đám đông, sợ mất chiếc ghế chức tước và quyền lực. Nghe Chúa Giêsu nói về sự thật, ông ta còn “giả nai” hỏi lại: “Sự thật là gì?” (Ga 18,38) Bà vợ bảo ông ta đừng nhúng tay vào vụ án xử Chúa Giêsu, ông ta đi lấy nước rửa tay. Hết nước nói. Các động thái của ông Philatô cho thấy sự hèn nhát và cố ý làm ngơ công lý. Đó là điều chúng ta phải cảnh giác khi hành động, nhất là những gì liên quan sự thật và công lý.
Người ta thường tha một phạm nhân nào đó vào dịp lễ Vượt Qua theo tục lệ Do Thái. Rồi người ta hùa nhau xin tha cho tướng cướp khét tiếng Baraba, nhưng lại xin giết chết Đức Giêsu. Mới trước đó không lâu, ở Thành Giêrusalem, người ta vui mừng tung hô vạn tuế Đức Giêsu là “Đấng nhân danh Chúa mà đến” mà giờ đây lại quyết xin đóng đinh người mà họ đã tôn vinh. Lật mặt như trở bàn tay.
Thế là ông Philatô truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Ngài. Họ hành hạ Ngài với những kiểu dã man nhất. Sau đó, ông Philatô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài cho người ta thấy Ngài thê thảm thế nào với vòng gai trên đầu mà thôi kết án Ngài. Thế nhưng họ vẫn không chút mủi lòng, cho rằng Ngài lộng ngôn khi nhận mình là Con Thiên Chúa. Họ càng thấy Ngài bị hành hạ tơi tả thì họ càng vui sướng: “Đóng đinh nó vào thập giá!”
Khi nghe họ hô vang lời đó, ông Philatô càng sợ hơn nữa. Sợ gì? Sợ mất chức, mất chức thì mất quyền, mất cả bổng lộc. Tư lợi to hơn công ích. Ông ta bảo ông có quyền tha và có quyền đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá, nhưng Ngài nói ngay: “Ông không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ông. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ông thì mắc tội nặng hơn.” Ông Philatô tìm cách tha Ngài nhưng vẫn không dám thực hiện vì bị áp lực của đám đông.
Người ta bắt Ngài tự vác lấy thập giá đi đến Núi Sọ. Cùng chung hình phạt đóng đinh vào thập giá với Ngài là hai tên gian phi khét tiếng. Phía trên thập giá có ghi: “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái.” Vô tình mà họ đã phải công nhận Chúa Giêsu là Vua dân Do Thái. Bảng chữ đó ghi bằng đa ngữ: Do Thái, La ngữ và Hy ngữ. Các thượng tế của người Do Thái muốn sửa lại, nhưng ông Philatô không muốn thay đổi. Đó cũng là ý Chúa muốn vậy!
Từ trên Thập Giá, Đức Giêsu trao phó Đức Mẹ cho ông Gioan chăm sóc, và xin Đức Mẹ nhận chàng trai Gioan làm con. Nghe những lời trăn trối như vậy thì hẳn ai cũng phải mủi động. Biết mọi sự đã hoàn tất, Chúa Giêsu kêu lên: “Tôi khát!” Nghe vậy mà người ta lại nhẫn tâm lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một cành hương thảo, rồi đưa lên miệng Ngài. Nhắp xong, Ngài nói: “Tetelestai – Thế là đã hoàn tất!” Rồi Ngài gục đầu xuống và trao Thần Khí. Thế là hết, nhưng chưa chấm dứt.
Lời kêu khát của Chúa Giêsu nhắc chúng ta về niềm khát khao của Ngài dành cho chúng ta là mỗi chúng ta đều phải nỗ lực NÊN THÁNH, nhắc nhở chúng ta yêu mến THÁNH THỂ, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta đừng làm ngơ trước những nỗi khát khao của tha nhân – nhất là đối với những con người hèn mọn luôn ở bên chúng ta hằng ngày, mọi nơi và mọi lúc.
Hôm đó là ngày áp lễ, người Do Thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày đại lễ sa-bát. Vì thế họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh cho họ mau chết để rồi lấy xác xuống cho kịp trước khi đêm xuống. Họ đánh giập ống chân hai người cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Ngài đã chết, họ không đánh giập ống chân Ngài. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Ngài, tức thì, MÁU cùng NƯỚC chảy ra. Tứ đó, Nguồn Suối Lòng Thương Xót tuôn chảy mãi cho đến tận thế để ai nhìn lên Ngài và thành tâm tín thác thì sẽ được hưởng Ơn Cứu Độ. Chúa đã hứa thì chắc chắn như vậy.
Rồi Thánh Thể Đức Giêsu được hạ xuống khỏi Thập Giá, được đưa đi an táng theo tục lệ chôn cất của người Do Thái tại một thửa vườn. Nỗi buồn “dừng lại” nhưng vẫn âm ỉ trong lòng mọi người. Tuy nhiên, Ngày Thứ Sáu Buồn này lại chính là Ngày Thứ Sáu Tốt Lành, Ngày Thứ Sấu Hồng Phúc đối với nhân loại. Chúa Giêsu chịu đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, Ngài chịu thua cuộc để chúng ta chiến thắng, Ngài chịu chết để chúng ta được sống. Chúng ta tưởng niệm cái chết của Ngài nhưng không phải là để thương xót Ngài mà là thương xót chính số phận của chúng ta: “Số phận chúng con ở trong tay Ngài, xin giải thoát thế giới khỏi đại dịch.” (x. Tv 31,16)
Mặc dù là những tội nhân khốn nạn, nhưng thật hạnh phúc cho chúng ta, vì Thánh Phaolô xác định: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa.” (2 Cr 5,19) Thứ Sáu Tuần Thánh là cột mốc đánh dấu lời hứa đó, như Cựu Ước cũng đặt vấn đề: “Nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130,3) Thật là đại phúc cho chúng ta, đang chịu án tử mà lại được trắng án. Trên cả tuyệt vời!
***
Lạy Thánh Phụ nhân từ, xin thương xót và tha thứ cho chúng con. Lạy Thánh Tử Giêsu, chúng con xin lỗi Ngài, cảm tạ Ngài đã cứu độ, xin giúp chúng con nhổ những chiếc đinh mà chúng con đóng vào chân tay Ngài, rồi lại đóng vào cuộc đời anh chị em của chúng con hằng ngày. Xin Đấng Cứu Thế Giêsu Kitô cứu độ những người thiệt mạng vì đại dịch corona. Chúng con chân thành cầu xin nhân danh Người Tôi Trung Đau Khổ Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Trầm Thiên Thu